LỜI TRÌNH BÀY
(Về bài học Thường-Niên)
Bài học Thường-Niên rất cần cho người Đạo, nên Hội-Thánh và các Ban, Bộ hằng năm phải trả ôn lại tuần tự trong những kỳ Đạo-Tràng Đại-lễ kỷ niệm, một năm phải cho giáp mười một bài để nhắc nhớ bổn phận mình đã là Đạo và Lãnh-đạo, và rất cần thiết cho người muốn nhập môn theo Đạo.
Bài học Thường-Niên có tất cả mười một bài, mười bài trước dạy cho Chức-sắc và Bổn-Đạo; nên người muốn nhập môn phải học thuộc mười bài nầy mới nhập môn (do Đức Huệ-Đăng Cổ-Phật dạy ngày 28 tháng 11 Ất-Mùi 1955 (3 giờ chiều.). Còn bài thứ mười một dạy về bực Lãnh-đạo
Bài học Thường-Niên đã có in trong kinh Đạo Qui Lý Nhiệm, nhưng đến đây Giáo-Hội rất khiếm kham bộ kinh nầy nên tạm trích lục cho Bổn-Đạo học để giữ gìn bổn phận.
Nay trình
Thiên-Tòa Hoàng-Đạo, ngày 14/6 Kỷ-Sửu
nhằm ngày 4/8/2009
****************************
Bài học năm Mậu-Dần 1938
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 1 Annam năm Mậu-Dần, giờ Ngọ năm 1938
-------o0o-------
Ớ các trẻ rường cột cho Trung-Ương phải ráng nghe lời của Bổn-Sư đây mà tự xét.
1.- Thầy chọn trẻ ra làm rường cột
Thương mến nhau như một mới hòa
Đã rằng con ở một nhà
Mà không thảo thuận Mẹ Cha vui gì.
2.- Rất uổng tiếng tu my Nam-tử
Nam như vầy làm nữ cho xong
Đường đường một vị Thiên-phong
Lời ăn tiếng nói chưa thông Đạo-mầu.
3.- Trưa những sớm cơ cầu húng hính
Gái cùng trai lo tính mưu gian
Than ôi! họa phước hành tàng
Dể ngươi ắt phải vướng mang lưới Trời.
4.- Tại Tòa-Thánh là nơi tu-niệm
Lòng các con nham hiểm vẫn còn
Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn
Trong lòng tính việc chia môn rẽ vời.
5.- Thiệt các trẻ coi Trời quá nhẹ
Rất uổng công quì lạy đau mình
Còn thua mấy đứa làm thinh
Lòng không độc ác tánh tình thẳng ngay.
6.- Còn một nỗi phô bày chuyện lạ
Ắt có ngày mang họa hại mình
Thầy thương nên dạy đọc kinh
Mà con không đọc đọc tinh chuyện xằng.
7.- Làm nhiều việc nhố-nhăng quá ngán
Cho nên đời ngạo báng Cao-Đài
Mình hư còn trở trách ai
Ôi thôi! uổng tiếng gái trai con Trời.
8.- Thầy nhắn nhủ một lời kỳ chót
Muốn tu thì bỏ bớt điều hư
Chí-Tôn là Đấng Đại-Từ
Hổ ngươi dòm thấy con hư cả bầy.
9.- Các trẻ gặp kỳ nầy là quí
Sẵn mối giềng Chơn-Lý ráng phăng
Dư muôn năm mới một lần
Gần Trời chẳng muốn, muốn gần quỷ ma.
10.- x Các con lớn nhỏ gần xa
Đạo dầu không Đạo ráng mà nghe theo
Đạo không chọn lựa giàu nghèo
Đạo là quyết cứu hiểm nghèo cho an.
****************************
Bài học năm Kỷ-Mão 1939
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 12 Annam 1938 (2 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy các con Nam Nữ có lòng lo Đạo trở về Tòa-Thánh mà làm lễ Thưởng-Xuân. Vậy ráng nghe Thầy dặn đây làm cho y theo, có ngày hưởng phước nghe các con.
THI
Năm nay đã mãn Mậu-Dần
Bước sang Kỷ-Mão tuổi lần thêm cao.
1.- Phần sanh tử nghèo giàu thay đổi
Đó là do phước tội cân trừ
Con nào còn chút phước dư
Thì lo bước tới làm như năm rồi.
2.- Con nào muốn gây bồi tội ác
Thầy cũng vui chuyển phạt lưu đày
Hễ làm thì chịu không sai
Chớ kêu oan ức rằng ai hại mình.
3.- Thầy trước có đinh ninh lời dặn
Kiếp Mậu-Dần Thầy gạn từ tên
Việc tu là quí tại bền
Vững cùng không vững thưởng đền trừng răn.
4.- Làm việc phải Hồng-ân để sẵn
Làm việc nguy án nặng ghi rồi
Tu hành giải đải thả trôi
Thì mang thêm tội ngược xuôi ngạo Trời.
5.- Tu là để cứu đời cho tỉnh
Mình còn mê chưa định lẽ nào
Chẳng rành căn trước kiếp sau
Chẳng thông báo ứng, chẳng nao đọa đày.
6.- Con nào rõ lời Thầy nói đó
Xét phận mình coi có vậy không
Chớ ham tính việc đèo bồng
Cải canh bác luật khó phòng lập thân.
7.- Theo thế kỷ hết Dần rồi Mẹo
Theo phận người hết khéo rồi khôn
Trước sau ngó lại xác hồn
Quanh qua quẩn lại Càn Khôn một bầu.
8.- Dầu cho chạy đáo đầu không khỏi
Dầu bạo hung đến đỗi không nhầm
Biết Trời đổi tháng thay năm
Mình sao lại chẳng đổi lầm ra nên.
9.- Chỉ cố muốn tuổi tên cho lớn
Đặng xưng mình người lớn khôn nhiều
Thầy nhìn khổ biết bao nhiêu
Mảng xưng khôn lớn mà tiêu Linh-Hồn.
10.- Khôn mà chẳng rõ khôn là khéo
Lớn không rành chỉ nẻo dữ lành
Ích gì lớn tập cành nanh
Vì ưa khôn quỷ tội sanh ra nhiều.
11.- Một năm tính mấy nhiêu ngàn tuổi
Đếm số người số tuổi ghi dồn
Khắp trong một quả Kiền Khôn
Người đâu tuổi đó lớn đông vô cùng.
12.- Các con cũng có tùng Thiên-mạng
Thì phải suy cho cạn các lời
Bớt lần cái tật dể ngươi
Bớt lần cái thói ăn chơi qua ngày.
13.- Người muốn đặng lâu dài tên tuổi
Thì trước lo sửa đổi kịp thời
Mắt nhìn thấy rõ các nơi
Các nơi thì cũng một Trời như đây.
14.- Tại sao lại đó vầy đây khác
Lấy đó mà tự giác răn lòng
Thầy thương con Lạc, cháu Hồng
Phần đông ngu dại có lòng mộ tu.
15.- Mở Đại-Đạo vẹt mù Sanh-chúng
Lọc lừa sau để dụng lâu dài
Con nào chịu nhọc là may
Là trong chỗ nhọc hằng ngày học tu.
16.- Cách lừa lọc sửa ngu ra trí
Là Vô-Vi nhi trị tâm phàm
Con đồng cả thảy Nữ Nam
Răn trừng dạy đủ chịu làm thì nên.
17.- x Đó Thầy muốn nối tuổi tên
Đó là Thầy buộc thiện duyên lâu dài
Con nào chẳng thuận lời ngay
Thì thôi đừng có níu ai theo mình.
18.- Để cho mình chịu một mình
Trước sau kết cuộc dễ nhìn, dễ xem
Đạo là qui-củ hốt-chiêm
Cao Kiên hữu dụng luật nghiêm từ nào.
19.- Làm người xem trước ngó sau
Có chi đâu lạ, có nào là xa?
Có tên, có tuổi, có già
Có khôn, có dại, đó là đường đi.
20.- Một đời chán ngán xiết chi
Vì trong khôn dại, thị phi vô chừng
Lỡ lầm lại với oan ưng
Cả hai điều đó tại chưng hỏng hờ.
21.- Xét suy cho kỹ đặng nhờ
Trớ trêu thì hại, ai ngờ đặng ai
Ngày xuân dặn trẻ một bài
Để coi mà học phải vầy hay không?
22.- Đó là chỗ gặp Chủ-Ông
Chủ-Ông là chỗ cái không Ta Người
Ráng nghe từ tiếng, từ lời
Mỗi câu, mỗi vé, có Người, có Ta.
23.- Trong không mà có đây là
Có cùng không có tại hòa với kiêu
Mỗi con nghe đặng ít nhiều
Giờ dư suy xét rõ điều nhặt thưa.
****************************
Bài học năm Canh-Thìn 1940
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 12 Annam 1939 (1 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy các con nghe Thầy dặn:
1.- An an biến biến đổi dời
Các con dầu Đạo, dầu Đời nhớ câu
Nhớ câu thiện ác đáo đầu
Nhớ rồi khuyên chớ cơ cầu bỏ qua.
2.- Cuộc Thầy lập gầy ra cơ thể
Dựng nền nhơn tại thế hiện thời
Đạo Đời, Đời Đạo hai nơi
Song đều răn thưởng một Trời phán minh.
3.- Các con chớ tưởng mình là đúng
Dám chê Trời lại dụng phàm tâm
Cả gan bày bác mưu thầm
Tưởng cho là phải, phải nhằm vào đâu.
4.- Câu thiện ác đáo đầu là vậy
Phải vào đâu chỗ thấy không nhầm
Chỗ vào tới đó tối tăm
Tối tăm rồi cứ họa lâm theo kề.
5.- Than phiền cuộc thảm thê là đó
Nhìn tấm thân còn có ra gì
Cũng là tại thói hiềm nghi
Hiềm nghi vô lý, đường đi quên nhìn.
6.- Rốt Kỷ-Mão, Canh-Thìn bước tới
Cơ Đạo-mầu ngày mới sắp sang
Hễ tu thì khỏi buộc ràng
Là tu cho thiệt, đừng bàn cãi riêng.
7.- Trong chỗ thiệt là duyên nối chặt
Nối chặt bền dầu ngặt cũng qua
Dặn dò con cả Giái-ba
Hễ tu Chơn-Lý đừng xa Đạo-Tràng.
8.- Mỗi ngày học là an tâm tánh
Được an rồi sức mạnh ngày thêm
Mạnh là vui đẹp vẻ êm
Thần tươi, Khí hạo, Tinh điềm dưỡng chơn.
9.- Nhờ nương học oán hờn không kết
Học rồi hành tự xét dò đon
Rõ thông sao mất, sao còn
Biết cơ Trời Đất độ tồn bảo Linh.
10.- Nếu biết được là vinh trong đó
Đó là tiêu nghiệt khổ tai nàn
Vậy rằng gọi học là an
Hễ an thì thấy sức càng mạnh thêm.
11.- Cả Nam Nữ ráng tìm mà học
Kinh của Thầy sách đọc càng vui
Đọc đâu hiểu đó rõ mùi
Đó là Thầy cứu độ đời tỉnh tâm.
12.- x Ráng coi, ráng xét, ráng tầm
Ráng làm theo đó cho nhằm gọi hay
Tuy là thời cuộc đổi xây
Cứ nhìn theo đuốc Thầy khai dễ bề.
13.- Dễ là chẳng vướng thảm thê
Bề an theo vận đừng khoe sức phàm
Rõ bề, rõ vận thì ham
Ham vùa theo Đạo chẳng nhàm, chẳng phai.
14.- Ngưỡng triêm lòng dạ lâu dài
Quyết tuân đường cả có Thầy độ cho
Qua ngày ngoài ấm trong no
Miễn đừng quên Đạo, đừng so sánh Đời.
15.- An qua biến lại cuộc đời
Muốn an thì học Đạo Trời giải mê
Là an tâm trọn không hề
Hề chi thế tục thuộc về tính quanh.
16.- Đi theo đường cả Đại-Thành
Tục quanh tính lộn ngày sanh biến hoài
Nghe rành hiểu đặng khỏi sai
Trong lời Thầy nói từ nay chẳng mòn.
17.- Nước non khi mất khi còn
Lời châu tiếng ngọc dạy đồng cổ kim
Tại chưng nhiều đứa chẳng tìm
Chẳng tìm thì chịu đắm chìm tục mê.
18.- Chỉ chừng Đất chở, Trời che
Chỉ cho có tiếng lòng mê vẫn còn
Kiếp đời tại đó thon von
Nghịch cơ Trời lập, thân mòn thể hư.
19.- Chẳng tường luật cả vô tư
Tưởng cho Trời Phật cũng như tay phàm
Đó là còn luyến tục tham
Nên đành theo vậy, vậy làm vậy ưng.
20.- Con nào biết trọng oai ân
Đó là đặng thoát tục trần rảnh rang
Canh-Thìn năm mới bước sang
Ra lời chỉ tột biến an mọi điều.
21.- Mỗi con nào học ít nhiều
Học khoa Đạo-Lý rõ điều luật chung
Rồi đem ra độ nhau cùng
Đừng chia nhĩ ngã, ráng phòng tự tôn.
22.- Thói đời thì tính dại khôn
Đạo Thầy Chơn-Lý đừng mong lập quyền
Mỗi con cần nhớ chữ hiền
Nhớ làm cho đúng phỉ nguyền trọn vui.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo coi mà học, buộc phải trả bài từ ngày 15 tháng 1 cho tới 15 tháng 4. Bài nầy đừng có bỏ qua gọi là trái lịnh. Trừ ra kẻ dốt không thế học đặng, tuổi già hay là có bịnh thì phải để lòng nghe, nếu dể ngươi thì có tội.
****************************
Bài học năm Tân-Tỵ 1941
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 12 Annam 1940 (6 giờ sáng)
-------o0o-------
Nầy các con ôi! năm Canh-Thìn hầu mãn thì Tân-Tỵ bước sang, đó các con phải biết rằng Tuần-Ư Tế-Vận nghe các con.
Đây Thầy cho ra một bài đặng cho mỗi đứa nào có thích chí tu-hành, lánh đời thống khổ thì ráng nghe mà coi cho kỹ đặng dè dặt lo lường, tới lui phải quyết, vinh nhục phải tường, chớ đừng có vội nói Thầy sao quá lời dụ dỗ nghe.
THI
1.- Thầy thương nên mở Đạo-mầu
Cứu Đời cho khỏi đáo đầu nạn tai
Tại chưng phàm tục luyến hoài
Luyến cho cùng bước thì tai nạn kề.
2.- Đến chừng đó vậy còn chê
Là chê Trời lập Đạo quê hơn phàm
Biết sao Thầy nói cho nhàm
Vì con nhiều đứa nhiều ham vọng cầu.
3.- Cơ Trời thời cuộc chẳng lâu
Mười năm dạy dỗ một câu chí thành
Tại sao mà lại chê đành
Vậy thì trong mỗi con nhìn hỏi nhau.
4.- Nhìn nầy nọ đó ra sao
Nhìn coi Trời Phật chỗ nào ghét ai
Hỏi sao mình lại chê hoài
Chê hoài rồi hỏi lại tài ở đâu?
5.- Tài chi tránh khỏi đáo đầu
Tài chi mà lại bỏ câu chí thành
Có tài thủ lợi cầu danh
Có tài như vậy mới sanh đáo đầu.
6.- Cho nên Thầy mở Đạo-mầu
Là danh chẳng chuộng, lợi hầu chẳng mê
Trước sau là trọn an bề
Là đai bầu chịu hèn quê chẳng nài.
7.- Nhớ vầy làm vậy có ai
Tại không có vậy, tội ngày lớn lao
Lớn rồi muốn nhỏ liệu sao
Sẵn Thầy ra dạy tại sao cãi Thầy?
8.- Cao nầy thấp nọ không hay
Chừng cho tới lụn nói ai biểu mình?
Một năm rồi đó Canh-Thìn
Thì cơ họa phước dữ lành chẳng sai.
9.- Bước sang Tân-Tỵ rộng dài
Là trong tuổi lớn người đây nhớ người
Nhớ người đặng bớt ăn chơi
Ăn chơi rồi quá khổ đời vậy nghe.
10.- Vậy nghe lời vậy kiêng dè
Trời ra mở Đạo ráng nghe đặng nhờ
Quá ăn chơi quá hỏng hờ
Hỏng hờ rồi hết đợi chờ chịu thôi!
11.- Trời thôi hết đợi chờ rồi
Thì thân người đó vậy người hay ai?
Hỏi nầy dầu gái dầu trai
Ráng mà nghe hỏi đặng ai nấy tuần.
12.- Tuần cơ vận chuyển mấy chừng
Mấy chừng rồi đó vậy ưng hay lầm
Gạn lòng hỏi lại tánh tâm
Thì con mỗi đứa nhớ thầm tự do.
13.- Tự do tín ngưỡng ráng dò
Dò theo lời dạy đặng cho biết Trời
Ngặt nghèo khó lắm con ôi!
Muốn ra cho khỏi vậy xuôi với Thầy.
14.- Xuôi bề gầy cuộc nối dây
Đặng làm cho vững lâu dài Đạo-tâm
Ráng phân, ráng định cho nhằm
Ích chi lời nói giành cam lấn vùa.
15.- Giành là giành chẳng chịu thua
Cam nhiều tội lỗi gọi mua giống tà
Lấn người mà chẳng xót xa
Vùa theo hủ tục kể ra vô cùng.
16.- Mỗi con nào biết qui tùng
Sợ Thầy lo phận lành chung hưởng nhờ
Chẳng tùng qui luật vận cơ
Thì thôi đừng có ước mơ vái Trời.
17.- Nầy năm Tân-Tỵ tới rồi
Để lời khuyên nhủ Đạo Đời nhớ nhau
Nhớ nhau trong lúc nghèo giàu
Nhớ nhau nầy nọ chậm mau xa gần.
18.- Nhớ rồi thân tự nghĩ thân
Nghĩ thân người sống mấy lần thạnh suy
Nhớ coi tranh cạnh ích gì?
Nhớ hồi nhịn nhục nghĩ vì tại đâu?
19.- Tại vì trong chỗ rún nhau
Tại vì máu thịt biết đau đớn đồng
Cho nên nhớ lại đau lòng
Nghĩ đời thêm cảm vầy trong đục vầy.
20.- Trong ngần vậy cũng người đây
Đục mù coi lại tiếng mầy nói tao
Cả trong người lộn ta vào
Giành trong ghét đục cùng nhau cãi bàn.
21.- Muốn trong mà lóng chẳng màng
Làm hơi lánh đục lại toan quậy bùn
Đó là giành giựt khốn chung
Cũng vì không học lý trung Đạo-mầu;
Mỗi con Chơn-Lý sẵn hầu
Hầu nghe Thầy tỏ sự đầu năm xuân.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho con một bổn, còn ba Đầu-Sư thì phải in ra phát cho Đạo Nam Nữ đặng học trả bài cho tới ngày lễ Tam-Tôn là mãn.
Trừ ra người dốt hay là tuổi già có tật, không thể học đặng thì buộc phải lóng nghe đừng có bỏ qua mà có tội, đó là tội chê lời Thầy.
Còn Thập-Ngũ Linh-Đăng thì phải trả ngày lễ Thượng-Nguơn cho đủ.
****************************
Bài học năm Nhâm-Ngọ 1942
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 11 Annam 1941 (12 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy mỗi con, năm nay Tân-Tỵ gần mãn rồi thì năm Nhâm-Ngọ sẽ nối kế đây, nhưng mà Thầy xem lại cái chỗ tu hành phần đông vẫn còn sơ sót. Vậy Thầy cho ra ít lời để đọc cho nhuần đặng hầu lo bề cho trọn nghe mỗi con.
THI
1.- Hễ tu hành chớ cãi Trời
Hễ tu thì học theo lời dạy tu
Hễ tu đừng có oán thù
Hễ tu thì nhớ nhược nhu thắng cường.
2.- Hễ tu thì nhớ cho Thường
Hễ tu thì Thiệt Tin đường Đạo-tâm
Hễ tu thì định cho nhằm
Hễ tu thì dứt phàm tâm chớ buồn.
3.- Hễ tu thì nhớ cội nguồn
Hễ tu thì niệm đừng buông chí thành
Hễ tu thì lý cho rành
Hễ tu thì cứ phận hành chí chơn.
4.- Hễ tu khó nhọc chớ sờn
Hễ tu thì chớ phủi ơn dặn dò
Hễ tu thì nhớ phận trò
Hễ tu thì chớ sánh so lợi quyền.
5.- Hễ tu thì nhớ chơn truyền
Hễ tu đừng cậy ý riêng theo phàm
Hễ tu điều phải lo làm
Hễ tu đừng có vội tham quên Trời.
6.- Hễ tu thì phải thương người
Hễ tu đừng có dựa hơi thế thần
Hễ tu thì dứt tục trần
Hễ tu thì giữ tinh thần tốt tươi.
7.- Hễ tu đừng có biếng lười
Hễ tu thì ráng kịp thời mới hay
Hễ tu đừng nạnh tao mầy
Hễ tu thì biết một Thầy ráng lo.
8.- Hễ tu chừa tật reo hò
Hễ tu đừng thói tự do khi người
Hễ tu đời sống biết đời
Hễ tu thì chớ ham lời thị phi.
9.- Hễ tu thì giữ nhơn nghì
Hễ tu thì chớ phân bì chuyện hư
Hễ tu thì hạnh nhơn từ
Hễ tu đừng sợ phước dư mà lầm.
10.- Hễ tu thì xét âm thầm
Hễ tu thì ráng nghiệm tầm cổ kim
Hễ tu thì quyết trọn niềm
Hễ tu đừng có lo tìm dị đoan.
11.- Hễ tu đừng có mơ màng
Hễ tu thì có Thiên-Đàng đợi trông
Hễ tu thì cứ một lòng
Hễ tu đừng vọng nghiêm phòng tự tôn.
12.- Hễ tu thì hiệp tâm tồn
Hễ tu nào có cậy khôn chê hèn
Hễ tu thì ráng tập rèn
Hễ tu thì tránh lời khen bợ lùa.
13.- Hễ tu thì chịu quê mùa
Hễ tu thì ngán sự đua thói đời
Hễ tu người phải nên người
Hễ tu đừng dựa vào nơi bất hòa.
14.- Hễ tu thì tránh mị tà
Hễ tu thì biết Phật, Ma cho rành
Hễ tu đừng có nói hành
Hễ tu đừng vị, đừng sanh chuyện nhiều.
15.- Hễ tu nói phải lựa điều
Hễ tu đừng có dệt thêu khoe tài
Hễ tu thì buộc mỗi ngày
Hễ tu thì nhớ một Thầy tại tâm.
16.- Chớ rằng tu niệm nhiều năm
Mà quên kềm thúc họa lâm khó trừ
Tu hành đừng để giờ dư
Ráng mà thâu mót đặng cư xử tròn.
17.- Hết lòng Thầy quá thương con
Hễ tu hành phận thì son sắt bền
Thương thì lo dạy cần nên
Phải nào thương để đặt tên có chừng.
18.- Thiệt nên Thầy quá đỗi mừng
Mừng cho con dại chịu vưng tiếng lành
Chớ đâu thì cũng tu hành
Nói ra thì vậy buộc rành khó khăn.
19.- Định-Tường là lý Bổn-căn
Nên Thầy thường giáng dạy răn thúc kềm
Đặng hòa một chỗ cho êm
Ngoài ra nhiều chỗ nghiệm chiêm ngưỡng lần.
20.- Bước sang Nhâm-Ngọ hầu gần
Ngày xuân ráng học sang lần tới thu
Đặng dò cho đúng lẽ tu
Đặng an bề một phá ngu ngộ hiền.
21.- Mỗi con chừng ấy phỉ nguyền
Là tu chịu thấp, nay liền thấy cao
Rồi trong phe đảng ồn ào
Quá hung thì lụy, đâu nào có sai.
22.- Gần sang Nhâm-Ngọ cho bài
Mỗi con cần học bề ai nấy làm
Hễ tu thì vậy không lầm
Hễ tu thì biết định-tâm có Trời.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho nhiều phát ra cho Đạo coi mà học. Thầy hạn cho con từ ngày Lập-Xuân bắt đầu học đặng trả bài cho tới ngày Lập-Thu là đủ (nhằm ngày 27/6 annam). Ngày 15 tháng 1 năm Nhâm-Ngọ trong Thập-Ngũ Linh-Đăng cùng Chức-sắc lớn bên phái Nữ phải trả ngày đó cho rồi, đó là trả bài thứ nhứt rồi cả thảy các nơi cũng phải trả cho đúng ngày định trên đó.
Phần Thiên-Sư phải gởi cho các chủ Thánh-Thất hay, đặng truyền ra mà học, dầu Đồng-Nhi cũng vậy. Tại Thánh-Tòa phải dán Đông-Lang, Tây-Lang mỗi chỗ một bổn đặng trong Đạo coi mà học, phải đề tựa là "Bài học ngày xuân" đặng mỗi người dễ kiểm.
****************************
Bài học năm Quý-Vì 1943
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 11 Annam 1942 (3 giờ chiều)
-------o0o-------
Nầy mỗi con, năm Nhâm-Ngọ nầy tới đây hầu mãn, vậy thì năm tới đây là năm Quý-Vì, trong đó mỗi con dầu Nữ dầu Nam ráng nghe Thầy dạy đây học rồi chiêm nghiệm nghe mỗi con.
THI
Càn Khôn thế giới vận hành
Mỗi con cần nhớ Đạo-Thành lý nhu.
1.- Tuy là chỗ hèn ngu quê dốt
Hễ biết tin Trời một ngôi hòa
Nghiệm lời tâm lý làm ra
Mỗi điều không hổ thẹn Ta với Người.
2.- Mỗi con nhớ Đạo Trời là đó
Đó hằng ghi chịu khó lo tròn
Ráng nhìn kia nước nọ non
Ráng coi Trời thưởng phạt trong lúc nầy.
3.- Coi rồi thấm rồi hay vận hóa
Rồi mới thông thiệt giả hai điều
Thông rồi dò lý làm theo
Có đâu mà đến chuyện nghèo hiểm đâu.
4.- Nghe Thầy nói một câu thì biết
Biết nhờ không mài miệt của trần
Miễn làm cho có nuôi thân
Bề trong lòng chớ quên phần Đạo-tâm.
5.- Con ôi cả dầu Nam, dầu Nữ
Ráng mà cân, mà xử lấy mình
Rõ điều tiêu trưởng hư dinh
Có chi rằng trọng rằng khinh tiếng phàm.
6.- Tiếng phàm tục là ham bợ đỡ
Người ít tu chẳng sợ tiếng nầy
Bợ nhiều, đỡ lắm gọi hay
Mà không dè đó có ngày lụy thân.
7.- Thầy dạy ráng mà cân là đó
Mà xử thân mình nhớ phận mình
Nhớ mình tu thiệt là linh
Nhớ chừa phe đảng tâm bình hạnh an.
8.- Muôn năm có Đạo-Tràng Chơn-Lý
Mở mang lời khử mỵ hồi trung
Cậy nương vầy khỏi cuối cùng
Khỏi rồi khuyên nhớ sự chung thỉ thành.
9.- x Năm năm lời dặn hỏi rành
Từ câu, từ vé nhọc nhành biết bao
Hiện giờ là Lý chuyển giao
Định rồi không sái người mau hỏi người.
10.- Hỏi người ai tập ăn chơi
Hỏi người ai dạy dể ngươi chi vầy
Hỏi người ai biểu thày lay
Hỏi người ai nói, ai bày dị đoan.
11.- Hỏi người ai cậy làm ngang
Hỏi người ai vướng tội mang khổ dồn
Hỏi người ai mượn tài khôn
Hỏi người ai biểu giục bôn tranh quyền.
12.- Hỏi người ai chỉ thiện duyên
Hỏi người ai xúi quên hiền nhớ ngu
Hỏi người ai cản đường tu
Hỏi người ai quến, ai rù chuyện hư.
13.- Nghĩ từ cổ vãng kim như
Việc tu hành chánh thiện từ giúp nhau
Có thân thì có nghèo giàu
Có tu thì biết hạng nào cũng thân.
14.- Dầu cho Tiên, Phật, Thánh, Thần
Hiện nay sùng bái, xưa cần lý tu
Mới là danh để ngàn thu
Mỗi con xét lại sự tu nào hèn.
15.- Tại chưng nhiều đứa thất truyền
Nghe lời vọng ngữ làm điên đảo sầu
Từ năm Thầy mở Đạo-mầu
Mỗi con nào thuận gìn đâu có lầm.
16.- Quý-Vì năm đủ năm năm
Sự tu càng thấy diệu thâm có ngằn
Mỗi con Đời Đạo hay rằng
Rằng tu rằng cãi ai bằng Đạo chơn.
17.- Nghe rồi xét lại nguồn cơn
Dã tâm thì đọa, bất nhơn nào còn
Thế trần chung cả bầy con
Ráng nghe Thầy nói dạy trong dỗ ngoài.
18.- Tới lui đường cả rộng dài
Chẳng nghe thì hẹp đêm ngày quạnh hiu
Ví dầu cùng thế réo kêu
Đó là uổng tiếng quạnh hiu vẫn còn.
19.- Quạnh hiu là cớ mỏi mòn
Nhìn thân dường gỗ cây tròn chịu lăn
Bài nầy cho học Lập-Xuân
Thượng-Nguơn ngày lễ trả lần tới Thu;
Thu là ngày chánh Trung-Thu
Mỗi con nào trễ việc tu chưa tròn.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra nhiều, đặng gởi cho các chủ Thánh-Thất cùng là các khóm Đạo-Tràng đặng trong đó chép ra mà học. Còn tại đây thì phát cho mấy đứa có mặt làm lễ trong ngày Đàn rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra một bổn. Thầy dặn chung trong đó tới ngày Lập-Xuân sẽ học ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới Trung-Thu là ngày 15 tháng 8 năm Quý-Vì thì phải trả cho hết.
****************************
Bài học năm Giáp-Thân 1944
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 23 tháng 11 Annam 1943 (12 giờ trưa)
-------o0o-------
Nầy mỗi con, mỗi con phải nhớ lại rằng mỗi việc chi ở thế hạ nầy đây mà gọi là Trời sanh thì mỗi con phải an lòng để cho Trời định, đừng có sanh lòng dục vọng, đừng có dạ cành nanh, hễ đứa trước thì có đứa sau, cả thảy cũng là ở trong vòng Tạo-Hóa. Thầy nói vậy mỗi con có hiểu chưa? Chớ Thầy thấy rõ phần đông trong cả thế-gian hiện giờ thường hay nói tiếng nầy, nếu mình còn sống đây, còn mạnh đây không lo giành giựt để chết rồi không được nhờ trong đó, để già yếu làm sao mà chống cự cho lợi ai, tại nói như vậy đành quên câu Trời định đó, mỗi con có thấy chưa, tính trước sợ e chết rồi không được hưởng, già yếu ăn chẳng đặng nhiều mà không dè thân sống đây cãi Trời gây thêm tội lớn, rồi cái thân nầy có ra chi. Vậy ngày 28 năm nầy là ngày lễ Tu-My năm Quý-Vì gần mãn, Thầy nói đó cũng tỷ như lời dặn trước cho mỗi con nào có tu có học, Đạo-lý ít nhiều đặng nhớ mà an lòng, vì có học có tu mới có biết Trời sanh thì mới dễ cho mình để cho Trời định, chớ nói chi những đứa không biết Trời thì nào có rõ Trời sanh là chi, Trời định là chi.
Đây Thầy chỉ cho mỗi con nào còn mơ màng trong khoản đó, chưa quyết cái lý Trời sanh thì xét lại như vầy: như đêm ngày, nắng mưa, mau chậm phải đó là Trời sanh hay không?
Vậy biết Trời sanh, dầu cho ban đêm có nóng việc chi cũng chờ cho Trời sáng, nếu không Trời định thì ai dễ làm cho Trời sáng được không? Nếu không phải Trời sanh đâu ai làm cho ban ngày mà cả đồng tối đặng thì các lẽ cũng phải xét như vậy mới là dễ hiểu. Vậy mỗi con nào nghe Thầy chỉ đó, nghe đặng hiểu liền thì được vui lòng biết mấy, còn đứa nào nghe mà chưa thấu thì tự nghĩ lại mình, tại ít tu ít học, hoặc là lười biếng cải canh, mượn tài khoe giác thì phải mau tự hối cho liền, đừng có để ý hờn riêng rồi tự mình làm cho mình thêm hại nghe mỗi con.
THI
Trời sanh Trời sắp định thành
Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm.
1.- Mỗi con chớ tính thầm khôn quỷ
Rồi thành ra đố kỵ gây thù
Vậy rồi ngu chịu dồn ngu
Dốt luôn đời dốt biết đâu vận thời.
2.- Thầy nói thiệt luật Trời không dễ
Thầy đã than đừng để chống kình
Trước sau mình ngó lại mình
Có chi là gọi phê bình ngược ngang.
3.- Phải sớm biết Trời ban sự sống
Đừng ỷ hay hờ hỏng không dè
Cuộc đời Trời Đất chở che
Là ai biết sợ biết nghe lý Trời.
4.- Con mỗi đứa nghe rồi nghiệm lấy
Đừng bỏ qua ngày quấy thêm nhiều
Kìa kìa lớp hoại lớp tiêu
Thì đây mình biết bấy nhiêu giựt mình.
5.- Con mỗi đứa đừng khinh Đạo-lý
Đạo-lý đây thường chỉ tận tường
Cậy nhờ trong đó rành phương
Là phương mầu nhiệm khỏi vương khốn nàn.
6.- Con nào muốn bình an thì phải
Phải hết lòng nhớ lại Trời sanh
Chớ đừng dựa thế cầu danh
Mà quên Trời định tranh giành luống công.
7.- Con ôi! thấy Đại-đồng kiếp số
Thì ráng mau tỉnh ngộ cho liền
Đặng nhờ Trời định Bổn-nguyên
Đặng an bề trọn khỏi liên lụy trần.
8.- Trong cuộc thế xây vần sau trước
Con nào tâm xét được thì nhờ
Chớ rằng cậy thói làm lơ
Làm lơ thì chịu lỡ cơ hội lành.
9.- Thầy nay chỉ ngọn ngành Chơn-Lý
Mười tám năm đặng nghĩ suy rành
Ấy là cơ hội Trời sanh
Một tay Trời định kết thành vẻ vui.
10.- Mỗi con chớ sụt sùi chi lắm
Mình xét ra rồi gẫm lại mình
Chỗ nào chơn thật thì tin
Chỗ nào gian ngụy dầu vinh chẳng màng.
11.- Tiếng vinh mượn khoe càng dụng chước
Gẫm mà coi khó được lâu dài
Vậy thì con cả gái trai
Ngày nay Thầy nói nhớ hoài vậy nghe.
12.- x Rồi chung nhau một đề huề
Để coi Trời định đâu hề có sai
Tu-My Đại-lễ ngày nầy
Thầy cho bài đọc sắp bày Giáp-Thân.
13.- Nối nhau dò bước đi lần
Lần theo vận hóa tinh thần Đạo-tâm
Bước đường ngày tháng thậm thâm
Quyết tu Thầy chỉ tin nhằm độ hay.
14.- Đó rồi ai tự lòng ai
Tự lòng không hở môi bày mỵ ly
Hiếu tâm phải giữ trọn nghì
Thì ai cũng được tự tri giác đồng.
15.- Cho nên Thầy chỉ tự lòng
Lòng trong tự biết quan phòng nết sai
Quý-Vì là mãn năm nay
Mỗi con cần nhớ học bài Thượng-Nguơn.
16.- Gọi là năm thứ Giáp-Thân
Cuộc đời ai gẫm ai cần nấy hay
Gẫm Trời sanh định đời đây
Cần noi dò một lý Thầy dạy trao.
17.- Rồi trong thấm sự nghèo giàu
Thấm điều vay trả mầy tao nực cười
Mới hay Trời định hơn người
Mới hay người mạnh qua Trời được chưa.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo học thuộc lòng đặng tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn năm Giáp-Thân Thầy hạn cho trả từ đó cho tới ngày lễ Liên-Hoa 22 tháng 9 thì mãn hạn.
****************************
Bài học năm Ất-Dậu 1945
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 11 Annam 1944 (1 giờ chiều)
-------o0o-------
Nầy mỗi con, năm nay là năm Giáp-Thân tới đây hầu mãn, thì mỗi con phải biết năm Ất-Dậu nó cũng gần tới đây, đó có phải là năm nối dồn năm, còn tuổi phàm của mỗi con cũng có lẽ một ngày thêm lớn, đó mỗi con xét lại coi có phải vậy chăng? Đã biết vậy là phải rồi, còn phần tu-hành của mỗi con dầu Nam dầu Nữ trong trường Chơn-Lý đây là quyết sao cho bền chặt Thiêng-Liêng, vậy mỗi con mới xứng đáng là Ta Người tuổi tên gồm đủ.
Đây Thầy nhắc lại cho mỗi con nhớ, là trong lúc mới vừa bước qua đầu năm Giáp-Thân, thì Thầy có nói trước cho hay là Trời sanh Trời sắp định thành, mà phải nhớ câu Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm kia mới thấu hiểu đặng.
Vậy, Thầy coi lại năm nầy nhiều đứa không muốn học, có ai hối thúc lắm thì gượng học cho có chừng, vì đó mà gọi mình đứng trong trường Chơn-Lý cho được nhiều năm, thì chẳng khác nào nhiều đứa hay lấy tuổi nhiều mấy chục sống lâu đặng xưng mình là cao thượng đó, cái lẽ đó thiệt là tệ lắm.
Vậy mỗi con xét lại coi có quả vậy không? Rồi làm sao mà đạt được cái Lý Trời sanh, Trời sắp định thành. Đây Thầy nói thêm một lẽ nầy cho mỗi con nghe, phàm làm thân con người trước hết phải nhớ cái sự qua rồi, rồi rõ cái sự hiện tại đây, lại còn phải độ về tới là sự chưa tới đó, đó mỗi con nghe Thầy nói vậy đừng vội cho là khó, không có khó đâu. Tại nhiều con còn cưu lòng lười biếng, hay tính giỡn chơi, tại đó mà cho là khó. Đây Thầy ví dụ cho mỗi đứa nghe: Mỗi đứa ở đời, nếu mình muốn đem trồng cây chi, hay là làm sự chi, thì trước đó là sự qua rồi, còn hiện tại đây là mình trồng đây, mình làm đây, rồi độ lấy cái sự chưa đến, là độ trong đó cây đó nữa nó trổ ra trái gì, bây giờ nhiều hay ít, vật đó nữa nó thành ra cái gì, thì cũng trong hồi hiện tại mình đương làm đó, trừ ra nó chết hay là nó hư thì mình cũng thấy được hiện tại, đó thì biết sự chưa tới nó không có vậy.
Vậy mỗi con nghĩ coi, nếu làm con người mà không nhớ sự qua rồi, thì làm sao mà răn dạy những đứa chưa biết sự đó. Còn sự hiện tại đây mà không rõ đó ra sao, thì làm sao quyết đoán cho được, rồi ai nói sao cũng đánh liều nghe vậy, thì uổng cái tiếng con người Trời sanh đó, đó là tại đâu, có phải là tại dốt không chịu học, dở lại muốn làm hay, rồi sự chưa tới càng thêm u ám nữa? Nói tóm lại cũng vì không chịu tỉnh tâm mới đành như thế.
Đây là ngày 10 tháng 11 năm Giáp-Thân là ngày lễ Tu-My, Thầy cho mỗi con một bài thuộc về năm Ất-Dậu nghe mỗi con.
THI
1.- Đạo cao Trời sắp chia rành
Người tu cần yếu dẹp ganh ghét phàm.
Đặng do đường phải cho nhằm
Đó là Thầy chỉ diệu thâm xa gần.
2.- Con lớn nhỏ cuộc trần chung cả
Phần ít tu phần dã tâm nhiều
Lớn làm nhỏ lại nhìn theo
Chẳng thông thời vận cứ đeo tự cường.
3.- Vì vậy đó Trời thương, Phật tiếc
Tiếc người ta bỏ thiệt theo tà
Vậy rồi mê đắm trần sa
Ôi thôi! nào biết nói ra đặng nào.
4.- Người tu thiệt Đạo cao ngày thấy
Kẻ núp Trời tội quấy ngày thêm
Kể ra sao xiết nỗi niềm
Niềm tâm sự mỗi con tìm thấy chung.
5.- Thấy chung rõ kẻ tùng người phản
Rồi nghiệm ra lời phán của Thầy
Con nào thấy được là hay
Tiếng chung nói vậy thấy vầy là riêng.
6.- x Thì trong đó được phỉ nguyền
Nguyền sao được biết nầy duyên nọ phần
Đạo cao nhờ lý hiểu lần
Là cao tại chỗ biết thân phận người.
7.- Trau giồi lành đẹp tốt tươi
Người chung mà phận tin Trời ít ai
Rồi coi gẫm lại hội nầy
Coi Thầy nói vậy phải vầy hay sai.
8.- Gẫm nầy dầu gái dầu trai
Gẫm đời thêm thấy đắng cay chạnh lòng
Gẫm rồi thì ráng dày công
Tin Trời nghiệm lý dẫn thông cơ mầu.
9.- Ví dầu thời cuộc tới đâu
Biết Trời trong định khỏi sầu khỏi than
Định rành biến vậy rồi an
Trong là máy tạo sửa sang xây vần.
10.- Ngoài ra rõ sự phong trần
Vất vơ rồi cũng tiêu lần từ đây
Vững lòng trong sạch đừng sai
Trời cao rọi kỹ người đây nhớ người.
11.- Nhớ trong đời sống gặp Trời
Người ta nào phải thua loài vật đâu
Bởi vì Đạo-lý cao sâu
Người ta hiểu đặng có đâu đê hèn.
12.- Hiểu thông tiên hậu nối liền
Đó người ta gọi Thánh-Hiền đồng qui
Rạng danh Chơn-Lý Tam-Kỳ
Mỗi con cần nhớ trọn ghi mấy lời.
13.- Chớ nên lừng lẫy cái người
Rồi khôn hiếp dại hơn thời lấn thua
Cao sang đừng luyến bợ lùa
Vì trong biết sợ khó mua tiếng lành.
14.- Con người nhớ lại bình sanh
Nhờ đâu mà có phước lành hưởng đây
Nhớ mình rồi biết tới ai
Nhớ rồi đâu dám cậy tài ỷ khôn.
15.- Náu nương gầy cuộc bảo tồn
Trời vui được thấy con đồng biết thân
Mười năm cơ hội thấy gần
Mỗi con Đời Đạo khuyên đừng hiểm nham.
16.- Biết thân thì buộc phải làm
Làm y lời dạy tỉnh tâm trí nhàn
Bước đầu năm Ất-Dậu sang
Tỏ bày cho mỗi con hằng thấy chung.
ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho đây đặng con giao lại cho CA nó in ra cho con một bổn, đặng đọc tại Đạo-Tràng ngày lễ Tu-My nghe chung, rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra mà học.
Còn phần Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi người một bổn đặng cho Đạo nghe, rồi cũng chép ra mà học.
Thầy hạn cho kể từ ngày 16 tháng 1 năm Ất-Dậu lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới lễ Hạ-Nguơn ngày 15 tháng 10 là mãn hạn, mỗi con cũng đều trả hết, trừ ra kẻ già yếu, bịnh hoạn không thể học được thì cũng phải ráng nghe đặng nhớ vào lòng gọi là mỗi năm Thầy có cho ra bài học.
****************************
Bài học năm Bính-Tuất 1946
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 11 Annam 1945 (1 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy mỗi con ôi… Đạo Đời trong một lúc đen trắng lộn quá nhiều, tại đó mà cái khổ nó dồn theo; cái hiểm, cái nghèo không bao giờ bớt đặng, đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là Thầy hỏi sơ cho biết vậy chớ phần đông hiện giờ có chắc chi là hiểu, đây là gần ngày lễ Tu-My năm Ất-Dậu trong một cảnh buồn biết nói sao cho xiết, cái cảnh buồn đó nó đối với phần đông hiện giờ chưa hiểu lời Thầy hỏi trên đó, rồi mỗi con trong trường Chơn-Lý đây lúc nầy coi lại còn được là bao nhiêu thiệt hành tâm Đạo, nếu thiệt hành tâm Đạo thì đâu có quên lời Thầy dặn thường niên năm 1945 nầy là phải nhớ chuyện qua rồi, phải biết chuyện hiện tại rồi chuyện sẽ tới mới chắc không lầm, thì trong đó đen trắng mới dễ cho là khác màu; dầu gặp cảnh khổ hay là chuyện hiểm, chuyện nghèo thì mình cũng dễ cho mình là biết tại đâu mà có ra đó, thì mình mới do đó mà gở lần; đó có phải là định-tâm đặng tầm ra lý thì Trời đâu có xa người, người đâu dám oán Trời hờn Đất, người cho được vậy cả thì đời có lo chi mà chẳng đặng thái bình, là mình biết tự lập lấy mình trong đó, cậy ơn Trời ban bố. Thảm thay cái thân người mà người chưa biết trọng mà lại mong bày chuyện oán Trời, vì vậy mà người phải chịu tối tăm cho người đó, mỗi con có hiểu chưa?
Vậy ngày 21-22 tới đây nhằm ngày lễ Tu-My, theo lẽ mỗi con phải nhớ ngày đó nơi lòng cho lắm, đặng dò theo trong đó mà mình lập lấy thân mình chớ 20 năm rồi, Thầy dạy có bấy nhiêu điều ngày hôm nay đành bỏ qua thì còn chi mà nói đặng. Đây Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài cho nhớ nghe mỗi con.
THI
1.- Lòng tin tưởng Đạo ít người
Dạ hờn gây oán ngạo cười xiết bao
Cũng vì cái thói tự cao
Cũng vì không nhận mầy tao giống dòng.
2.- Nói ra Thầy rất chạnh lòng
Là con bầy một phần đông quá kình
Chẳng rành trong lý nhục vinh
Chẳng thông thời cuộc cứ nhìn dị đoan.
3.- Thành ra một lũ hoang đàng
Ôi thôi! đành chịu vầy an cho vầy
Còn phần Chơn-Lý ở đây
Nhớ Trời tin Đạo buổi nầy thấm hay.
4.- Thấm hay lời dạy của Thầy
Hay nhường, hay nhịn tháng ngày trải qua
Dầu cho lớn nhỏ trẻ già
Kính lời chơn thật đó là tự tân.
5.- Rồi trông thấy được xa gần
Thấy đời thông cuộc mọi phần vẻ vang
Tuy là nhiều chỗ gian nan
Định thần suy nghĩ rõ đàng thị phi.
6.- Ráng tu hành trọn nhơn nghì
Thầy lo sắp dựng việc chi tới lần
Mỗi con nào hiểu ráng cần
Khuyên đừng khoe mạnh thế thần cầu danh.
7.- Thỉ-chung lành giữ vẹn lành
Một lời phi lý đừng sanh ý hiềm
Biết mình êm thắm vậy êm
Ngoài ra nầy nọ bớt thêm mặc dầu.
8.- Kìa kìa rõ cuộc đâu đâu
Nhớ lời chơn thật đâu đâu cũng vầy
Đặng mình yên vững là hay
Đó là Thầy nói phận ai nấy cần.
9.- Quản bao nhiều chuyện phong trần
Có ra rồi cũng tiêu lần đó thôi
Biết Thầy lo Đạo là vui
Trước sau mình tự thấm mùi ngọt cay.
10.- Việc chi đừng vội phô bày
Rõ thì lo sợ có Thầy dạy thêm
Thì trong mỗi chuyện dễ tìm
Khỏi lo ngừng ngại dầu kim cổ đồng.
11.- Mỗi ngày rồi một vẫn thông
Ráng đừng cho thẹn tiếng Hồng-Lạc chung
Đã hay là buổi cuối cùng
Có Thầy ra chỉ chịu tùng thì nên.
12.- Quyết tu thì nhớ sự bền
Phật còn mang tám nạn đền quả công
Trước sau dò Đạo-lý đồng
Phật tuy tiếng gọi ngoài trong cũng người.
13.- Chỉ cho tường tận rẽ ròi
Mỗi con đừng vội oán Trời tội thêm
Vận truyền sang Bính-Tuất niên
Đó trong Đời Đạo thấy riêng mọi phần.
14.- Việc chi đừng tập nhắm chừng
Phải dò cho kỹ sự gần lý xa
Trọn gìn thiệt đúng người ta
Trời cao Đất rộng Phật Ma có ngằn.
15.- Nhìn câu sổ trọn ngang bằng
Một đời ai khéo lo cần thận thanh
Mỗi con nào ráng học hành
Rõ Đời, thông Đạo vui lành lẽ chơn.
16.- Dầu lâm khổ nạn không sờn
Biết rằng ai cũng một cơn phải vầy
Gần sang Bính-Tuất năm nầy
Các điều do một cơ Thầy tỉnh qui.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho trong các khóm Đạo-Tràng, các chủ Thánh-Thất đặng cho Đạo hay chép ra mà học trả bài thường niên. Thầy hạn cho tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn phải trả bài cho tới ngày 15 tháng 10 lễ Hạ-Nguơn là mãn hạn.
****************************
Bài học năm Đinh-Hợi 1947
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 11 Annam 1946 (3 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy nầy năm Bính-Tuất thì Đinh-Hợi nó cũng gần đây, cơ hội sắp mười năm thiệt đà rất lẹ. Vậy mỗi con hiện giờ đứng trong trường Chơn-Lý đây có đứa nào hiểu trước cái mau lẹ đó không? Đây Thầy nói lại cho mỗi con nghe, kể từ năm Canh-Ngũ 1930 Thầy ra kinh Tu-Chơn trong đó Thầy có nói cho các con hay trước là, Thầy nói: Thầy vì con Thầy mới đến đây, là Thầy vì các con có một điểm Chơn-Linh không lẽ Thầy đành dạ làm lơ để cho các con sa vào Ngũ-lôi Hỏa-kiếp nên Thầy phải cạn phân lợi hại, tỏ bày cho đủ lẽ thiệt hơn. Thảm thay nay là mãn chín năm, tới năm Đinh-Hợi đây là đủ hạn mười năm Thầy định. Mà Thầy coi lại trong Chơn-Lý ít đứa chịu tuân chịu xét cho trọn mấy lời Thầy nói trên đó. Các con nhớ kỹ lại coi từ xưa đến nay dầu cho bực Thánh nào giáng sanh hóa Đạo thì cũng vì thương, vì lo cho đứa có tội nên phải hạ mình kêu gọi đặng đứa đó mau tỉnh mà tránh bớt tội lỗi hay là khỏi thì mới vui lòng. Trong kiếp Mậu-Dần đây, trong mấy năm đầu Thầy có hứa với các con là Thầy hứa như vầy:
Các trẻ ráng nghe theo lời dặn
Ráng nghe theo làm đặng như Thầy.
Đó mỗi con trong trường Chơn-Lý bất luận Nữ Nam ráng tìm kiếm cho ra lời Thầy hứa đó đừng có bỏ qua đặng ráng mà làm theo cho được ít nhiều, chớ cơ vận không thể chờ được tâm phàm rồi tội lỗi trong đó dẫy tràng dầu có réo kêu cũng là vô ích.
Đây Thầy chỉ sơ cho mỗi đứa nào còn chút Đạo-tâm ráng nghe, ráng độ là từ năm Thầy lập Đạo-Tràng cứu thế đến giờ trong đó Thầy quyết cứu cho hết các con nên mới bày ra sự học, có học mới có thông, có thông mới có sợ, có sợ mới có lo. Vậy mỗi con coi lại cho rành, có ai học là bao nhiêu đâu. Thầy cũng được thấy rõ những đứa có học, có tin làm theo lời dạy thì cũng được sáng suốt ít nhiều, đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là nhờ có học, có tin làm chuyện phải nên trừ bớt tội xưa, nên mới được ít nhiều sáng suốt đó. Trái lại nhiều đứa theo Thầy cần học cũng gần được tám chín năm, vì quá tư vị tâm phàm mà bày ra chuyện nghịch Thầy phản bạn, làm cho sự sáng mấy năm phải đành đổi vào chỗ tối. Thiệt Thầy quá tiếc, quá thương nhưng tại nó không biết tiếc, biết thương thân phận của nó nên phải chịu đành. Đây là gần ngày lễ Tu-My 23 tháng 12 bước đầu năm Đinh-Hợi nên Thầy cạn tỏ trước sau chỉ bày tội phước, tự ý con nào tin trọn làm theo Thầy cũng mừng cho, còn đứa nào không tin thì nó lãnh phần không tin cho trọn.
Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài năm Đinh-Hợi nghe mỗi con.
THI
1.- Vận cơ ngày lẹ vô cùng
Người không dò đặng thỉ-chung khó rành
Một câu Thầy nói làm lành
Nhiều con chưa thạo đó đành liệu sao?
2.- Lầm sa chuyện dữ chen vào
Tối tăm nào biết đâu nào dở hay
Nghĩ từ vô thỉ tới nay
Đạo Trời Chơn-Lý đâu bày chuyện hư.
3.- Tại vì người quá dể ngươi
Rồi xa Đạo-đức dồn hư mãn đời
Buổi nay Thầy tỏ cạn lời
Người ôi! đừng vội khoe lời tự kiêu.
4.- Người ôi! ráng nhớ mọi điều
Bạo hung, hiền hậu ít nhiều nghiệm suy
Dập dồn vay trả nhiều khi
Tại đâu mà có hiệp ly oan sầu?
5.- Bao giờ người biết tại đâu
Thì trong đó đặng hưởng câu thái bình
Mỗi con Đời Đạo ráng nhìn
Nhìn câu Thầy nói rõ rành thiệt hơn.
6.- Cho thường thiệt đúng lòng nhơn
Dầu cho nạn khổ mấy cơn cũng mòn
Ích gì phiền phức thon von
Mà không rành phận khó trông trọn bề.
7.- Tới lui nhiều chuyện xiêu bề
Một màu không chắc ê hề thói mê
Đó là trước vị đảng phe
Sau lầm chịu trúng dầu chê cũng rồi.
8.- Mỗi con Đời Đạo ta người
Ráng đừng cho phạm Lý Trời mới nên
Một ngày thì tuổi lớn thêm
Chất dồn danh tạm nầy khôn dại nầy.
9.- Bước đầu Đinh-Hợi cho hay
Các điều trong chỗ định bày tới đâu
Đặng mà cư xử cùng nhau
Phải nhìn trong một đó nào có xa.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho mỗi đứa xa gần cùng khởi sự học, ngày 15 tháng 1 năm 1947 tới lễ Tu-My là mãn.
****************************
Bài học năm Mậu-Tý 1948
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 15 tháng 11 Annam 1947 (3 giờ khuya)
-------o0o-------
Trong một đường của Thầy lập ra đã chánh đại mà lại quang minh, là một con đường Chơn-Lý đó. Thầy lập ra cốt để dẫn khách trần ra khỏi hang sâu vực thẳm đặng trở về Thượng-cổ, chung hưởng Đại-Thành, trái lại trong mấy năm trường phần đông lại đành rủ nhau đồng đi con đường khác.
Vì đó mà hiện đây là ngày lễ Tu-My năm Đinh-Hợi tới đây là hầu mãn, mỗi con phải nhớ năm tới nầy là năm Mậu-Tý.
Mỗi con ôi! Thầy xem thấy rõ phần quyết theo Thầy cho trọn niềm chung-thỉ thiệt chẳng bao nhiêu, còn một phần đương lương khương đứng giữa con đường nửa tới nửa lui lẽ nào chưa ắt, phần đó cũng là nhiều. Còn một phần quyết tính lui chơn đặng chen vào nẻo lợi, trong phần đó cũng không phải ai đâu mà lạ, Thầy nói vậy mỗi con nào nghe rành dễ thấy.
Hiện đây Thầy cũng mừng cho nhiều đứa hội nầy biết ngán bã lợi mồi danh, quyết kiếm chỗ tu hành mà chưa biết chỗ nào là phải, Thầy cũng hết lòng trông mong đứa đó hồi tâm định xét coi kỹ nghiệm rành đặng sớm rõ lý Đại-thành đem thân vào tịnh dưỡng, chớ nói chi phần tự cượng thì phần đó đã đành. Trời Phật không phải ghét Chúng-sanh, tại Chúng-sanh chẳng biết thương mình thì phải cam chịu vậy.
Vậy năm tới nầy là năm Mậu-Tý, trong đó mỗi con nào còn nhớ y lời Thầy dặn kỹ biết phận lo tròn, trước tránh nẻo dại khôn, sau thoát vòng thế tục, sao vinh, sao nhục thì vay trả không lầm, một tiếng gọi bình tâm, các việc phàm thấy rõ, không không có có, cổ cổ kim kim, tỵ tỵ hiềm hiềm, triêm triêm ngưỡng ngưỡng, trả vay tuồng sóng lượn, thành bại bức mây tranh, mỗi con có học hành ráng suy cùng các lẽ nghe mỗi con.
THI
1.- Đạo thông bề dễ liệu lường
Ngoài trong nhớ định cho thường chớ sai
Bước đầu Mậu-Tý liền đây
Mỗi con nào học nào hay nấy gìn.
2.- Đặng hay mình giữ vẹn mình
Là hay biết nhịn nhường tin chữ hòa
Năm rồi trải cuộc thời qua
Các điều khôn dại trẻ già thấy chung.
3.- Con nào còn nhớ Đạo trung
Thì đây mình khỏi sự tung ý hoành
Cứ noi điều phải sự lành
Là qui Thượng-cổ Đại-thành hóa tân.
4.- Vẻ vang mầu nhiệm tinh thần
Tỉnh tuồng phong tục lập thân bỉnh tề
Con nào còn luyến đảng phe
Luyến thì cam chịu đâu hề có sai.
5.- Nầy năm Mậu-Tý ra bài
Mỗi con nào mến Đạo Thầy ráng xem
Đặng trong dò xét nỗi niềm
Xét rồi thâm cảm ngày thêm vẻ hiền.
6.- Ích gì mà dụng ý riêng
Ích chi mà luyến sự liên can sầu
Dễ gì mà tính độc sâu
Dễ chi mà dựa thế cao lập quyền.
7.- Từ đây Đạo-lý tương truyền
Phận người ta ráng phận nguyền chí thanh
Phải chăng dò nghiệm hiểu rành
Đừng đem lòng tự đắc sanh chống kình.
8.- Làm người chuyện phải, phải tin
Chuyện không nhằm lý đừng binh bổ vào
Biết điều khuyên nhủ dạy nhau
Chớ ưa lời tặng tiếng rao vị tình.
9.- Thấp cao mình tự biết mình
Biết mình trong một chí bình đặt an
Nhiều khi Chơn-Lý Đạo-Tràng
Nhiều khi Thầy dặn, Thầy than nhắc hoài.
10.- Con đường từ đó đến nay
Mỗi con đều cũng có bài học riêng
Nhớ hay làm đặng phỉ nguyền
Con đường chung một lý tiền hậu tham.
11.- Vì cơ lý nhiệm thâm trầm
Bỏ qua rồi luống lạc lầm nhiều phen
Gắng công ngày tháng tập rèn
Người nên nhờ Đạo gọi duyên phước mầu.
12.- Chí thành Chơn-Lý một câu
Một niềm cho chắc càng lâu hóa nhiều
Sau nhìn trước thiệt làm theo
Khác nào hột giống cần gieo phải mùa.
13.- Phải nên người trọn chung nhờ
Nếu ai còn dạ nghi ngờ khó trông
Tiếng chung nòi giống Lạc-Hồng
Chớ kỳ trung gạn sạch trong chẳng nhiều.
14.- Chỗ nào biết một lần theo
Giồi-trau Hạnh Đức dẹp điều ghét ganh
Thì trong mới được duyên lành
Một nguyền thân sống Trời sanh biết Trời.
ĐƯỢC, bài ngày lễ Tu-My nầy Thầy cho ra đặng con coi rồi giao lại cho NĂM đặng nó in phát ra cho Đạo coi mà học. Thầy hạn cho mỗi đứa phải bắt đầu học từ ngày 26 tháng 12 năm nầy là ngày xuân đặng trả bài cho tới ngày 15 tháng 5 lễ Tam-Tôn là mãn.
****************************
Thầy để lời nói cạn cho mỗi con nghe
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 7 Annam 1947 (3 giờ chiều)
-------o0o-------
Thầy để lời nói cạn cho mỗi con nghe, là nghe trong năm Mậu-Dần 1938 Thầy lập Hội Long-Hoa tại Tòa-Thánh Trung-Ương ngày 15 tháng 4. Ngày nầy là ngày Minh Chơn-Lý, hồi Thầy chuyển Đạo về Hậu-Giang. Kể từ Thầy lập Hội Long-Hoa thì đổi tên Tòa-Thánh Trung-Ương lại kêu là Định-Tường, từ đó Thầy mở trường dạy Đạo cho mỗi con hiểu lý chơn truyền, trong đó Thầy có hứa là mười năm từ năm Mậu-Dần cho tới năm Đinh-Hợi 1947 lập thành Thượng-cổ, thì trong mỗi con phần nhiều cũng có đứa vui cũng có đứa không muốn, đứa không muốn đó là vì nó thích chí theo hiện thời lúc đó gọi là văn minh cực điểm. Nghe vậy, hay vậy cũng chưa hiểu ý nghĩa văn minh là phải làm sao cho đúng, nó sợ lập thành Thượng-cổ rồi mất cái sự khoái lạc, đua tranh mà gọi là văn minh đó nên nó không muốn là tại đó, còn đứa nghe nói rồi vui là đứa đó có chí học hành, lo tìm Đạo-lý hay chán sự đời suy xét cổ kim nên nghe Thầy nói lập thành Thượng-cổ thì vui lòng chớ cũng chưa rõ thông hồi Thượng-cổ cho hết nhưng có chí vui thầm thì Thầy cũng mừng cho đứa đó. Còn đứa không ưa đó thì nó phải xa Chơn-Lý, dầu có ở nương náu cho có chừng lâu rồi nó cũng sanh lòng phản Đạo. Ngày nay Thầy nói cạn như vầy đó mỗi con bất luận Nữ Nam còn đứng trong Chơn-Lý hiện thời ráng nghe rồi gẫm lại coi có quả vậy không. Đây là đặng nửa năm Đinh-Hợi cũng gần thấy đủ mười năm, Thầy coi lại hiện giờ nhiều con cũng chưa tường sao là Thượng-cổ, vì vậy nên mới thở vắn than dài. Đây Thầy chỉ cho mỗi con dò lại cho rõ, mỗi con chịu khó coi lại cho kỹ trong mỗi bài Thường-Niên Thầy cho ra học đặng trả bài đó thì trong đó mỗi con sắp từ năm, từ bài cho có đầu đuôi rồi coi rành trong đó. Thầy chỉ dạy lần lần, muốn ăn ở theo đời Thượng-cổ cho hạp thì cứ đó mà tập đi chớ có chi mà lạ, ngặt vì có đứa coi thì biết vậy là phải mà làm thì khó làm, còn đứa làm được mà lại không chịu làm có lẽ là vậy đó. Mỗi con xét kỹ lại coi khó dễ tại ai?
Vậy từ đây Thầy nói cạn trong bài nầy, mỗi con nghe rồi đừng có thở than chi lắm, ráng mà học, ráng mà làm, ráng mà tu thì mình được thong thả cho mình chớ thở than hoài cũng không ích, mỗi con nhớ kỹ lại coi có đâu mà được chỉ rành như Chơn-Lý vậy.
Thường thường mỗi năm từ năm Canh-Thìn 1940 cho tới năm Đinh-Hợi đây 1947, trong tám năm Thầy có cho ra tám chữ: THẢM, KHỔ, NGUY, KHUẨN, KHỐN, TIÊU, U, BÌNH. Mỗi con chịu khó lập lại cho hoàn toàn thì rõ đó là Thầy nói trước đặng phòng lo tránh, hễ tránh cho được rồi đừng mơ ước nữa thì cũng được gần Thượng-cổ cho mình đó, đó mỗi con có hiểu chưa?
ĐƯỢC, bài nầy con coi rồi chép ra cho Đạo coi rồi cũng gởi cho NĂM một bổn đặng nó coi rồi cũng làm như vậy. Sau có in kinh nầy hay là Đuốc-Chơn-Lý thì sắp bài nầy để trước đặng cho nhiều người thấy rõ.
****************************
HUỆ-ĐĂNG CỔ-PHẬT
VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 28 tháng 11 Ất-Mùi 1955 (3 giờ chiều)
-------o0o-------
HUỆ-ĐĂNG CỔ-PHẬT Giáng-Đàn.
- Con cúi đầu chào Đại-Đức Huệ-Đăng Cổ-Phật, con xin tiếp giá.
- MƯU, Đệ-tử định-tâm nghe Bổn-Sư dạy:
Vì nay đã đến Sơ-Hào khởi bắt đầu. Vậy từ đây con nào Nhập-môn thì phải biểu nó về Tòa-Thánh trả cho đủ 10 bài Thường-Niên rồi mới cho Nhập-môn. Còn ở nơi nào xa không tiện đường về Tòa-Thánh, thì phải trả tại Thánh-Thất hay Trường-Qui. Nhưng cũng phải trả cho đủ rồi Chủ Thánh-Thất phải dưng sổ nầy về cho Thái-Đầu-Sư sắp, rồi phải ngồi 10 thời U-Minh, làm 10 ngày Công-Quả cho đủ đó là trọn lòng về Đạo rồi mới cho Nhập-môn.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vậy các con ráng xuôi cơ-vận, đến đâu dạy thêm đến đó.
MƯU, bài nầy Đệ-tử giao lại Chưởng-Quản xem rồi in ra đặng Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng đặng học chung.
(Thăng.
NGỌC-CHƠN-QUÂN