THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN

QUYỂN III


CƠ VẬN CHUYỂN CỦA TRỜI

1. Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới

Ngày 22 tháng 2 annam 1938 (7 giờ tối)

-----o0o-----

Ớ nầy các con, ráng nghe Thầy dạy đây mà tự hối nghe mỗi con!!

1.- Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới
Thầy hết lòng trông đợi các con
Lớn lo tự đại tự tôn
Nhỏ thì khoe giỏi khoe khôn cãi Trời.

2.- Xúm nhau nói nhiều lời phạm thượng
Thầy quở răn lại cượng chẳng tuân
Đua nhau lừng lẫy vui mừng
Vui rồi đến khóc con đừng trách Cha.

3.- Lời Thầy phán trước ba năm đó
Đến ngày nay coi có hay không?
Các con chẳng chịu ghi lòng
Cho nên nghi nghị sợ phòng quỷ ma.

4.- Các con ráng nhìn Cha cho kỹ
Cha với loài ma quỷ khác xa
Cha lo dạy trẻ hiệp hòa
Quỷ ma nó dạy Người Ta chia lìa.

5.- Con nào biết Tam-Kỳ Đạo chuyển
Con nào thông cơ biến tùy thì
Con nào cách vật trí tri
Các con được vậy khỏi nghi sợ lầm.

6.- Các trẻ chẳng để tâm vào đó
Làm sao cho biết rõ thiệt Thầy
Tu sao hờ hỏng quá vầy
Tu sao mười mấy năm chầy còn ngu.

7.- Vậy cũng tiếng là tu Chơn-Lý
Chơn-Lý sao xét lý không thông
Nhìn con Thầy rất đau lòng
Nhìn con Thầy thảm vô cùng cho con.

8.- Con chẳng hổ với non với nước
Con sao đành biếng nhớt vậy con?
Thầy thương hết sức chiều lòn
Sao con cứ việc méo tròn khen chê.

9.- Thầy muốn trẻ sớm về kẻo trễ
Kêu con hoài con kể ra chi
Quẩn quanh theo lũ níu trì
Thoát ra chẳng khỏi, A-tỳ phải sa.

10.- Nay Thầy hỏi riêng CA với PHẤN
Phận tu hành còn xứng đáng chưa
Xét coi Cửu-phẩm, Tam-thừa
Hai con có xứng phẩm thừa nào không?

11.- Trẻ chớ tưởng hao công tốn của
Mà thở than hằng bữa hằng ngày
Học hành khoe giỏi nói hay
Mặn chay, chay mặn lúc nầy ra sao?

12.- Châu-Thiên đó Đài cao nêu vọi
Phải xét coi phước tội cho rành
Khắp cùng Nam Nữ chúng-sanh
Than phiền vì đó Thầy sanh sự buồn.

13.- Đạo Thầy dạy đúc khuôn Chơn-Lý
Sao hai con lấy Lý làm quyền
Vậy nên trật tự đảo điên
Con quên trong lúc An-Thiên dặn dò.

14.- Giao làm chủ chiếc đò Chơn-Lý
Mấy năm rồi Chơn-Lý ra sao?
Xét coi đó tại chỗ nào
Thì Thầy lui tới ra vào với con.

15.- Thầy hỏi đó hai con ráng xét
Xét cho rành mới hết hồ nghi
Khuyên đừng chích mích nhau chi
Muốn cho hòa hiệp chớ khi dể người.

16.- Thầy dạy Đạo tùy thời nương cuộc
Thầy sửa Đời do Luật chí công
Con ngu, con dại thương đồng
Tội răn, phước thưởng Luật không tư vì.

17.- Hai con ráng nghiệm suy cho đúng
Đừng có lòng rẻ rúng nghe con
Hai con lo liệu không tròn
Làm sao cho có xác hồn tại đây.

18.- Nếu chẳng vậy chỗ nầy tiêu hủy
Ấy là điều hữu thỉ vô chung
Việc hư lúc trước tại PHÙNG
Ngày nay phá hoại tội đồng hai con.

19.- Thầy thường nói hai con hết sức
Việc tu hành có đức mới nên
Đài cao núi dựng làm nền
Là bền tâm chí như bền núi cao.

Thăng.


CHÚ GIẢI

Về tình đồng bào cốt nhục nên C.T.Đ, có Minh Chơn-Lý riêng cho em không nghe. Nên người phải gánh lời hỉ nộ của Thầy và xin dung chế. Thầy Quảng-đại Cao-dài sông biển, nên phục chức cho người và ban chức Ngọc-Đầu-Sư cho em không chịu lãnh. Đoạn Thầy mới trao cho anh cả Ngọc-NGÀN-Tinh làm tròn phận sự đến năm 1945 qui liễu gần Thánh-Địa, trong tay người Đạo nuôi dưỡng và chôn cất.

Vì Đức Tam-Tôn quá thương nên không tin bài Vận-Niên nầy trước bài năm Kỷ-Mão và đem bài "Rường Cột" thế vào cho Đạo học; nhưng mà C.T.Đ biết ngang bằng sổ ngay và Thầy có dạy:

"Lời nào Thầy đã dĩ hơi ra, Vàng ngọc gìn trau chớ bỏ qua …" Nên C.T.Đ phải in hết hai bài đều lời Châu Ngọc của Thầy.

Nhờ oai ân của Thầy nên ngày nay tôi Công viên Quả mãn, mà còn lo lập thành Thiên-Đạo Chơn-Truyền đặng chức sắc có gồm đủ bài vở ngồi Chủ-Tọa Đạo-Tràng, khác nào nấu đá vá Trời hồi đời Cơ-Phát.


******************

2. VẬN NIÊN NĂM MẬU-DẦN 1938

Thầy chọn trẻ ra làm rường cột

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 1 annam năm Mậu-Dần - giờ Ngọ năm 1938

-----o0o-----

Ớ các trẻ rường cột cho Trung-Ương phải ráng nghe lời của Bổn-Sư dạy mà tự xét.

1.- Thầy chọn trẻ ra làm rường cột
Thương mến nhau như một mới hòa
Đã rằng con ở một nhà
Mà không thảo thuận Mẹ Cha vui gì.

2.- Rất uổng tiếng tu my Nam-tử
Nam như vầy làm nữ cho xong
Đường đường một vị Thiên-phong
Lời ăn tiếng nói chưa thông Đạo-mầu.

3.- Trưa những sớm cơ cầu húng hính
Gái cùng trai lo tính mưu gian
Than ôi! họa phước hành tàng
Dể ngươi ắt phải vương mang lưới Trời.

4.- Tại Tòa-Thánh là nơi tu niệm
Lòng các con nham hiểm vẫn còn
Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn
Trong lòng tính việc chia môn rẽ vời.

5.- Thiệt các trẻ coi Trời quá nhẹ
Rất uổng công quì lạy đau mình
Còn thua mấy đứa làm thinh
Lòng không độc ác tánh tình thẳng ngay.

6.- Còn một nỗi phô bày chuyện lạ
Ắt có ngày mang họa hại mình
Thầy thương nên dạy đọc kinh
Mà con không đọc, đọc tinh chuyện xằng.

7.- Làm nhiều việc nhố-nhăng quá ngán
Cho nên đời ngạo báng Cao-Đài
Mình hư còn trở trách ai
Ôi thôi! uổng tiếng gái trai con Trời.

8.- Thầy nhắn nhủ một lời kỳ chót
Muốn tu thì bỏ bớt điều hư
Chí-Tôn là Đấng Đại-Từ
Hổ ngươi dòm thấy con hư cả bầy.

9.- Các trẻ gặp kỳ nầy là quý
Sẵn mối giềng Chơn-Lý ráng phăng
Dư muôn năm mới một lần
Gần Trời chẳng muốn, muốn gần quỷ ma.

10.- x Các con lớn nhỏ gần xa
Đạo dầu không Đạo ráng mà nghe theo
Đạo không chọn lựa giàu nghèo
Đạo là quyết cứu hiểm nghèo cho an.


******************

3. VẬN NIÊN NĂM KỶ-MÃO 1939

Năm nay đã mãn Mậu Dần

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 12 annam 1938 (2 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy các con Nam Nữ có lòng lo Đạo trở về Tòa-Thánh mà làm lễ Thưởng-Xuân. Vậy ráng nghe Thầy dặn đây làm cho y theo, có ngày hưởng phước nghe các con.

THI

Năm nay đã mãn Mậu Dần
Bước sang Kỷ-Mão tuổi lần thêm cao.

1.- Phần sanh tử nghèo giàu thay đổi
Đó là do phước tội cân trừ
Con nào có chút phước dư
Thì lo bước tới làm như năm rồi.

2.- Con nào muốn gây bồi tội ác
Thầy cũng vui chuyển phạt lưu đày
Hễ làm thì chịu không sai
Chớ kêu oan ức rằng ai hại mình.

3.- Thầy trước có đinh ninh lời dặn
Kiếp Mậu-Dần Thầy gạn từ tên
Việc tu là quí tại bền
Vững cùng không vững thưởng đền trừng răn.

4.- Làm việc phải Hồng-ân để sẵn
Làm việc nguy án nặng ghi rồi
Tu hành giải đải thả trôi
Thì mang thêm tội ngược xuôi ngạo Trời.

5.- Tu là để cứu đời cho tỉnh
Mình còn mê chưa định lẽ nào
Chẳng rành căn trước kiếp sau
Chẳng thông báo ứng, chẳng nao đọa đày.

6.- Con nào rõ lời Thầy nói đó
Xét phận mình coi có vậy không
Chớ ham tính việc đèo bồng
Cải canh bác luật khó phòng lập thân.

7.- Theo thế kỷ hết Dần thì Mẹo
Theo phận người hết khéo rồi khôn
Trước sau ngó lại xác hồn
Quanh qua quẩn lại Càn Khôn một bầu.

8.- Dầu cho chạy đáo đầu không khỏi
Dầu bạo hung đến đỗi không nhầm
Biết Trời đổi tháng thay năm
Mình sao lại chẳng đổi lầm ra nên.

9.- Chỉ có muốn tuổi tên cho lớn
Đặng xưng mình người lớn khôn nhiều
Thầy nhìn khổ biết bao nhiêu
Mảng xưng khôn lớn mà tiêu Linh-Hồn.

10.- Khôn mà chẳng rõ khôn là khéo
Lớn không rành chỉ nẻo dữ lành
Ích gì lớn tập cành nanh
Vì ưa khôn quỷ tội sanh ra nhiều.

11.- Một năm tính mấy nhiêu ngàn tuổi
Đếm số người số tuổi ghi dồn
Khắp trong một quả Kiền Khôn
Người đâu tuổi đó lớn đông vô cùng.

12.- Các con cũng có tùng Thiên-mạng
Thì phải suy cho cạn các lời
Bớt lần cái bịnh dể ngươi
Bớt lần cái thói ăn chơi qua ngày.

13.- Người muốn đặng lâu dài tên tuổi
Thì trước lo sửa đổi kịp thời
Mắt nhìn thấy rõ các nơi
Các nơi thì cũng một Trời như đây.

14.- Tại sao lại đó vầy đây khác
Lấy đó mà tự giác răn lòng
Thầy thương con Lạc, cháu Hồng
Phần đông ngu dại có lòng mộ tu.

15.- Mở Đại-Đạo vẹt mù sanh-chúng
Lọc lừa sau để dụng lâu dài
Con nào chịu nhọc là may
Là trong chỗ nhọc hằng ngày học tu.

16.- Cách lừa lọc sửa ngu ra trí
Là Vô-Vi nhi trị tâm phàm
Con đồng cả thảy Nữ Nam
Răn trừng dạy đủ chịu làm thì nên.

17.- x Đó Thầy muốn nối tuổi tên
Đó là Thầy buộc thiện duyên lâu dài
Con nào chẳng thuận lời ngay
Thì thôi đừng có níu ai theo mình.

18.- Để cho mình chịu một mình
Trước sau kết cuộc dễ nhìn, dễ xem
Đạo là qui-củ hốt-chiêm
Cao Kiên hữu dụng luật nghiêm từ nào.

19.- Làm người xem trước ngó sau
Có chi đâu lạ, có nào là xa?
Có tên, có tuổi, có già
Có khôn, có dại, đó là đường đi.

20.- Một đời chán ngán xiết chi
Vì trong khôn dại thị phi vô chừng
Lỡ lầm lại với oan ưng
Cả hai điều đó tại chưng hỏng hờ.

21.- Xét suy cho kỹ đặng nhờ
Trớ trêu thì hại, ai ngờ đặng ai
Ngày xuân dặn trẻ một bài
Để coi mà học phải vầy hay không?

22.- Đó là chỗ gặp Chủ-Ông
Chủ-Ông là chỗ cái không Ta Người
Ráng nghe từ tiếng, từ lời
Mỗi câu, mỗi vé, có Người, có Ta.

23.- Trong không mà có đây là
Có cùng không có tại hòa với kiêu
Mỗi con nghe đặng ít nhiều
Giờ dư suy xét rõ điều nhặt thưa.


******************

4. VẬN NIÊN NĂM CANH-THÌN 1940

An an biến biến đổi dời

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 12 annam 1939 (1 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy các con nghe Thầy dặn:

1.- An an biến biến đổi dời
Các con dầu Đạo, dầu Đời nhớ câu
Nhớ câu thiện ác đáo đầu
Nhớ rồi khuyên chớ cơ cầu bỏ qua.

2.- Cuộc Thầy lập gầy ra cơ thể
Dựng nền nhơn tại thế hiện thời
Đạo Đời, Đời Đạo hai nơi
Song đều răn thưởng một Trời phán minh.

3.- Các con chớ tưởng mình là đúng
Dám chê Trời lại dụng phàm tâm
Cả gan bày bác mưu thầm
Tưởng cho là phải, phải nhằm vào đâu?

4.- Câu thiện ác đáo đầu là vậy
Phải vào đâu chỗ thấy không nhầm
Chỗ vào tới đó tối tăm
Tối tăm rồi cứ họa lâm theo kề.

5.- Than phiền cuộc thảm thê là đó
Nhìn tấm thân còn có ra gì
Cũng là tại thói hiềm nghi
Hiềm nghi vô lý, đường đi quên nhìn.

6.- Rốt Kỷ-Mão, Canh-Thìn bước tới
Cơ Đạo-mầu ngày mới sắp sang
Hễ tu thì khỏi buộc ràng
Là tu cho thiệt, đừng bàn cãi riêng.

7.- Trong chỗ thiệt là duyên nối chặt
Nối chặt bền dầu ngặt cũng qua
Dặn dò con cả Giái-ba
Hễ tu Chơn-Lý đừng xa Đạo-Tràng.

8.- Mỗi ngày học là an tâm tánh
Được an rồi sức mạnh ngày thêm
Mạnh là vui đẹp vẻ êm
Thần tươi, Khí hạo, Tinh điềm dưỡng chơn.

9.- Nhờ nương học oán hờn không kết
Học rồi hành tự xét dò đon
Rõ thông sao mất, sao còn
Biết cơ Trời Đất độ tồn bảo Linh.

10.- Nếu biết được là vinh trong đó
Đó là tiêu nghiệt khổ tai nàn
Vậy rằng gọi học là an
Hễ an thì thấy sức càng mạnh thêm.

11.- Cả Nam Nữ ráng tìm mà học
Kinh của Thầy sách đọc càng vui
Đọc đâu hiểu đó rõ mùi
Đó là Thầy cứu độ đời tỉnh tâm.

12.- x Ráng coi, ráng xét, ráng tầm
Ráng làm theo đó cho nhằm gọi hay
Tuy là thời cuộc đổi xoay
Cứ nhìn theo đuốc Thầy khai dễ bề.

13.- Dễ là chẳng vướng thảm thê
Bề an theo vận đừng khoe sức phàm
Rõ bề rõ vận thì ham
Ham vùa theo Đạo chẳng nhàm, chẳng phai.

14.- Ngưỡng triêm lòng dạ lâu dài
Quyết tuân đường cả có Thầy độ cho
Qua ngày ngoài ấm trong no
Miễn đừng quên Đạo, đừng so sánh Đời.

15.- An qua biến lại cuộc đời
Muốn an thì học Đạo Trời giải mê
Là an tâm trọn không hề
Hề chi thế tục thuộc về tính quanh.

16.- Đi theo đường cả Đại-thành
Tục quanh tính lộn, ngày sanh biến hoài
Nghe rành hiểu đặng khỏi sai
Trong lời Thầy nói từ nay chẳng mòn.

17.- Nước non khi mất khi còn
Lời châu tiếng ngọc dạy đồng cổ kim
Tại chưng nhiều đứa chẳng tìm
Chẳng tìm thì chịu đắm chìm tục mê.

18.- Chỉ chừng Đất chở, Trời che
Chỉ cho có tiếng lòng mê vẫn còn
Kiếp đời tại đó thon von
Nghịch cơ Trời lập, thân mòn thể hư.

19.- Chẳng tường luật cả vô tư
Tưởng cho Trời Phật cũng như tay phàm
Đó là còn luyến tục tham
Nên đành theo vậy, vậy làm vậy ưng.

20.- Con nào biết trọng Oai Ân
Đó là đặng thoát tục trần rảnh rang
Canh-Thìn năm mới bước sang
Ra lời chỉ tột biến an mọi điều.

21.- Mỗi con nào học ít nhiều
Học khoa Đạo-lý rõ điều luật chung
Rồi đem ra độ nhau cùng
Đừng chia nhĩ ngã, ráng phòng tự tôn.

22.- Thói đời thì tính dại khôn
Đạo Thầy Chơn-Lý đừng trông lập quyền
Mỗi con cần nhớ chữ Hiền
Nhớ làm cho đúng, phỉ nguyền trọn vui.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo coi mà học, buộc phải trả bài từ ngày 15 tháng 1 cho tới 15 tháng 4. Bài nầy đừng có bỏ qua gọi là trái lịnh. Trừ ra kẻ dốt không thế học đặng, tuổi già hay là có bịnh thì phải để lòng nghe, nếu dể ngươi thì có tội.


******************

5. VẬN NIÊN NĂM TÂN-TỴ (1941)

Thầy thương nên mở Đạo-mầu

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 12 annam 1940 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy các con ôi! năm Canh-Thìn hầu mãn thì Tân-Tỵ bước sang, đó các con phải biết rằng Tuần-Ư Tế-Vận nghe các con.

Đây Thầy cho ra một bài đặng cho mỗi đứa nào có thích chí tu hành, lánh đời thống khổ thì ráng nghe mà coi cho kỹ đặng dè dặt lo lường, tới lui phải quyết, vinh nhục phải tường, chớ đừng có vội nói Thầy sao quá lời dụ dỗ nghe.

THI

1.- Thầy thương nên mở Đạo-mầu
Cứu Đời cho khỏi đáo đầu nạn tai
Tại chưng phàm tục luyến hoài
Luyến cho cùng bước thì tai nạn kề.

2.- Đến chừng đó vậy còn chê
Là chê Trời lập Đạo quê hơn phàm
Biết sao Thầy nói cho nhàm
Vì con nhiều đứa nhiều ham vọng cầu.

3.- Cơ Trời thời cuộc chẳng lâu
Mười năm dạy dỗ một câu chí thành
Tại sao mà lại chê đành
Vậy thì trong mỗi con nhìn hỏi nhau.

4.- Nhìn nầy nọ đó ra sao
Nhìn coi Trời Phật chỗ nào ghét ai
Hỏi sao mình lại chê hoài
Chê hoài rồi hỏi lại tài ở đâu?

5.- Tài chi tránh khỏi đáo đầu
Tài chi mà lại bỏ câu chí thành
Có tài thủ lợi cầu danh
Có tài đó vậy mới sanh đáo đầu.

6.- Cho nên Thầy mở Đạo-mầu
Là danh chẳng chuộng, lợi hầu chẳng mê
Trước sau là trọn an bề
Là đai bầu chịu hèn quê chẳng nài.

7.- Nhớ vầy làm vậy có ai
Tại không có vậy, tội ngày lớn lao
Lớn rồi muốn nhỏ liệu sao
Sẵn Thầy ra dạy tại sao cãi Thầy?

8.- Cao nầy thấp nọ không hay
Chừng cho tới lụn nói ai biểu mình?
Một năm rồi đó Canh-Thìn
Thì cơ họa phước dữ lành chẳng sai.

9.- Bước sang Tân-Tỵ rộng dài
Là trong tuổi lớn người đây nhớ người
Nhớ người đặng bớt ăn chơi
Ăn chơi rồi quá khổ đời vậy nghe.

10.- Vậy nghe lời vậy kiêng dè
Trời ra mở Đạo ráng nghe đặng nhờ
Quá ăn chơi quá hỏng hờ
Hỏng hờ rồi hết đợi chờ chịu thôi.

11.- Trời thôi hết đợi chờ rồi
Thì thân người đó vậy người hay ai
Hỏi nầy dầu gái dầu trai
Ráng mà nghe hỏi đặng ai nấy tuần.

12.- Tuần cơ vận chuyển mấy chừng
Mấy chừng rồi đó vậy ưng hay lầm
Cạn lòng hỏi lại tánh tâm
Thì con mỗi đứa nhớ thầm tự do.

13.- Tự do tín ngưỡng ráng dò
Dò theo lời dạy đặng cho biết Trời
Ngặt nghèo khó lắm con ôi!
Muốn ra cho khỏi vậy xuôi với Thầy.

14.- Xuôi bề gầy cuộc nối dây
Đặng làm cho vững lâu dài Đạo-tâm
Ráng phân ráng định mới nhầm
Ích chi lời nói giành cam lấn vùa.

15.- Giành là giành chẳng chịu thua
Cam nhiều tội lỗi gọi mua giống tà
Lấn người mà chẳng xót xa
Vùa theo hủ tục kể ra vô cùng.

16.- Mỗi con nào biết qui tùng
Sợ Thầy lo phận lành chung hưởng nhờ
Chẳng tùng qui luật vận cơ
Thì thôi đừng có ước mơ vái Trời.

17.- Nầy năm Tân-Tỵ tới rồi
Để lời khuyên nhủ Đạo Đời nhớ nhau
Nhớ nhau trong lúc nghèo giàu
Nhớ nhau nầy nọ chậm mau xa gần.

18.- Nhớ rồi thân tự nghĩ thân
Nghĩ thân người sống mấy lần thạnh suy
Nhớ coi tranh cạnh ích gì
Nhớ hồi nhịn nhục nghĩ vì tại đâu?

19.- Tại vì trong chỗ rún nhau
Tại vì máu thịt biết đau đớn đồng
Cho nên nhớ lại đau lòng
Nghĩ đời thêm cảm vầy trong đục vầy.

20.- Trong ngần vậy cũng người đây
Đục mù coi lại tiếng mày nói tao
Cả trong người lộn ta vào
Giành trong ghét đục cùng nhau cãi bàn.

21.- Muốn trong mà lóng chẳng màng
Làm hơi lánh đục lại toan quậy bùn
Đó là giành giựt khốn chung
Cũng vì không học Lý trung Đạo-mầu;
Mỗi con Chơn-Lý sẵn hầu
Hầu nghe Thầy tỏ sự đầu năm xuân.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho con một bổn, còn ba Đầu-Sư thì phải in ra phát cho Đạo Nam Nữ đặng học trả bài cho tới ngày lễ Tam-Tôn là mãn.

Trừ ra người dốt hay là tuổi già có tật không thể học đặng thì buộc phải lóng nghe đừng có bỏ qua mà có tội, đó là tội chê lời Thầy.

Còn Thập-Ngũ Linh-Đăng thì phải trả ngày lễ Thượng-Nguơn cho đủ.


******************

6. VẬN NIÊN NĂM NHÂM-NGỌ 1942

Hễ tu hành chớ cãi Trời

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 11 annam 1941 - 12 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm nay Tân-Tỵ gần mãn rồi thì năm Nhâm-Ngọ sẽ nối kế đây, nhưng mà Thầy xem lại cái chỗ tu hành phần đông vẫn còn sơ sót. Vậy Thầy cho ra ít lời để đọc cho nhuần đặng hầu lo bề cho trọn nghe mỗi con.

THI

1.- Hễ tu hành chớ cãi Trời
Hễ tu thì học theo lời dạy tu
Hễ tu đừng có oán thù
Hễ tu thì nhớ nhược nhu thắng cường.

2.- Hễ tu thì nhớ cho Thường
Hễ tu thì Thiệt Tin đường Đạo-tâm
Hễ tu thì định cho nhằm
Hễ tu thì dứt phàm tâm chớ buồn.

3.- Hễ tu thì nhớ cội nguồn
Hễ tu thì niệm đừng buông chí thành
Hễ tu thì lý cho rành
Hễ tu thì cứ phận hành chí chơn.

4.- Hễ tu khó nhọc chớ sờn
Hễ tu thì chớ phủi ơn dặn dò
Hễ tu thì nhớ phận trò
Hễ tu thì chớ sánh so lợi quyền.

5.- Hễ tu thì nhớ chơn truyền
Hễ tu đừng cậy ý riêng theo phàm
Hễ tu điều phải lo làm
Hễ tu đừng có vội tham quên Trời.

6.- Hễ tu thì phải thương người
Hễ tu đừng có dựa hơi thế thần
Hễ tu thì dứt tục trần
Hễ tu thì giữ tinh thần tốt tươi.

7.- Hễ tu đừng có biếng lười
Hễ tu thì ráng kịp thời mới hay
Hễ tu đừng nạnh tao mày
Hễ tu thì biết một Thầy ráng lo.

8.- Hễ tu chừa tật reo hò
Hễ tu đừng thói tự do khi người
Hễ tu đời sống biết đời
Hễ tu thì chớ ham lời thị phi.

9.- Hễ tu thì giữ nhơn nghì
Hễ tu thì chớ phân bì chuyện hư
Hễ tu thì hạnh nhơn từ
Hễ tu đừng sợ phước dư mà lầm.

10.- Hễ tu thì xét âm thầm
Hễ tu thì ráng nghiệm tầm cổ kim
Hễ tu thì quyết trọn niềm
Hễ tu đừng có lo tìm dị đoan.

11.- Hễ tu đừng có mơ màng
Hễ tu thì có Thiên-Đàng đợi trông
Hễ tu thì cứ một lòng
Hễ tu đừng vọng nghiêm phòng tự tôn.

12.- Hễ tu thì hiệp tâm tồn
Hễ tu nào có cậy khôn chê hèn
Hễ tu thì ráng tập rèn
Hễ tu thì tránh lời khen bợ lùa.

13.- Hễ tu thì chịu quê mùa
Hễ tu thì ngán sự đua thói đời
Hễ tu người phải nên người
Hễ tu đừng dựa vào nơi bất hòa.

14.- Hễ tu thì tránh mỵ tà
Hễ tu thì biết Phật, Ma cho rành
Hễ tu đừng có nói hành
Hễ tu đừng vị, đừng sanh chuyện nhiều.

15.- Hễ tu nói phải lựa điều
Hễ tu đừng có dệt thêu khoe tài
Hễ tu thì buộc mỗi ngày
Hễ tu thì nhớ một Thầy tại tâm.

16.- Chớ rằng tu niệm nhiều năm
Mà quên kềm thúc họa lâm khó trừ
Tu hành đừng để giờ dư
Ráng mà thâu mót đặng cư xử tròn.

17.- Hết lòng Thầy quá thương con
Hễ tu hành phận thì son sắc bền
Thương thì lo dạy cần nên
Phải nào thương để đặt tên có chừng.

18.- Thiệt nên Thầy quá đỗi mừng
Mừng cho con dại chịu vưng tiếng lành
Chớ đâu thì cũng tu hành
Nói ra thì vậy, buộc rành khó khăn.

19.- Định-Tường là Lý bổn căn
Nên Thầy thường giáng dạy răn thúc kềm
Đặng hòa một chỗ cho êm
Ngoài ra nhiều chỗ nghiệm chiêm ngưỡng lần.

20.- Bước sang Nhâm-Ngọ hầu gần
Ngày Xuân ráng học, đặng lần tới Thu
Đặng dò cho đúng lẽ tu
Đặng an bề một phá ngu ngộ hiền.

21.- Mỗi con chừng ấy phỉ nguyền
Là tu chịu thấp, nay liền thấy cao
Rồi trong phe đảng ồn ào
Quá hung thì lụy, đâu nào có sai.

22.- Gần sang Nhâm-Ngọ cho bài
Mỗi con cần học bề ai nấy làm
Hễ tu thì vậy không lầm
Hễ tu thì biết định-tâm có Trời.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho nhiều phát ra cho Đạo coi mà học. Thầy hạn cho con từ ngày Lập-Xuân bắt đầu học đặng trả bài cho tới ngày Lập-Thu là đủ (nhằm ngày 27/6 annam). Ngày 15 tháng 1 năm Nhâm-Ngọ trong Thập-Ngũ Linh-Đăng cùng Chức-sắc lớn bên phái Nữ phải trả ngày đó cho rồi, đó là trả bài thứ nhứt rồi cả thảy các nơi cũng phải trả cho đúng ngày định trên đó.

Phần Thiên-Sư phải gởi cho các chủ Thánh-Thất hay đặng truyền ra mà học, dầu Đồng-Nhi cũng vậy. Tại Thánh-Tòa phải dán Đông-Lang, Tây-Lang mỗi chỗ một bổn đặng trong Đạo coi mà học, phải đề tựa là:"Bài học ngày xuân" đặng mỗi người dễ kiểm.


******************

7. VẬN NIÊN NĂM QUÝ-VÌ 1943

Càn Khôn thế giới vận hành

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 11 annam 1943 - 3 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm Nhâm-Ngọ nầy tới đây hầu mãn. Vậy thì năm tới đây là năm Quý-Vì, trong đó mỗi con dầu Nữ dầu Nam ráng nghe Thầy dạy đây học rồi chiêm nghiệm nghe mỗi con.

THI

Càn Khôn thế giới vận hành
Mỗi con cần nhớ Đạo-thành Lý nhu.

1.- Tuy là chỗ hèn ngu quê dốt
Hễ biết tin Trời một ngôi hòa
Nghiệm lời tâm lý làm ra
Mỗi điều không hổ thẹn Ta với Người.

2.- Mỗi con nhớ Đạo Trời là đó
Đó hằng ghi chịu khó lo tròn
Ráng nhìn kia nước nọ non
Ráng coi Trời thưởng phạt trong lúc nầy.

3.- Coi rồi thấm, rồi hay vận hóa
Rồi mới thông thiệt giả hai điều
Thông rồi dò lý làm theo
Có đâu mà đến chuyện nghèo hiểm đâu.

4.- Nghe Thầy nói một câu thì biết
Biết nhờ không mài miệt của trần
Miễn làm cho có nuôi thân
Bề trong lòng chớ quên phần Đạo-tâm.

5.- Con ôi! cả dầu Nam, dầu Nữ
Ráng mà cân, mà xử lấy mình
Rõ điều tiêu trưởng hư vinh
Có chi rằng trọng, rằng khinh tiếng phàm.

6.- Tiếng phàm tục là ham bợ đỡ
Người ít tu chẳng sợ tiếng nầy
Bợ nhiều, đỡ lắm gọi hay
Mà không dè đó có ngày lụy thân.

7.- Thầy dạy ráng mà cân là đó
Mà xử thân mình nhớ phận mình
Nhớ mình tu thiệt là linh
Nhớ chừa phe đảng tâm bình hạnh an.

8.- Muôn năm có Đạo-Tràng Chơn-Lý
Mở mang lời khử mỵ hồi trung
Cậy nương vầy khỏi cuối cùng
Khỏi rồi khuyên nhớ sự chung thỉ thành.

9.- x Năm năm lời dặn hỏi rành
Từ câu từ vé nhọc nhành xiết bao
Hiện giờ là Lý chuyển giao
Định người không sái người mau hỏi người.

10.- Hỏi người ai tập ăn chơi
Hỏi người ai dạy dể ngươi chi vầy
Hỏi người ai biểu thày lay
Hỏi người ai nói, ai bày dị đoan.

11.- Hỏi người ai cậy làm ngang
Hỏi người ai vướng tội mang khổ dồn
Hỏi người ai mượn tài khôn
Hỏi người ai biểu giục bôn tranh quyền.

12.- Hỏi người ai chỉ thiện duyên
Hỏi người ai xúi quên hiền nhớ ngu
Hỏi người ai cản đường tu
Hỏi người ai quến, ai rù chuyện hư.

13.- Nghĩ từ cổ vãng kim như
Việc tu hành chánh thiện từ giúp nhau
Có thân thì có nghèo giàu
Có tu thì biết hạng nào cũng thân.

14.- Dầu cho Tiên, Phật, Thánh, Thần
Hiện nay sùng bái, xưa cần lý tu
Mới là danh để ngàn thu
Mỗi con xét lại sự tu nào hèn.

15.- Tại chưng nhiều đứa thất truyền
Nghe lời vọng ngữ làm điên đảo sầu
Từ khi Thầy mở Đạo-mầu
Mỗi con nào thuận gìn đâu có lầm.

16.- Quý-Vì năm đủ năm năm
Sự tu càng thấy diệu thâm có ngằn
Mỗi con Đời Đạo hay rằng
Rằng tu rằng cãi ai bằng Đạo chơn.

17.- Nghe rồi xét lại nguồn cơn
Dã tâm thì đọa, bất nhơn nào còn
Thế trần chung cả bầy con
Ráng nghe Thầy nói dạy trong dỗ ngoài.

18.- Tới lui đường cả rộng dài
Chẳng nghe thì hẹp đêm ngày quạnh hiu
Ví dầu cùng thế réo kêu
Đó là uổng tiếng quạnh hiu vẫn còn.

19.- Quạnh hiu là cớ mỏi mòn
Nhìn thân dường gỗ cây tròn chịu lăn
Bài nầy cho học Lập-Xuân
Thượng-Nguơn ngày lễ trả lần tới Thu;
Thu là ngày chánh Trung-Thu
Mỗi con nào trễ việc tu chưa tròn.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra nhiều, đặng gởi cho các chủ Thánh-Thất cùng là các khóm Đạo-Tràng đặng trong đó chép ra mà học. Còn tại đây thì phát cho mấy đứa có mặt làm lễ trong ngày Đàn rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra một bổn. Thầy dặn chung trong đó tới ngày Lập-Xuân sẽ học ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới Trung-Thu là ngày 15 tháng 8 năm Quý-Vì thì phải trả cho hết.


******************

8. VẬN NIÊN NĂM GIÁP-THÂN 1944

Trời sanh Trời sắp định thành

Ngày 23 tháng 11 annam 1943 - 12 giờ trưa)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, mỗi con phải nhớ lại rằng mỗi việc chi ở thế-hạ nầy đây mà gọi là Trời sanh thì mỗi con phải an lòng để cho Trời định, đừng có sanh lòng dục vọng, đừng có dạ cành nanh; hễ đứa trước thì có đứa sau, cả thảy cũng là ở trong vòng Tạo-Hóa; Thầy nói vậy mỗi con có hiểu chưa? Chớ Thầy thấy rõ phần đông trong cả thế-gian hiện giờ thường hay nói tiếng nầy: "Nếu mình còn sống đây, còn mạnh đây, không lo giành giựt để chết rồi không được nhờ trong đó, để già yếu làm sao mà chống cự cho lợi ai"; tại nói như vậy đành quên câu Trời định đó, mỗi con có thấy chưa? tính trước sợ e chết rồi không được hưởng, già yếu ăn chẳng đặng nhiều, mà không dè thân sống đây cãi Trời gây ra tội lớn, rồi cái thân đó nào có ra chi? Vậy ngày 28 năm nầy là ngày lễ Tu-My năm Quý-Vì gần mãn, Thầy nói đó cũng tỷ như lời dặn trước cho mỗi con nào có tu, có học Đạo-lý ít nhiều đặng nhớ mà an lòng, vì có học có tu mới có biết Trời sanh thì mới dễ cho mình để cho Trời định, chớ nói chi những đứa không biết Trời thì nào có rõ Trời sanh là chi? Trời định là chi?

Đây Thầy chỉ cho mỗi con nào còn mơ màng trong khoản đó, chưa quyết cái Lý Trời sanh thì xét lại như vầy: Như đêm ngày, nắng mưa, mau chậm phải đó là Trời sanh hay không? Vậy biết Trời sanh, dầu cho ban đêm có nóng việc chi cũng chờ cho Trời sáng, nếu không Trời định thì ai dễ làm cho Trời sáng được không? Nếu không phải Trời sanh đâu ai làm cho ban ngày mà cả đồng tối đặng? thì các lẽ cũng phải xét như vậy mới là dễ hiểu.

Vậy mỗi con nào nghe Thầy chỉ đó, nghe đặng hiểu liền, thì được vui lòng biết mấy, còn đứa nào nghe mà chưa thấu thì tự nghĩ lại mình, tại ít tu ít học, hoặc là lười biếng cải-canh, mượn tài khoe giác thì phải mau tự hối cho liền, đừng có để ý hờn riêng rồi tự mình làm cho mình thêm hại nghe mỗi con!

THI

Trời sanh Trời sắp định thành
Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm.

1.- Mỗi con chớ tính thầm khôn quỷ
Rồi thành ra đố kỵ gây thù
Vậy rồi ngu chịu dồn ngu
Dốt luôn đời dốt biết đâu vận thời.

2.- Thầy nói thiệt luật Trời không dễ
Thầy đã than đừng để chống kình
Trước sau mình ngó lại mình
Có chi là gọi phê bình ngược ngang.

3.- Phải sớm biết Trời ban sự sống
Đừng ỷ hay hờ hỏng không dè
Cuộc đời Trời Đất chở che
Là ai biết sợ biết nghe Lý Trời.

4.- Con mỗi đứa nghe rồi nghiệm lấy
Đừng bỏ qua ngày quấy thêm nhiều
Kìa kìa lớp hoại lớp tiêu
Thì đây mình biết bấy nhiêu giựt mình.

5.- Con mỗi đứa đừng khinh Đạo-lý
Đạo-lý đây thường chỉ tận tường
Cậy nhờ trong đó rành phương
Là phương mầu nhiệm khỏi vương khốn nàn.

6.- Con nào muốn bình an thì phải
Phải hết lòng nhớ lại Trời sanh
Chớ đừng dựa thế cầu danh
Mà quên Trời định tranh giành luống công.

7.- Con ôi! thấy Đại-đồng kiếp số
Thì ráng mau tỉnh ngộ cho liền
Đặng nhờ Trời định Bổn-nguyên
Đặng an bề trọn khỏi liên lụy trần.

8.- Trong cuộc thế xoay vần sau trước
Con nào tâm xét được thì nhờ
Chớ rằng cậy thói làm lơ
Làm lơ thì chịu lỡ cơ hội lành.

9.- Thầy nay chỉ ngọn nhành Chơn-Lý
Mười tám năm đặng nghĩ suy rành
Ấy là cơ hội Trời sanh
Một tay Trời định kết thành vẻ vui.

10.- Mỗi con chớ sụt sùi chi lắm
Mình xét ra rồi gẫm lại mình
Chỗ nào chơn thật thì tin
Chỗ nào gian, ngụy dầu vinh chẳng màng.

11.- Tiếng vinh mượn khoe càng dụng chước
Gẫm mà coi khó được lâu dài
Vậy thì con cả gái trai
Ngày nay Thầy nói nhớ hoài vậy nghe.

12.- x Rồi chung nhau một đề huề
Để coi Trời định đâu hề có sai
Tu-My Đại-lễ ngày nầy
Thầy cho bài đọc sắp bày Giáp-Thân.

13.- Nối nhau dò bước đi lần
Lần theo vận hóa tinh thần Đạo-tâm
Bước đường ngày tháng thậm thâm
Quyết tu Thầy chỉ tin nhằm độ hay.

14.- Đó rồi ai tự lòng ai
Tự lòng không hở môi bày mỵ ly
Hiếu tâm phải giữ trọn nghì
Thì ai cũng được tự tri giác đồng.

15.- Cho nên Thầy chỉ tự lòng
Lòng trong tự biết quan phòng nết sai
Quý-Vì là mãn năm nay
Mỗi con cần nhớ học bài Thượng-Nguơn.

16.- Gọi là năm thứ Giáp-Thân
Cuộc đời ai gẫm ai cần nấy hay
Gẫm Trời sanh định đời đây
Cần noi dò một Lý Thầy dạy trao.

17.- Rồi trong thấm sự nghèo giàu
Thấm điều vay trả mầy tao nực cười
Mới hay Trời định hơn người
Mới hay người mạnh qua Trời được chưa?

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo học thuộc lòng, đặng tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn năm Giáp-Thân Thầy hạn cho trả từ đó cho tới ngày lễ Liên-Hoa 22 tháng 9 thì mãn hạn.


******************

9. VẬN NIÊN NĂM ẤT-DẬU 1945

Đạo cao Trời sắp chia rành

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 11 annam 1944 - 1 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm nay là năm Giáp-Thân tới đây hầu mãn, thì mỗi con phải biết năm Ất-Dậu nó cũng gần tới đây; đó có phải là năm nối dồn năm, còn tuổi phàm của mỗi con cũng có lẽ một ngày thêm lớn, đó mỗi con xét lại coi có phải vậy chăng?

Đã biết vậy là phải rồi, còn phần tu-hành của mỗi con dầu Nam dầu Nữ trong trường Chơn-Lý đây là quyết sao cho bền chặt Thiêng-Liêng. Vậy mỗi con mới xứng đáng là Ta Người tuổi tên gồm đủ.

Đây Thầy nhắc lại cho mỗi con nhớ, là trong lúc mới vừa bước qua đầu năm Giáp-Thân thì Thầy có nói trước cho hay là Trời sanh Trời sắp định thành, mà phải nhớ câu Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm kia mới thấu hiểu đặng.

Vậy Thầy coi lại năm nầy nhiều đứa không muốn học, có ai hối thúc lắm thì gượng học cho có chừng, vì đó mà gọi mình là đứng trong trường Chơn-Lý cho được nhiều năm thì chẳng khác nào nhiều đứa hay lấy tuổi nhiều mấy chục, sống lâu đặng xưng mình là cao thượng đó, cái lẽ đó thiệt là tệ lắm.

Vậy mỗi con xét lại coi có quả vậy không? Rồi làm sao mà đạt được cái Lý Trời sanh Trời sắp định Thành. Đây Thầy nói thêm một lẽ nầy cho mỗi con nghe, Phàm làm thân con người, trước hết phải nhớ cái sự qua rồi, rồi rõ cái sự hiện tại đây, lại còn phải độ về tới là sự chưa tới đó. Đó mỗi con nghe Thầy nói vậy đừng vội cho là khó, không có khó đâu. Tại nhiều con còn cưu lòng lười biếng, hay tính giỡn chơi, tại đó mà cho là khó. Đây Thầy ví dụ cho mỗi đứa nghe: Mỗi đứa ở đời, nếu mình muốn đem trồng cây chi hay là làm sự chi, thì trước đó là sự qua rồi, còn hiện tại đây là mình trồng đây, mình làm đây, rồi độ lấy cái sự chưa đến, là độ trong đó cây đó nữa nó trổ ra trái gì, bây giờ nhiều hay ít, vật đó nữa nó thành ra cái gì, thì cũng trong hồi hiện tại mình đương làm đó, trừ ra nó chết hay là nó hư thì mình cũng thấy được hiện tại đó thì biết sự chưa tới nó không có vậy.

Vậy mỗi con nghĩ coi, nếu làm con người mà không nhớ sự qua rồi, thì làm sao mà răn dạy những đứa chưa biết sự đó. Còn sự hiện tại đây mà không rõ đó ra sao, thì làm sao mà quyết đoán cho được, rồi ai nói sao cũng đánh liều nghe vậy, thì uổng cái tiếng con người Trời sanh đó, đó là tại đâu, có phải là tại dốt không chịu học, dở lại muốn làm hay, rồi sự chưa tới càng thêm u ám nữa. Nói tóm lại cũng vì không chịu tỉnh tâm nên mới đành như thế.

Đây là ngày 10 tháng 11 năm Giáp-Thân là ngày lễ Tu-My, Thầy cho mỗi con một bài thuộc về năm Ất-Dậu nghe mỗi con.

THI

1.- Đạo cao Trời sắp chia rành
Người tu cần yếu dẹp ganh ghét phàm
Đặng do đường phải cho nhằm
Đó là Thầy chỉ diệu thâm xa gần.

2.- Con lớn nhỏ cuộc trần chung cả
Phần ít tu phần dã tâm nhiều
Lớn làm nhỏ lại nhìn theo
Chẳng thông thời vận cứ đeo tự cường.

3.- Vì vậy đó Trời thương, Phật tiếc
Tiếc người ta bỏ thiệt theo tà
Vậy rồi mê đắm trần sa
Ôi thôi! nào biết nói ra đặng nào.

4.- Người tu thiệt Đạo cao ngày thấy
Kẻ núp Trời tội quấy ngày thêm
Kể ra sao xiết nỗi niềm
Niềm tâm sự mỗi con tìm thấy chung.

5.- Thầy chứng rõ kẻ tùng người phản
Rồi nghiệm ra lời phán của Thầy
Con nào thấy được là hay
Tiếng chung nói vậy thấy vầy là riêng.

6.- x Thì trong đó được phỉ nguyền
Nguyền sao được biết nầy duyên nọ phần
Đạo cao nhờ lý hiểu lần
Là cao tại chỗ biết thân phận người.

7.- Trau giồi lành đẹp tốt tươi
Người chung mà phận tin Trời ít ai
Rồi coi gẫm lại hội nầy
Coi Thầy nói vậy phải vầy hay sai.

8.- Gẫm nầy dầu gái, dầu trai
Gẫm đời thêm thấy đắng cay chạnh lòng
Gẫm rồi thì ráng dày công
Tin Trời nghiệm Lý dẫn thông cơ mầu.

9.- Ví dầu thời cuộc tới đâu
Biết Trời trong định khỏi sầu khỏi than
Định rành biến vậy rồi an
Trong là máy tạo sửa sang xây vần.

10.- Ngoài ra rõ sự phong trần
Vất vơ rồi cũng tiêu lần từ đây
Vững lòng trong sạch đừng sai
Trời cao rọi kỹ người đây nhớ người.

11.- Nhớ trong đời sống gặp Trời
Người ta nào phải thua loài vật đâu
Bởi vì Đạo-lý cao sâu
Người ta hiểu đặng có đâu đê hèn.

12.- Hiểu thông tiên hậu nối liền
Đó người ta gọi Thánh-hiền đồng qui
Rạng danh Chơn-Lý Tam-Kỳ
Mỗi con cần nhớ trọn ghi mấy lời.

13.- Chớ nên lừng lẫy cái người
Rồi khôn hiếp dại hơn thời lấn thua
Cao sang đừng luyến bợ lùa
Vì trong biết sợ khó mua tiếng lành.

14.- Con người nhớ lại bình sanh
Nhờ đâu mà có phước lành hưởng đây
Nhớ mình rồi biết tới ai
Nhớ rồi đâu dám cậy tài ỷ khôn.

15.- Náo nương gầy cuộc bảo tồn
Trời vui được thấy con đồng biết thân
Mười năm cơ hội thấy gần
Mỗi con Đời Đạo khuyên đừng hiểm nham.

16.- Biết thân thì buộc phải làm
Làm y lời dạy tỉnh tâm trí nhàn
Bước đầu năm Ất-Dậu sang
Tỏ bày cho mỗi con hằng thấy chung.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho đây đặng con giao lại cho CA nó in ra cho con một bổn đặng đọc tại Đạo-Tràng ngày lễ Tu-My nghe chung, rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra mà học.

Còn phần Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi người một bổn đặng cho Đạo nghe, rồi cũng chép ra mà học.

Thầy hạn cho kể từ ngày 16 tháng 1 năm Ất-Dậu lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới lễ Hạ-Nguơn ngày 15 tháng 10 là mãn hạn, mỗi con cũng đều trả hết, trừ ra kẻ già yếu, bịnh hoạn không thể học được thì cũng phải ráng nghe đặng nhớ vào lòng gọi là mỗi năm Thầy có cho ra bài học.


******************

10. VẬN NIÊN NĂM BÍNH-TUẤT 1946

Lòng tin tưởng Đạo ít người

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 11 annam 1945 - 1 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy mỗi con ôi… Đạo Đời trong một lúc đen trắng lộn quá nhiều, tại đó mà cái khổ nó dồn theo; cái hiểm, cái nghèo không bao giờ bớt đặng; đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là Thầy hỏi sơ cho biết vậy chớ phần đông hiện giờ có chắc chi là hiểu, đây là gần ngày lễ Tu-My năm Ất-Dậu trong một cảnh buồn biết nói sao cho xiết; cái cảnh buồn đó nó đối với phần đông hiện giờ chưa hiểu lời Thầy hỏi trên đó, rồi mỗi con trong trường Chơn-Lý đây lúc nầy coi lại còn được là bao nhiêu thiệt hành Tâm-Đạo, nếu thiệt hành Tâm-Đạo thì đâu có quên lời Thầy dặn Thường-niên năm 1945 nầy là phải nhớ chuyện qua rồi, phải biết chuyện hiện tại, rồi chuyện sẽ tới mới chắc không lầm, thì trong đó đen trắng mới dễ cho là khác màu; dầu gặp cảnh khổ hay là chuyện hiểm, chuyện nghèo thì mình cũng dễ cho mình là biết tại đâu mà có ra đó, thì mình mới do đó mà gỡ lần, đó có phải là định-tâm đặng tầm ra lý thì Trời đâu có xa người, người đâu dám oán Trời hờn Đất; Người cho được vậy cả thì đời có lo chi mà chẳng đặng thái bình, là mình biết tự lập lấy mình trong đó cậy ơn Trời ban bố. Thảm thay cái thân người mà người chưa biết trọng, mà lại mong bày chuyện oán Trời, vì vậy mà người phải chịu tối tăm cho người đó, mỗi con có hiểu chưa?

Vậy ngày 21-22 tới đây nhằm ngày lễ Tu-My, theo lẽ mỗi con phải nhớ ngày đó nơi lòng cho lắm, đặng dò theo trong đó mà mình lập lấy thân mình, chớ 20 năm rồi Thầy dạy có bấy nhiêu điều, ngày hôm nay đành bỏ qua thì còn chi mà nói đặng.

Đây Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài cho nhớ nghe mỗi con.

THI

1.- Lòng tin tưởng Đạo ít người
Dạ hờn gây oán ngạo cười xiết bao
Cũng vì cái thói tự cao
Cũng vì không nhận mầy tao giống dòng.

2.- Nói ra Thầy rất chạnh lòng
Là con bầy một phần đông quá kình
Chẳng rành trong lý nhục vinh
Chẳng thông thời cuộc cứ nhìn dị đoan.

3.- Thành ra một lũ hoang đàng
Ôi thôi! đành chịu vầy an cho vầy
Còn phần Chơn-Lý ở đây
Nhớ Trời tin Đạo buổi nầy thấm hay.

4.- Thấm trong lời dạy của Thầy
Hay nhường, hay nhịn tháng ngày trải qua
Dầu cho lớn nhỏ trẻ già
Kỉnh lời chơn thật đó là tự tân.

5.- Rồi trông thấy được xa gần
Thấy đời thông cuộc mọi phần vẻ vang
Tuy là nhiều chỗ gian nan
Định thần suy nghĩ rõ đàng thị phi.

6.- Ráng tu hành trọn nhơn nghì
Thầy lo sắp dựng việc chi tới lần
Mỗi con nào hiểu ráng cần
Khuyên đừng khoe mạnh thế thần cầu danh.

7.- Thỉ-chung lành giữ vẹn lành
Một lời phi lý đừng sanh ý hiềm
Biết mình êm thấm vậy êm
Ngoài ra nầy nọ bớt thêm mặc dầu.

8.- Kìa kìa rõ cuộc đâu đâu
Nhớ lời chơn thật dầu đâu cũng vầy
Đặng mình yên vững là hay
Đó là Thầy nói phận ai nấy cần.

9.- Quản bao nhiêu chuyện phong trần
Có ra rồi cũng tiêu lần đó thôi
Biết Thầy, lo Đạo là vui
Trước sau mình tự thấm mùi ngọt cay.

10.- Việc chi đừng vội phô bày
Rõ thì lo sợ có Thầy dạy thêm
Thì trong mỗi việc dễ tìm
Khỏi lo ngừng ngại dầu kim cổ đồng.

11.- Mỗi ngày rồi một vẫn thông
Ráng đừng cho thẹn tiếng Hồng-Lạc chung
Đã hay là buổi cuối cùng
Có Thầy ra chỉ chịu tùng thì nên.

12.- Quyết tu thì nhớ sự bền
Phật còn mang tám nạn đền quả công
Trước sau dò Đạo-lý đồng
Phật tuy tiếng gọi ngoài trong cũng người.

13.- Chỉ cho tường tận rẽ ròi
Mỗi con đừng vội oán Trời tội thêm
Vận truyền sang Bính-Tuất niên
Đó trong Đời Đạo thấy riêng mọi phần.

14.- Việc chi đừng tập nhắm chừng
Phải dò cho kỹ sự gần lý xa
Trọn gìn thiệt đúng người ta
Trời cao, Đất rộng Phật Ma có ngằn.

15.- Nhìn câu sổ trọn ngang bằng
Một đời ai khéo lo cần thận thanh
Mỗi con nào ráng học hành
Rõ Đời, thông Đạo vui lành lẽ chơn.

16.- Dầu lâm khổ nạn không sờn
Biết rằng ai cũng một cơn phải vầy
Gần sang Bính-Tuất năm nầy
Các điều do một cơ Thầy tỉnh qui.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho trong các khóm Đạo-Tràng, các chủ Thánh-Thất đặng cho Đạo hay chép ra mà học trả bài Thường-niên. Thầy hạn cho tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn phải trả bài cho tới ngày 15 tháng 10 lễ Hạ-Nguơn là mãn hạn.


******************

11. VẬN NIÊN NĂM ĐINH-HỢI 1947

Vận cơ ngày lẹ vô cùng

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 11 annam 1946 - 3 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy nầy năm Bính-Tuất, thì năm Đinh-Hợi nó cũng gần đây, cơ hội sắp mười năm thiệt đà rất lẹ. Vậy mỗi con hiện giờ đứng trong trường Chơn-Lý đây, có đứa nào hiểu trước cái mau lẹ đó không? Đây Thầy nói lại cho mỗi con nghe, kể từ năm Canh-Ngũ (1930) Thầy ra kinh Tu-Chơn, trong đó Thầy có nói cho các con hay trước là, Thầy nói: "Thầy vì con Thầy mới đến đây", là Thầy vì các con có một điểm Chơn-Linh, không lẽ Thầy đành dạ làm lơ để cho các con sa vào Ngũ-lôi Hỏa-kiếp, nên Thầy phải cạn phân lợi hại, tỏ bày cho đủ lẽ thiệt hơn. Thảm thay! nay là mãn chín năm, tới năm Đinh-Hợi đây là đủ hạn mười năm Thầy định, mà Thầy coi lại trong Chơn-Lý ít đứa chịu tuân chịu xét cho trọn mấy lời Thầy nói trên đó. Các con nhớ kỹ lại coi từ xưa đến nay dầu cho bực Thánh nào giáng sanh hóa Đạo thì cũng vì thương, vì lo cho đứa có tội nên phải hạ mình kêu gọi đặng đứa đó mau tỉnh mà tránh bớt tội lỗi hay là khỏi thì mới vui lòng. Trong kiếp Mậu-Dần đây, trong mấy năm đầu Thầy có hứa với các con là Thầy hứa như vầy:

Các trẻ ráng nghe theo lời dặn
Ráng nghe theo làm đặng như Thầy;

Đó mỗi con trong trường Chơn-Lý bất luận Nữ Nam ráng tìm kiếm cho ra lời Thầy hứa đó đừng có bỏ qua đặng ráng mà làm theo cho được ít nhiều, chớ cơ vận không thể chờ được tâm phàm, rồi tội lỗi trong đó dẫy tràng dầu có réo kêu cũng là vô ích.

Đây Thầy chỉ sơ cho mỗi đứa nào còn chút Đạo-tâm ráng nghe, ráng độ là từ năm Thầy lập Đạo-Tràng cứu thế đến giờ trong đó Thầy quyết cứu cho hết các con nên mới bày ra sự học; có học mới có thông, có thông mới có sợ, có sợ mới có lo. Vậy mỗi con coi lại cho rành, có ai học là bao nhiêu đâu? Thầy cũng được thấy rõ những đứa có học, có tin làm theo lời dạy thì cũng được sáng suốt ít nhiều, đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là nhờ có học, có tin làm chuyện phải nên trừ bớt tội xưa, nên mới được ít nhiều sáng suốt đó. Trái lại nhiều đứa theo Thầy cần học cũng gần được tám chín năm, vì quá tư vị tâm phàm mà bày ra chuyện nghịch Thầy phản bạn, làm cho sự sáng mấy năm nay phải đành đổi vào chỗ tối; thiệt Thầy quá tiếc quá thương, nhưng tại nó không biết tiếc, biết thương thân phận của nó nên phải chịu đành. Đây là gần ngày lễ Tu-My ngày 23 tháng 12 bước đầu năm Đinh-Hợi nên Thầy cạn tỏ trước sau chỉ bày tội phước, tự ý con nào tin trọn làm theo Thầy cũng mừng cho, còn đứa nào không tin thì nó lãnh phần không tin cho trọn.

Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài năm Đinh-Hợi nghe mỗi con.

THI

1.- Vận cơ ngày lẹ vô cùng
Người không dò đặng thỉ-chung khó rành
Một câu Thầy nói làm lành
Nhiều con chưa thạo đó đành liệu sao?

2.- Lầm sa chuyện dữ chen vào
Tối tăm nào biết đâu nào dở hay
Nghĩ từ vô thỉ tới nay
Đạo Trời Chơn-Lý đâu bày chuyện hư.

3.- Tại vì người quá dể ngươi
Rồi xa Đạo-đức dồn hư mãn đời
Buổi nay Thầy tỏ cạn lời
Người ôi! đừng vội khoe lời tự kiêu.

4.- Người ôi! ráng nhớ mọi điều
Bạo hung, hiền hậu ít nhiều nghiệm suy
Dập dồn vay trả nhiều khi
Tại đâu mà có hiệp ly oan sầu?

5.- Bao giờ người biết tại đâu
Thì trong đó đặng hưởng câu thái bình
Mỗi con Đời Đạo ráng nhìn
Nhìn coi Thầy nói rõ rành thiệt hơn.

6.- Cho thường thiệt đúng lòng nhơn
Dầu cho nạn khổ mấy cơn cũng mòn
Ích gì phiền phức thon von
Mà không rành phận khó trông trọn bề.

7.- Tới lui nhiều chuyện xiêu bề
Một màu không chắc ê hề thói mê
Đó là trước vị đảng phe
Sau lầm chịu trúng dầu chê cũng rồi.

8.- Mỗi con Đời Đạo ta người
Ráng đừng cho phạm Lý Trời mới nên
Một ngày thì mỗi lớn thêm
Chất dồn danh tạm này khôn dại nầy.

9.- Bước đầu Đinh-Hợi cho hay
Các điều trong chỗ định bày tới đâu
Đặng mà cư xử cùng nhau
Phải nhìn trong một đó nào có xa.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho mỗi đứa xa gần cùng khởi sự học, ngày 15 tháng 1 năm 1947 tới lễ Tu-My là mãn.


******************

12. THẦY ĐỊNH 8 CHỮ TRONG MỖI NĂM


1) Năm Mậu-Dần 1938 Đại-hội

2) Năm Kỷ-Mão 1939 Tuần-tra

3) Năm Canh-Thìn 1940 Thầy định chữ THẢM I

4) Năm Tân-Tỵ 1941 Thầy định chữ KHỔ II

5) Năm Nhâm-Ngọ 1942 Thầy định chữ NGUY III

6) Năm Quý-Vì 1943 Thầy định chữ KHUẨN IV

7) Năm Giáp-Thân 1944 Thầy định chữ KHỐN V

8) Năm Ất-Dậu 1945 Thầy định chữ TIÊU VI

9) Năm Bính-Tuất 1946 Thầy định chữ U VII

10) Năm Đinh-Hợi 1947 Thầy định chữ BÌNH VIII

11) Năm Bính-Tý 1948 (1)


(1) Chữ BÌNH rồi mà thế gian vì lợi vì quyền mới vào có hai tháng mà thôi nên chưa cho chữ khác.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM CANH-THÌN 1940

13. Con ôi đời THẢM tới gần (1940)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 9 annam 1940 (9 giờ trưa)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

Con ôi, đời thảm tới gần (1)
Tới gần mặc tới con đừng có nao
Bề nào vậy cũng không sao
Vì trong Thầy có định giao trước rồi.

Thảm là đó vậy con ôi!
Thảm cho đứa nghịch, con ngồi xốn xang
Định giao là bế mật tàn
Khuyên con cứ thẳng một đàng vậy đi.

ĐƯỢC, Thầy cho con hay trước là vậy. Vậy con phải nói lại cho vợ con hay rồi cũng giao lại cho CA đặng nó coi đó rồi nói lại cho trong gia đình nó biết.


(1) Chữ THẢM Thầy cho hay trước, hễ sợ thảm thì đừng kiêu.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM TÂN-TỴ 1941

14. KHỔ đâu có buộc người hiền (1941)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 5 annam 1941 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Ngồi đây con giữ phận ngồi
Ngoài ra sự thế Ta Người có Ta
Con bền nhìn ngó chuyện qua
Rồi coi dẫn tới đời ra đổi đời.

2.- Đổi thay trong cũng một Trời
Dễ ai mà đặng gầy nơi chỗ hòa
Đạo thành thì cũng không xa
Người hư tệ đó cũng là lối đây.

3.- Bởi chưng đó lại như vầy
Có nghe cùng chẳng sợ Thầy với không
Chớ nên vì vậy chẳng đồng
Con ngồi đây cứ trọn không với Thầy.

4.- Không rồi thấy chuyện có hay
Là hay có vậy nào ai biết nào
Một ngày một
khổ đừng nao (1)
Vì trong cái
khổ hạng nào nấy riêng.

5.- Khổ đâu có buộc người hiền
Thầy thương Thầy nói chỉ liền con hay
Với CA bày tận Lý Thầy
Ngoài ra đừng có phô bày nọ kia.

6.- Chịu hèn, chịu dốt đời khi
Khi rồi sau
khổ cũng vì vậy ra
Giả lơ làm phận thiệt thà
Thà an phận sống ngày qua mỗi ngày.

7.- Sắp truyền cũng một thời đây
Tồn vong định phán nào sai lẽ nào
Phận con đã chán nghèo giàu
Có chi là
khổ dầu sao cũng vầy.

8.- Nói rành con rõ lại hay
Đừng quên rồi lộn rồi hay ngán thầm
Để Thường cho Thiệt tính tâm
Một Trời nơi một ai lầm tại ai;
Dặn cho con nhớ một bài
Tỏ cùng thê tử nhớ vầy vậy xong.

ĐƯỢC, bài nầy con nói cho vợ con, nội nhà hay rồi giao lại cho CA đặng nó xét đó mà nó tỏ cho nội nhà nó biết.


(1) Chữ KHỔ Thầy cho hay trước, hễ sợ khổ thì đừng ỷ.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM NHÂM-NGỌ 1942

15. Là trong thời cuộc thêm hoài chuyện NGUY (1942)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 11 tháng 5 annam 1942 (5 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Thầy thương dặn trước là vầy
Là trong thời cuộc thêm hoài chuyện
nguy (1)
Phận con bền giữ nhơn nghì
Điều
nguy, nỗi hại đâu thì ở đâu.

2.- Ở đâu gầy chuyện cơ cầu
Thì đâu đó chịu ngày lâu hết cường
Dặn con đường vững một đường
Đừng xiêu lòng sợ rồi vương nẻo nầy.

3.- Thương lòng Thầy dặn cho hay
Tỏ cùng thê tử từ đây ráng dè
Phận hèn Đất chở Trời che
Cứ nhìn sau trước chịu quê qua ngày.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy dặn con đây rồi giao lại cho CA nó coi rồi in trả lại cho con một bổn.


(1) Chữ NGUY Thầy cho hay trước, hễ sợ nguy thì đừng cường.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM QUÍ-VÌ 1943

16. Là cơn nầy KHUẨN khác hơn mỗi lần (1943)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 6 annam 1943 (1 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Ngồi đây lòng vững một lòng
Trên Trời, dưới Đất luật công đoán bình
Chuyện Đời nhiều thói bất minh
Lòng con biết vậy chớ khinh, đừng sờn.

2.- Đặng lần qua khỏi một cơn
Là cơn nầy
khuẩn khác hơn mỗi lần (1)
Mười năm trong kiếp Mậu-Dần
Khuẩn nầy nhơn loại muôn phần thiết tha.

3.- Khuẩn xong rồi mới thấy hòa
Vì nhơn tâm bạo thành ra đỗi nầy
Lòng con biết vậy hay vầy
Ngoài ra đừng ngán có Thầy định phân.

ĐƯỢC, bài nầy con đọc cho vợ con nghe, rồi giao lại cho CA đặng nó coi đó mà hiểu lời Thầy nói rồi in trả lại cho con một bổn.


(1) Chữ KHUẨN Thầy cho hay trước, hễ sợ khuẩn thì đừng bạo.


******************

17. Thầy để ra chữ KHỐN (1944)

Ngày 23 tháng 5 annam 1944 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy nầy mỗi con trong trường Chơn-Lý phải nhớ lại cho rành, một ngày lụn một tháng qua, cuộc Đời cơ Đạo càng thấy khác nhiều, mà cũng không qua khỏi các lời Thầy đã nói trước cho mỗi con hay là thường năm thường có dặn từ năm Canh-Thìn cho đến năm nầy là năm Giáp-Thân, có lẽ mỗi con còn nhớ ít nhiều là năm nào hễ qua ngày lễ Tam-Tôn rồi Thầy có cho hay trước đó.

Vậy mỗi con nghe Thầy nhắc vậy rồi nhớ lại thử coi; nào là THẢM, nào là KHỔ, nào là NGUY, nào là KHUẨN thì cũng trong mấy năm nay mà Thầy nhắc lại đây coi lại ít đứa nào nhớ cho trọn đó, lại còn phần không kể không nhớ là khác.

Vậy năm nầy Thầy để ra chữ KHỐN đó, đặng trừ cái Thói Mạng, là cái thói của bọn võ-phu hay kiếm điều cãi bàn dối trá, thì mỗi con có tu có học ráng dặn nơi lòng, chớ thói võ-phu với phàm-phu nó cũng là qua lại trong đó, dầu cho Đời hay là Đạo nếu không xét Lý thì phải sai lầm; ngày hôm nay Thầy nhắc vậy, chỉ vậy đặng mỗi đứa ráng dò lại cho hết các lời Thầy thì mới biết Thầy vì thương mà nói, chớ không phải vì ghét mà bỏ liều.

Đây Thầy hỏi sơ một tiếng nầy rồi mỗi con nghiệm cho cùng tiếng đó, mỗi con có lẽ cũng thường nghe cái tiếng thế-gian thường hay gặp việc chi trước tại cái lời ngay, sau bị vào chỗ Khốn thì cho là đáng kiếp, cái tiếng đó mỗi con nhớ lại coi ai nói đó tại sao mà phải nói vậy, thì mỗi con nghiệm thấy rõ ràng rồi nhớ lại lời Thầy nói trước cho hay là "ví bằng kiếp số đến ngày" đó rồi gẫm lại coi những các điều khốn đó có đáng hay là không? Thì trong kiếp sống của mỗi con đây mới chắc sao lành sao dữ, Trời cao Đất rộng, Người mạnh tới đâu, Đạo-lý cơ mầu thưởng răn nào sái, đó Thầy hỏi rồi chỉ sơ chút ít đặng mỗi con thấm lại cho cùng, chớ việc cả thế-gian Thầy không thể nào nói cho nhiều đặng, đã biết vậy mà tự lòng mỗi con ít nhiều trong đó, đó tại tin với không tin, dầu Thầy có nói cho nhiều mà lòng mỗi con cứ lo gìn thói mạng thì nói cũng như không, còn Thầy nói ít mà mỗi con nghe trọn xét mình thì hóa ra nhiều chỗ biết.

Vậy ngày nầy là ngày Thầy cho ĐƯỢC nghỉ tại Cảnh Vô-Vi thường năm thường có, nên để ra lời nói mỗi con đừng tưởng vậy mà chơi rồi vương vào tội lỗi nghe mỗi con.

THI

1.- Đạo tuy là Đạo của Trời
Trời thương Trời chỉ cạn lời phải chăng
Trước sau trừ chế có ngằn
Đạo Đời hai ngã ngang bằng sổ ngay.

2.- Bởi vì nhiều chỗ chưa hay
Nhiều nơi thường nói Đạo nầy Đạo kia
Cãi bàn tranh luận xiết chi
Rốt rồi thành chuyện hiểm nguy cho mình.

3.- Chưa tường Chơn-Lý chánh minh
Đạo Trời khai hóa vẫn
tin thiệt thường
Cũng trong
kiêu ỷ tới cường
Rồi sanh tàn
bạo đâu tường phải chăng.

4.- Tung hoành vu mạng hiền nhơn
Đạo Trời trông thấy lắm cơn ngậm ngùi
Thảm sầu mà tưởng vầy vui
Khổ ngày thêm lớn lại đua nhau giành.

5.- Nạn nguy nhiều lúc tan tành
Rồi lâm cuộc
Khuẩn thôi đành phải tiêu
Khốn lây vì để người nhiều
Đạo Trời phân đoán dò theo mới tường.

6.- Mỗi con cần nhớ bước đường
Là năm Thầy lập tinh-thần Vạn-Linh
Trước sau đừng tính gập ghình
Hòa nhau một lý tâm bình tỉnh thông.

7.- Đó là rõ Đạo nhờ công
Quả bền chung học cho đồng chớ sai
Vẻ vui ngày đẹp thêm hoài
Của Trời cho sẵn đức tài hạnh chơn;
Trong tuần Ngũ-Ngoạt Giáp-Thân
Mỗi con nào biết tự tân ráng gìn.


Bài nầy giải nghĩa chữ KHỐN.


******************

18. Thầy cho ra một chữ TIÊU (1945)

Ngày 23 tháng 5 annam 1945 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

Trong giờ nầy Thầy giáng bút đặng tỏ cho mỗi con dầu Nam dầu Nữ, có học có tu chẳng ít cũng nhiều trong trường Chơn-Lý đây, kể từ ĐƯỢC ra lãnh phận sự Hiệp-Thiên-Đài Tam-Tôn chánh-vị, thì mỗi con nhớ lại coi có phải là 8 năm rồi. Vậy phần đông mỗi con Thầy xét lại ít đứa để trọn lòng tin vào đó, rồi làm sao mà nhớ cho hết mấy lời mấy chữ Thầy để theo mỗi năm. Nếu không nhớ vậy làm sao mà biết sợ biết lo, đúng năm nầy là năm Ất-Dậu Thầy cho ra một chữ TIÊU đặng trừ thói nghịch. Dầu nghịch Trời, nghịch Đất, nghịch Chúa, nghịch Cha, nghịch Thầy thì cũng là trong tội nghịch.

Vậy mỗi con nghe Thầy nói đó xét lại mình coi có vướng vào tội nghịch nào không? thì mới dễ cho mình trong phận làm người mà khỏi vướng tội nghịch trái đó. Đây Thầy cũng vui lòng cho một bài văn vần đọc tiếp hiểu thầm trong trí nghe mỗi con.

THI

1.- Người ta sanh ở dưới Trời
Phạm trong Ngũ-nghịch phận người còn chi
Rõ ràng lời Thánh có ghi
Học nhiều không kể tội khi tấp vào.

2.- Mỗi con Thầy dạy từ nào
Tùng qui chánh Đạo cần trau xét mình
Mở lời ai cũng trọn tin
Gạn ra từ khoản khó in như lời.

3.- Con ôi! người ở dưới Trời
Nói ra còn dối sợ Trời hay khi
Vậy rồi con mỗi xét đi
Đặng chừa cho dứt tật khi tâm thần.

4.- Chớ nên bàn tính hẹn lần
Trời đâu có vị theo trần tục đâu
Nghịch Thiên là tội đứng đầu
Thờ Tâm-Nhãn Đạo tại sao dám vầy.

5.- Nếu rằng Trời Đất chẳng hay
Ngoài ra còn có gọi ai biết Trời
Tại vầy nhiều đám dể ngươi
Nhiều nơi dồn dập khổ đời nạn lây.

6.- Còn phần Chơn-Lý ở đây
Quyết lòng theo Đạo nhớ Thầy độc tôn
Đặng tin nhìn chủ Tam-Hồn
Đặng gìn tâm lý giữ lòng thuận xuôi.

7.- Con ôi! Thầy quá ngậm ngùi
Vì trong số nghịch lâu rồi quá đông
Ít ưa lời phải dặn lòng
Ưa điều ngang ngược ngoài trong chống kình.

8.- Chi chi thì cũng ỷ mình
Nầy mưu nọ kế không nhìn lẽ chơn
Sa hầm lạc hố nhiều cơn
Tới nay còn vọng ý nhơn thắng thời.

9.- Cho nên Thầy phải ngậm ngùi
Vì thương để dạ Luật Trời khó dung
Mỗi con nào quyết thuận tùng
Thì an bề giữ Đạo trung chí thành;
Rồi trong mỗi việc thấy rành
Trời ban sự sáng ngày sanh vẻ mầu.


Bài nầy giải nghĩa chữ TIÊU.


******************

19. Kiếp đời cam chịu cảnh U tới cùng (1946)

Ngày 14 tháng 5 annam 1946 (3 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy:

1.- Thầy quyết lập cơ mầu qui nhứt
Thế tình chưa rõ luật tuần huờn
Cứ giành cho một mình hơn
Mà không dè thiếu sự nhơn khó thành.

2.- Rồi biến sự ghét ganh hờn lộn
Quỷ quyệt bày mưu chống kình nhau
Quá hung rồi phải hóa sầu
Kiếp đời cam chịu cảnh
U tới cùng.

3.- Vì vậy biết đâu rằng chuyện phải
Mặc tình lo tính vậy ưng rồi
Quá buồn cho gọi là vui
Đó là
u ám nghe rồi ngẩn ngơ.

4.- Vì cơ vận ngày giờ sang tới
Hạn mười năm Thầy nói lâu rồi
Sắp bày cho trọn đầu đuôi
Dữ lành phân định cần nơi rõ chừng.

5.- x Phận con nầy chín năm gần
Tới đâu cần định tâm thần rõ thông
Dầu ai ganh ghét mặc lòng
Để phần riêng tự ai dùng nấy lo.

6.- Trải qua nhiều chuyện reo hò
Đạo Đời chen lấn ta người đảo điên
Đây năm Đinh-Hợi phỉ nguyền
Hiện đây Thầy nói độ liền hiểu mau.

7.- Ráng dò học hỏi từ câu
Mấy năm về trước nghiệm cầu lý sau
Thì trong rõ luật Thiên-Tào
Rõ điều nhơn nguyện dụng mầu nhiệm linh.

8.- Lần lần tiêu trưởng hư vinh
Một phen nầy khó phê bình thị phi
Trọn phần Đạo-lý Vô-Vi
Phận con gìn trọn điều chi có Thầy.

9.- Khó khăn vầy chịu phải vầy
Nhìn ra rồi thấm sự hay của Trời
Chỉ cho con nhớ vậy rồi
Trao bài NĂM đọc rõ thời cuộc chung.


******************

20. Trở rồi sau mới Bình-phân (1947)

Ngày 22 tháng 5 annam 1947 (3 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Con phải biết mười năm Thầy định
Định cho con tùng lịnh thi hành
Đặng làm cho trí huệ sanh
Đặng cho Đời rõ mối-manh Đạo-mầu.

2.- Đời tại quá ham mùi vật chất
Vì vậy nên còn mất không rành
Đến cùng còn luyến cạnh tranh
Ôi thôi! đời mạt kiếp đành hết trông.

3.- Thầy thiệt quá thương lòng trong đó
Xét từ câu châm chế đủ điều
Ngặt vì người quá tinh yêu
Khó bề thâu dụng, bỏ liều quá đông.

4.- Đây Thầy định trước phòng con nhớ
Cuộc đời tuy day trở không chừng
Trở rồi sau mới Bình-phân
Đó là Tạo-Hóa luật cân đoán hành.

5.- Thành tựu thấy Đời thanh, Đạo thới
Thì mới hay rằng tới luật nầy
Ráng mà định nhớ từ đây
Ráng coi Trời sắp, Trời sai khiến cần.

6.- x Thì trong chuyện khó dứt lần
Mới hay là luật Hình phân có Trời
Hiện giờ cười khóc nơi nơi
Là cho trọn thấm buổi đời dại khôn.

7.- Còn phần Chơn-Lý vẫn thông
Thì lo bề vững đặt trong chí thành
Việc chi cần ráng xét rành
Cần năng nghiệm lý thiệt hành đừng quên.

8.- Mỗi bài căn dặn thường niên
Ráng coi rồi hiểu sự khuyên bảo đồng
Thỉ-chung lòng chắc một lòng
Bợn nhơ đừng vấy ngoài trong phỉ nguyền.

9.- Rõ Trời Phật giải nhiều phen
Giải cho người hết đảo điên thuận hòa
Chán chường đó vậy gần xa
Đó là Thầy chỉ đặng ra sức tìm.

10.- Phận con niềm ráng trọn niềm
Với CA vừa vẹn, NĂM liền thế đây
Trước sau nhìn một Lý Thầy
Mới là không thẹn râu mày tuổi tên.

ĐƯỢC, bài nầy con coi rồi nói lại cho vợ con nó hay, rồi cũng giao lại cho NĂM một bổn, đặng nó coi rồi nói lại trong gia đình nó biết.


******************

LỜI TIÊN-TRI TAM-TIỂU-THỜI

21. Ngọc-Đình sắc tứ Luật điều qui


NGỌC Đình sắc tứ Luật điều qui
HOÀNG lịnh xa thừa kẻ tự khi
ĐẠI-Kiếp Đại-Thành kỳ tám chục
ĐẾ ân rộng mở Cảnh Vô-Vi.

Nền Đại-Đạo trang bằng rất quý
Mối Vô-Vi Âu Mỹ đương tìm
Thương con Thầy dạy tất tim
Sao con nỡ để sắn bìm phủ leo;
Thương con Thầy chỉ lái lèo
Con đành hơ hỏng cái dèo gió dông.

CHƯỞNG quyền thưởng phạt thay Trời
GIÁO truyền Đại-Đạo độ người trầm luân
THIÊN-Điều mắc mỏ muôn phần
TÔN đường Chơn-Lý gặp xuân tư mùa.

CHÚ GIẢI

Bài nầy đến ngày 15 tháng 12 năm 1944 ban hành đầu giờ cúng Tứ-Thời cho đến sau thì thấy có hiệu nghiệm nhiều vì Thầy làm Cha Thiêng-Liêng không muốn thưởng phạt Đại-đồng thế-gian.

KHƯƠNG lãnh lời vàng Chưởng-Giáo-Tông
THÁI thanh ráo lưỡi viện Hàng-Long
CÔNG tâm giúp vững An-Thiên-Hội
Giáng điển chung lo buổi rắn rồng.

Chào chư Thiên-mạng.

Từ đây Tạo-Hóa một lò
Rèn gươm Chơn-Lý diệt trò Quỷ-vương.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

13.- Rằng ở thế bạc tiền là quí
Thử đem lo với quỷ vô thường
Chi bằng tích đức tu nhơn
Dày công bố thí thập-phương giữ giùm.

14.- Trời rộng lớn bao trùm sông biển
Chẳng sót ai một chuyện ở đời
Tu hành lo học làm Trời
Phải nào kiếp kiếp làm người thế-gian.

15.- Lão đây hiệp toàn ban La-Hán
Rằng trước sau sẽ giáng phàm trần
Thay Thầy lập Đạo hóa dân
Những điều sẽ dạy khuyên cần chỉ theo.


******************

22. Hồn nào quá nặng đày ra nơi khóm Hải-quần

Ngày 6 tháng 5 annam 1938 (12 giờ khuya)

-----o0o-----

KHƯƠNG lãnh chơn truyền giáng Hiệp-Thiên
THÁI phân tu niệm độ Chư-hiền
CÔNG khanh Bác-ái tầm nhơn lộ
Giáng hộ Linh-đàn hỷ vạn Tiên.

Trước Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi, Lão kính chào Hàng-Long Chơn-Tánh, Bửu-An-Thiên, chào chư vị Đại-Tiên đồng vui cho thế cuộc cơn an rồi biến, lúc biến lại an. Hiện nay Lão vưng lời Từ-Phụ lãnh quyền Chưởng-Án tại Tòa-Thánh Định-Tường là nơi phán xét; thảm thay dòm vào sổ bìa đen ghi đầy tội lỗi, đã vậy mà nơi Lịnh-Tòa còn sửa soạn lo tuyên án rất nhiều; Lão dòm thấy quá buồn cho thế cuộc, ham chi danh lợi rồi Linh-Hồn phải chịu Luân-hồi, cho đến đỗi Ngũ-lôi tiêu diệt là khác nữa. Hiện nay bốn phía khói bay, năm Thần vỡ chạy, chạy đặng chi? Chạy đặng tìm kiếm các Chơn-Linh sa ngã vào ác nạn đều cũng còn biết ăn năn. Tại vậy nên Từ-Phụ sai năm Thần ấy ngày đêm chẳng nghỉ, kẻ đi chỗ này, người đến chỗ kia đặng dẫn các Chơn-Linh ấy đem về Đài-Châu-Thiên đặng cho Thầy phán xét. Hồn nào nhẹ tội cho tái kiếp tu hành đặng lập đời sau cho yên ổn. Hồn nào quá nặng đày ra nơi khóm Hải-quần đặng làm tôi tà quái mà lo trả quả cho rồi. Còn các hồn chưa trọn giác tâm thì phú cho Ngũ-Lôi tiêu diệt.

Chư-hiền ôi! Chư-hiền rất có duyên, có phước nên ngày nay còn đứng vững trong Chơn-Lý đây. Vậy Lão khuyên Chư-hiền ráng lo Công-quả chớ nên kình chống, so đo rồi sanh ra ác cảm, tội ấy có ai thế đặng không? Tại vậy nên Đông-Phương-Sóc Người có tiên tri trong lúc trước đó.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

CHÚ GIẢI

Đức Khương-Thái-Công là một vị Đại-Thần làm tay mặt hay là tay trái của Đức Chí-Tôn. Ngài chấp chưởng ba vật báu của Trời:

1- Đả Thần-Tiên.
2- Hạnh-Huỳnh-Kỳ.
3- Thái-Cực-Đồ (đỏ, vàng, xanh).

Báu Thái-Cực-Đồ (đen, trắng, tím, ngôi Vô-Vi Cảnh) cho nên An-Thiên Đại-Hội kỳ nhứt Ngài có quở mấy anh T.N:

Dầu cho mình đá dạ đồng
Đả Thần-Tiên xuống cũng không còn hồn.

Qua Canh-Thân (1932) lập Tòa-Thánh Trung-Ương, Ngài mở đàn có biểu hiệu Hạnh-Huỳnh-Kỳ. Đến năm Quý-Dậu kỷ niệm An-Thiên Đại-Hội, Ngài có xướng Thái-Cực-Đồ giữa Đàn, tại Châu-Thiên-Đài khánh thành thì có bàn thờ của Ngài ở giữa dưới ngọn đèn Thiêng-Liêng lục giác màu xanh, công lao của Ngài với Đạo rất lớn lao và công giáo hóa của Đức Sư-Tôn cũng rất to tát.


******************

23. Nầy Nam Nữ Chư-hiền nghe dặn

Ngày 3 tháng 6 annam 1938 (11 giờ trưa)

-----o0o-----

CHƯỞNG-Quản ba mươi sáu cửa Trời
ÁN từ phân định khắp nơi nơi
THIÊN công Luật cả tu thì hưởng
THẦN Đạo nào dung tội khuấy Đời.

1.- Nầy Nam Nữ Chư-hiền nghe dặn
Phải kiêng lời Trời đặng răn người
Hiện giờ cả thảy các nơi
Tại không tuân Luật, khuấy đời mới hư.

2.- Người Nam-Việt phước dư Trời để
Dạy tu hành học để sửa mình
Nhiều tay lại muốn hoành tung
Ấy là vô cớ tại mình gây oan.

3.- Ta nay hiệp toàn ban La-Hán
Xuống phàm trần Chưởng-Án thay quyền
Lời khuyên khắp cả Chư-hiền
Khá mau hối ngộ khỏi phiền khỏi than.

4.- Tây-Ninh trước vì mang tội lỗi
Chuyển Hậu-Giang lập Hội độ Đời
Lần lần sanh chuyện lả lơi
Vậy nên cơ Đạo định thời Trung-Ương.

5.- PHÙNG ỷ sức nên vương tội lỗi
Còn mình CA khó nổi lập thành
Hàng-Long phải chịu giáng sanh
Hiệp thân với ĐƯỢC ngày lành tháng hai.

6.- Đặng giúp việc đủ hai Chưởng-Quản
Thảm cho CA gần mãn kiếp trần
Cũng nhờ Từ-Phụ ban ân
Cho CA tăng thọ trọn phần hai năm.

7.- Ngày nay Lão ra cầm mối Đạo
Hiệp Hàng-Long sửa bạo ra hiền
Còn phần của Bửu-An-Thiên
Thì lo sắp đặt lãnh riêng phần Đời.

8.- Đặng qui hiệp các nơi một chỗ
Lo học hành mới rõ Đạo Trời
Nếu ai còn tánh lả lơi
Ta e khó tránh khỏi nơi tội hình.

9.- Vào Bửu-Điện ráng nhìn cho kỹ
Lịnh của Thầy cặm giữa Trung-Ương
Ngoài kêu là hiệu
Định-Tường
Đặng cho Đời rõ
Ngu-Đường trị dân.

10.- Nam cùng Nữ nghe phân tự xét
Xét cho rành lẽ thiệt điều hư
Quyết tu trước phải thiện từ
Nếu mang ác cảm ai trừ TỘI cho.

Ta xin kiếu.

Thăng.

******************

24. Hiện nay chuyển phạt Đại-đồng

Ngày 3 tháng 4 annam 1940 (6 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con nghe Thầy dặn:

1.- Hiện nay chuyển phạt Đại-đồng
Lớp qua lớp tới một vòng này đây
Con nào muốn khỏi vòng nầy
Thì tuân lời dặn của Thầy đừng quên.

2.- Dặn là dặn cho bền tâm tánh
Đừng hớ hinh kiêu hãnh theo phàm
Đó là dặn cả Nữ Nam
Quyết tin thì buộc nhớ làm cho y.

3.- Trong một hội Tam-Kỳ luân chuyển
Là luân phiên cơ chuyển ra hoài
Chuyển tuần nầy rủi nọ may
Cả nhơn quần loại chẳng sai chẳng lầm.

4.- Mỗi con ráng hồi tâm nghiệm xét
Lý xa gần nầy thiệt nọ hư
Chớ đừng húng hính nhàn cư
Rồi sau ngửa mặt khó trừ tội khi.

5.- Tội khi đó thường ghi hằng bữa
Thầy ngó qua phân nửa Hoàn-cầu
Tại vầy nên phải chịu lâu
Là do lừa gạn trước sau có phần.

6.- Trước có phải sau lầm còn dễ
Sau biết lầm chẳng kể tại thêm
Hằng ngày thế sự khó êm
Vì lo chạy kiếm phương tìm cứu nguy.

7.- Chạy kiếm thuốc mà khi thầm tưởng
Tại vầy nên tội vướng hai đàng
Dập dồn khổ nọ nào an
Nên Thầy thường dặn phòng toan xét mình.

8.- Tiếng Thầy dặn không nhìn không kể
Cứ kể theo tình thế ngạo cười
Cho nên đồng tội khi Trời
Lớp qua lớp tới chẳng rời tại khi.

9.- x Mỗi con nào muốn tu trì
Thì lo bớt chuyện tự khi cho rồi
Đặng rồi thong thả con ôi
Con ôi! Thầy nói lâu rồi nỡ quên.

10.- Tu trì cho trọn là nên
Nên người hạnh đức mình riêng có phần
Chớ đeo chớ luyến nợ nần
Là theo dựa thế dựa thần chẳng xong.

11.- Thế chi tránh khỏi Đại-đồng
Thần thông tà thuật Luật Công chẳng vì
Thế thần cho quá rồi khi
Là cho Đạo-lý Vô-Vi biết tài.

12.- Mượn quyền thế lực là hay
Ham thần thông đúng có ngày phải vương
Ỷ cho đó vậy là cường
Cường vô quá lý lẽ thường chẳng sai.

13.- Khinh khi là gọi khoe tài
Khoe tài hại chúng gầy tai nạn nhiều
Nói ra cho rõ các điều
Đặng cho mỗi đứa nhìn theo thấy rành.

14.- Ngày nay Chơn-Lý đạt thành
Là nơi Thầy chọn giống lành để sau
Con nào sớm biết tỉnh mau
Thì lo dẹp bớt lời cao tiếng cường.

15.- Đặng lo an phận thủ thường
Gìn nơi Đạo-đức là phương cứu mình
Chớ đừng chê Đạo chẳng vinh
Mà quên chịu nhục lánh mình khỏi tai.

16.- Tuy là nhục ở bề ngoài
Còn trong vinh diệu nào ai biết vầy
Vì chưng ỷ chắc có Thầy
Tại lòng mơ mộng tưởng hoài sự tham.

17.- Chẳng dè chẳng biện mà ham
Vì cơ chuyển lập Kỳ-Tam lạ thường
Lạ vì không dụng cang cường
Thường đem Lý thiệt nhịn nhường dỗ khuyên.

18.- Nên chê rằng vậy quá hiền
Không vừa ý muốn sự riêng thói đời
Tại vầy mà dám dể ngươi
Vì không biết sợ Lý Trời là Không.

19.- Không không mà phủ bao đồng
Gạn riêng phần dữ một lồng nhốt chung
Vì cơ vận khí cuối cùng
Nên Thầy mở Đạo lựa dùng kẻ nhơn.

20.- Tại vầy mà chẳng khác hơn
Vì nhơn thắng bạo phần hơn sẵn rồi
Ráng lo Đạo-đức vun bồi
Bồi cao nền vững khỏi sùi sụt hư.


CHÚ GIẢI

Nước Đức khởi chiến bên Âu-châu tới năm 1944 mới có hòa bình (coi Vận-niên năm Canh-Thìn 1940) bài "An an biến biến đổi dời"


******************

25. ĐỒNG MINH

Tốt quá không gìn tốt phải hư
an sao chẳng nhớ nhơn từ
Ngày nay thấy vậy ngày nay biết
Nhơn
ngã cho bằng Đạo-lý dư


******************

26. CUỘC CỜ

Ngày 6 tháng 7 annam 1941 (12 giờ khuya)

-----o0o-----

1.- Cuộc đời càng ngó tới đâu
Ngó rồi dò Đạo-lý sâu nhiệm mầu
Ngó coi nầy thảm nọ sầu
Ngó cùng coi lại thì đâu cũng Trời.

2.- Tại cơ gầy dựng sửa Đời
Đời không nhìn nhận nên Trời quá thương
Quá thương nào phải sự thường
Bi thương Đời Đạo cang cường tự do.

3.- Thương nhiều vì nạn lớn to
Cũng là tại bởi sánh so lợi quyền
Cho nên cuộc đó chẳng hiền
Rồi trong đời đó chịu điên đảo hoài.

4.- Một Trời mà Lý có hai
Là hai điều thưởng phạt ngay buổi giờ
Thế-gian thường nói cuộc cờ
Mà cơ đắc thất hiện giờ chẳng minh.

5.- Chẳng minh mình buộc rối mình
Là không rành cuộc rồi tin chẳng nhằm
Cuộc cờ càng ngó càng thâm
Ngó mà quên xét ai làm có đây.

6.- Ngang bằng rồi lại sổ ngay
Thẳng băng rành rạnh phận ai nấy chừng
Tại đâu mà phải tưng bừng
Nầy Xe, nọ Pháo, Ngựa dừng, Chốt ngăn.

7.- Chẳng tuân sổ thẳng ngang bằng
Giành xuôi lấn ngược rồi lăn lộn lần
Lâu ngày họa kết cơ thâm
Rồi đâu cũng có sự hăm hở trừ.

8.- Trừ hoài không dứt lại dư
Mà quên ngày trước ý tư tạo thù
Quá chừng Trời giáng dạy tu
Cuộc Đời không đếm cứ đua vậy hoài.

9.- Cho nên ngày mỏn thêm hoài
Mà trong cuộc đó tưởng vầy gọi cao
Không dè làm trước thiếu sau
Chừng coi trở lại thì đâu cũng mòn.

10.- Chỉ rành cho đó vậy con
Con bền an một lòng son sắc thường
Cuộc lâu ngày thấm suy lường
Cơ Trời không vị, không nhường đám ngang.

11.- Chuyển xây rồi lập vững vàng
Nhưng đều khó lộ cho hàng đảng phe
Định thần Thầy nói con nghe
Cuộc đời gay trở éo le lạ lùng.

12.- Gây hoành rồi trở lại tung
Có lòng le lưỡi cũng chung cuộc nầy
Phải chi đồng đến lạy Thầy
Thì đâu có chuyển lưng đầy đổi thay.

13.- Tại vì ỷ mạnh cùng hay
Quên Trời sanh mạng mới lây nạn nhiều
Giờ khuya Thầy tỏ mọi điều
Trao lời CA rõ dò theo đó làm.

ĐƯỢC, Thầy dạy con định-tâm giờ Dậu, rồi giờ Tý Thầy chỉ cho con coi, còn giờ Mẹo Ngọ hai giờ trải lần lần tới phần đó độ đây sẵn Thầy trong đó.


******************

27. HOAN BI THẾ CUỘC

Ngày 6 tháng 9 annam 1938 (4 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con chấp bút cho Thầy dạy con viết ra một bài gọi là: "HOAN BI THẾ CUỘC" đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu-Thiên-Đài mà phán xét các điều tội phước. Bài như vầy:

THI

1.- Châu-Thiên, Hiệp, Trùng-Đài cao vọi
Thầy giáng lâm Đại-hội Chư-Thần
Xét rành tội phước cân phân
Căn lành kiếp đọa thưởng răn đủ điều.

2.- Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
Đứa thì ngày trước dày công
Có tu mà lại có trông chuyện xằng.

3.- Có đứa muốn siêng năng làm phải
Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
Vì mê ma quỷ lả lơi
Tại vầy nên chẳng biết Trời là đâu.

4.- Phần quyết tính chơn tu thì ít
Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
Thầy xem thấy rõ đủ điều
Các nơi động phủ thảy đều về tâu.

5.- Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
Cả thảy nhìn vào án Ngũ-lôi
Cơ quan Máy-Tạo sửa đời
Luân qua chuyển lại đổi dời Hồn thay.

6.- Làm như vậy kịp ngày giờ phán
Dựng nên đời bỏ oán theo hiền
Tuần huờn Tiên, Hậu nhị Thiên
Đồng chung qui tại Châu-Thiên một bầu.

7.- Ai sớm biết hồi đầu sum hiệp
Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
Nếu còn lòng dạ tư riêng
Đạo chưa tới Đạo thấy liền yêu ma.

8.- Chớ lầm tưởng Người Ta là vậy
Người Ta nhờ tin cậy chủ nhà
Chủ nhà chẳng ở đâu xa
Là nơi Thầy định gọi là Chủ-Ông.

9.- Chủ-Ông đó là không đặng thấy
Còn thấy đây là thấy Cái Người
Cái Người nó ở phần đời
Đời nên nhờ chỗ sợ lời Chủ-Ông.

10.- Ta là chỗ có không còn mất
Ta lo gìn sự thật cho người
Cái Người nương đó phá đời
Cái Ta lại cậy cái Người là đây.

11.- Thầy chỉ tắt khoản nầy cho rõ
Trời có mây, Đời có Ta Người
Trời cao Đất rộng muôn đời
Đời quên Trời Đất hại người nào hay.

12.- Trời cao vọi mây bay từng dưới
Người đối Ta, mây đối với Trời
Ta đây cũng tỷ như Trời
Người như mây phủ cho đời lập công.

13.- Người phải rõ phải thông mây gió
Mây gió là chỉ chỗ sang hèn
Đủ màu xanh đỏ trắng đen
Là nơi màu sắc tục quen tranh giành.

14.- Chẳng lo hiệp lập thành Chơn-Lý
Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
Đọa đày khổ hạnh liên miên
Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy.

15.- Người Ta hiệp là thương nòi giống
Chẳng giết nhau đặng sống lâu dài
Người đây Ta đó có Thầy
Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên sa.

16.- Người muốn hiệp còn Ta không muốn
Là cái Ta nó chống lại Người
Ta nghe, Người cãi viện lời
Đó là tại chỗ cái Người cự Ta.

17.- Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẵn
Mà chưa xong một khoản Ta Người
Chê bai cười nói lả lơi
Vì vui, vì giận quên Người, quên Ta.

18.- Năm nầy đến kỳ ba Tam-Tiểu
Cả thế-gian còn thiếu đoạn nầy
Tranh giành ỷ giỏi khoe hay
Mà quên trong đó tao mầy hại nhau.

19.- Tại không nhớ mầy tao một giống
Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
Đã đành máu chảy thây phơi
Nhìn coi thấy rõ Đạo Người còn chi.

20.- Thầy chép để "HOAN BI THẾ CUỘC"
Vui với buồn lặn hụp sông mê
Đứa kêu đứa rủ đề huề
Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau.

21.- Sóng cuồn cuộn đua nhau hỉ hả
Chừng mỏn hơi thịt rã xương chìm
Một lằn nước đục đỏ thêm
Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà.

22.- Chác tội lỗi gầy ra quá ngán
Luật Chí-Công xử đoán thêm buồn
Tiếc gì mà chẳng chịu buông
Buộc đeo cho nặng trầm luân lại mừng.

23.- Thầy xem xét oan ưng các lẽ
Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
Ngọc-Kinh là chỗ Thiên-Đàng
Ít người dám đến vén màn lạy Cha.

24.- Lại ưa đến trần sa địa ngục
Kẻ đuổi xô mạ nhục lại gần
Đổ thừa thân hữu khổ thân
Khổ thân là chỗ ân cần học tu.

25.- Vì không rõ chữ ngu, chữ trí
Tại không thông chữ Lý, chữ Quyền
Đổ thừa viện lẽ ý riêng
Đặng cho vào sổ bìa đen cho nhiều.


******************

28. NẤU ĐÁ VÁ TRỜI

Ngày 9 tháng 7 nhuần annam 1938 (6 giờ tối)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con sửa bài cho GIÀU đi đặng trả lại cho nó học. Vì bài đó nó làm nhầm Lý, mà câu nói không thông. Nên con phải sửa lại, trong đó có Thầy giúp cho.

SỬA

Xưa nấu đá vá Trời còn được
Nay há không giỏi bước tập rèn
Dày công muôn việc phải nên
Đào sông trồng núi vụ bền công phu.

Giải nghĩa câu đầu:

1.- Xưa để tích Cửu-Thiên nấu đá
Luyện ra đồ đặng vá Trời thưa
Ấy là lời cũ chuyện xưa
Lưu ngôn để lại ngặt chưa người rành.

2.- Nay Thầy chỉ ngọn nhành trong đó
Cửu-Thiên xưa chịu khó giúp Trời
Ra công truyền Đạo khắp nơi
Làm cho lũ nghịch rõ lời u vi.

3.- Vì bọn đó khinh khi Trời Phật
Nên phải vương vào luật đọa đày
Dập dồn xiết kể nạn tai
Cửu-Thiên thấy vậy ra tay vá Trời.

4.- Vá là dạy chớ rời tâm tánh
Hiệp hòa chung sửa hạnh khiêm từ
Chỉ rành thiệt thiệt hư hư
Thưa mà không lọt cũng như vá Trời.

5.- Chỉ rành rẽ mọi lời báo ứng
Đem Luân-hồi bằng chứng hiển nhiên
Hồi tâm kẻ bạo ra hiền
Cứng khư tợ đá nấu liền chảy tan.

6.- Dùng ngọn lửa ngày càng thử thét
Lửa không hình lẽ thiệt lời ngay
Thiệt ngay chỉ dạy hằng ngày
Kinh qua sám lại phô bày thảm thương.

7.- Làm cho lũ bạo cường vỡ mật
Mới rõ Trời là luật vô tư
Biết lo, biết sợ, biết chừa
Biết kiêng lộng lộng Trời thưa chẳng lầm.

8.- Chừng được tám trăm năm bịnh trì
Đạo-tâm sanh tà mị diệt lần
Hây hây cảnh tượng Trời Xuân
Bốn phương phẳng lặng quốc dân an nhàn.

9.- Lần lần chuyển biến an thay đổi
Nhơn tâm còn sôi nổi ra nhiều
Người thời tưởng tượng Thuấn Nghiêu
Kẻ mang tàn bạo quỷ yêu chen vào.

10.- Gây ra cuộc phong trào tranh đấu
Thất chơn-truyền Đạo-giáo lầm sai
Người tu ỷ giỏi khoe tài
Người đời khoe mạnh, khoe hay cãi Trời.

11.- Cả hai thảy Ta Người chia rẽ
Bởi tại tham quên kể Đạo người
Người sao trở lại giết người
Tại vì người tưởng có Người không Ta.

12.- Người tưởng vậy thành ra người dữ
Dữ đây rồi trở lại hại người
Chết nằm máu chảy thây phơi
Cũng vì quên chỗ mạng Người như Ta.

13.- Thầy nhìn thấy bỏ qua không nỡ
Khai Đạo-Tràng đặng sửa tánh phàm
Khắp cùng cả thảy Nữ Nam
Ráng nghe lời dạy đặng làm cho y.

14.- Còn những đứa tự khi chia rẽ
Thầy trước lo dành để nơi rồi
Đại-đồng là kiếp Ngũ-lôi
Thưởng răn tại thế người cai trị người.

15.- Chớ thầm tưởng Luật Trời không có
Có cùng không chỗ đó với Trời
Ngoan ngôn cường ngạnh phá đời
Đáo đầu ngửa mặt trách Trời không thương.


29. CHÚ GIẢI

Bài nầy rút trong kinh Nhựt-Trung hai vé đầu, Thầy dạy như vầy:

Thẳng một mực theo đường Chơn-Lý
Vẻ vang thay nhựt chí đương trung
Rạng ngời khắp cả non sông
Tuần huờn võ-trụ vô cùng vô biên.

Tiếng khen tặng Nghiêu-Thiên Thuấn-Nhựt
(Nghiêu là Trời, Nhựt là Cửu-Trùng-Thiên)
Hưởng thái bình nhờ Đức Chí-Công
Ban cho điểu thú côn trùng
Ấm no thân thể vẫy vùng thảnh thơi.

Còn bài Thầy giải nghĩa trên đây xin đọc giả xem trong Tam-Kỳ Thánh-Huấn. Các vé lục ra sao nầy thì mới rõ đầu đuôi.


1- NHỨT-KỲ PHỔ-ĐỘ

- Thái-Thượng sửa tánh phàm tà (Á-Đông)
-
Phục-Hy quạch quái (Bát-Quái nước Tàu)
-
Di-Đà giác mê (Thiên-Trúc)

Có lẽ cách một đôi ngàn năm độ ước chừng là sáu đời Ngũ-Đế, Phục-Hy, Thần-Nông, Huỳnh-Đế, Nghiêu, Thuấn thì Thầy có sai mở Đạo như sau nầy:

Thánh Nhơn cho giáng kỳ Tây.

Xin chép ba vé nầy là 117, 118, 119.

Còn trong bài giải thuyết Đạo-Nho, Ngôi-Chị có giảng như sau nầy.

Đạo thông từ lúc Phục-Hy,
Lần qua Đại-Võ đến kỳ Văn-Vương.
(Nhà Cơ-Phát tám trăm năm có)
Châu-Công Khổng-Thánh tiếp nương,
Lập thành mối cả mở mang con người.
Từ sanh có Đất có Trời,
Có Người mới đủ sánh ngôi Tam-Tài.
Âm dương một lý mà hai,
Như người một giống gái trai hai hình.

Coi theo Tam-Kỳ Thánh-Huấn dạy: xin chép vé 225 tới 229.


2- NHỊ-KỲ PHỔ-ĐỘ

- Thích-Ca.
-
Lão-Tử.
-
Khổng-Tử.
-
Gia-Tô (Jésus).

Muốn cho dễ hiểu cho đoàn hậu tấn rõ chút ít sử ký xin coi bảng thông qui sau nầy.

ĐẠO THẦN là của Đức Khương-Tử-Nha khai mở tại Nhựt-Bổn sau Chúa Giáng-sanh, lối 10 thế kỷ trở lại nên Thầy dạy để cốt của Ngài dưới cốt Đức Gia-Tô một cấp, về khoảng giữa.


3- TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ:

Thầy bổn thân khai Đạo, ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần, kêu hiệp Ngũ-Chi Đại-Đạo là Tứ-Đại Thánh-Nhơn và Đức Khương-Thượng (nguyên Khương-Tử-Nha).

Thầy lấy hiệu: "Ngọc-Hoàng Đại-Đế kim viết Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát".

Thầy lập Ngũ-Hành-Tòa Tam-Tôn làm gốc.

Coi Chuyển-Mê số 10 trang 49, Đức Tam-Tôn có huyền diệu bút viết ra Thánh-Ngôn cho Đạo học và dạy Đạo-Tràng cứu thế, nhơn sanh hết lòng kính trọng nên mới có Ấp-tổn Thuấn-Nghiêu chủ Tam-Hồn chánh vị Tam-Tôn, ngày 12 tháng 5 là Đại-lễ kỷ niệm của Ngài.

Còn ngày 15 tháng 4 là ngày Đại-lễ của Đức-Phật Hàng-Long giáng trần hiệp cùng Đức Tam-Tôn đặng cho huyền cơ giúp Thầy hành Đạo. Đạo thành là tại nhờ mấy mối Vô-Vi trước đây, nhứt là Đạo-Tràng cứu thế, nên Thầy lấy thêm hiệu mới là TAM-TÔN đại.

Có Thánh-Ngôn dạy như vầy:

Thầy thương con Lạc cháu Hồng
Phần đông ngu dại có lòng mộ tu.
Mở Đại-Đạo vẹt mù sanh-chúng
Lọc lừa sao để dụng lâu dài
Con nào chịu nhọc là may
Là trong chỗ nhọc hằng ngày học tu.


Vậy chức sắc Nam Nữ học cho khá đặng đi Chủ-tọa Đạo-Tràng khắp nơi.

******************

30. BẢN ĐỒ THÔNG QUI TÔN-GIÁO

******************

31. Trời Linh Đất thính Phật từ

Ngày 11 tháng 11 annam 1940 (2 giờ trưa)

-----o0o-----

Trời Linh Đất thính Phật từ
Tiên
hòa Thánh diệu Thần cư thọ quyền.

1.- Mỗi con thấy vậy kiêng vậy nể
Đừng lả lơi rồi kể kêu nài
Luật Trời linh cảm nào sai
Đất nghe nhiều chuyện tỏ tai Trời gầm.

2.- Phật thì có thương thầm lầm lạc
Gọi nhơn từ bày giác dạy tu
Tiên hòa theo lý nhiệm thâu
Thánh ban truyền diệu học lâu thấm lần.

3.- Còn phận sự của Thần cư thủ
Thủ mạng quyền phạt dữ thưởng ngay
Mỗi con đừng tưởng dông dài
Ráng coi chừng đó, nhớ hoài tại tâm.

4.- Nhớ cho trọn khỏi lầm sai lạc
Nhớ lo chừa tội ác đừng ham
Đã hay mình chẳng có làm
Mà sao lại xúi rằng tâm ác thầm.

5.- Trời Đất Phật soi nhằm không sái
Tiên Thánh ghi nào cãi đặng nào
Phú Thần thọ lãnh lời trao
Thì trong Luật đó xưa sao nay vầy.

6.- Mỗi con gặp Đạo Thầy là phước
Phước vì chưng mình được rõ điều
Rõ rồi thì cứ tuân theo
Tuân làm không sái gọi nghèo hiểm xa.

7.- Xa đặng đó người ta thong thả
Thì có đâu đày đọa tới mình
Tại lòng chẳng sợ Trời linh
Chẳng nghe Đất thính, chẳng tin Phật từ.

8.- Tiên hòa lý lòng tư không hạp
Thánh diệu truyền hỗn tạp khó khăn
Vậy nên đành vướng một quyền
Vào tay Thần trị vậy liền ôi thôi!!!

9.- Thầy phải bớt chuyện rồi không nói
Nói ra nhiều tợ khói mù đen
Kể sao cho xiết não phiền
Dặn dò phải nhớ một quyền từ đây.

10.- x Trải sang lần tới vậy hoài
Con nào đừng ngán Đạo Thầy đặng thông
Một là bền chặt có công
Hai là gia đạo hưởng đồng sự an.

11.- Mỗi con đừng vội cãi bàn
Vì cơ Tạo-Hóa đá vàng chọn riêng
An bề gìn phận nể kiêng
Rồi sau sẽ thấy một quyền thưởng răn.

12.- Cuộc đời có biến có an
Sắp dồn cho tột lần sang trải lần
Mười năm trong kiếp Mậu-Dần
Dễ chi bàn cãi luận gần tính xa.

13.- Cứ dò theo lý nhiệm ra
Rày qua mai lại nầy ta nọ người
Biến an tuần chuyển Đạo Đời
Rày qua mai lại một thời tỉnh mê.

14.- Rõ chừng lời Đạo an bề
Dầu đâu có biến không hề chi an
Vậy nhờ lòng sợ sớm toan
Là toan bề vẹn vẻ vang theo Trời.

15.- Nói chung nghe kỹ một lời
Hễ lòng kiêng nể trọn đời lánh tai
Tỏa ra lời dặn một bài
Trời linh, Đất thính, Phật hay huệ từ.

16.- Tiên hòa Lý Một vô tư
Thánh ra truyền diệu chí ư thiện mầu
Thần thừa oai lực mạng thâu
Phận người phải rõ khí hầu tượng sanh.

17.- Nhiều con Thầy nói chưa rành
Là nghe chưa đúng, lại giành phần cao
Tại vầy mà lẫn lộn nhau
Là cao với thấp mày tao cãi bàn;
Chỉ cho đó vậy rõ ràng
Con nào rõ vậy bề an trọn bề.


******************

32. Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền

Ngày 23 tháng 10 annam 1938

-----o0o-----

ĐƯỢC, con sửa bài học cho CHIẾU, đặng trả lại cho nó học thuộc lòng, đặng nó giảng cho anh em trong ngày Hội Lễ Tu-My nghe.

Đầu đề của Thầy cho như vầy:

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền
Vui lòng mộ Đạo hưởng ân Thiên
Đạo-mầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Sửa lời giải nghĩa:

Muôn kiếp một kỳ mở Đạo Chơn
Có Ta nắm mối chủ cơ huờn
Đâu qua cho nổi lời Chơn-Lý
Một mảy không lầm lẽ thiệt hơn.

Thiệt hơn, hơn thiệt đẹp vui lòng
Hễ biết Đạo rồi phải chí công
Hưởng đặng ân Thiên nhờ cội cả
Đắp bồi nưng đỡ giúp nhau đồng.

Nhau đồng cho trọn chớ cơ cầu
Mở rộng lời vàng tiếng ngọc châu
Trần thế bởi chưa thông lý nhiệm
Ta Người vinh nhục trả vay sầu.

Vay sầu kết oán lỗi vì đâu
Ngàn tuổi muôn tên khắp Địa-cầu
Nắm giữ trọn biên là phạt thưởng
Khuyên đời lo kỉnh chớ cơ cầu.

Cơ cầu húng hính ích chi đâu
Ráng học là tu thấy nhiệm mầu
Chớ tưởng sự tu là dễ đặng
Giận hờn mang nặng vướng ưu sầu.

Ưu sầu vì tại kiếp trầm luân
Mối Đạo Trời khai đặng cứu lần
Muôn kiếp mới nghe lời giáo dục
Nghe rồi làm đặng mới trông gần.

Trông gần Tiên Phật phải cần lo
Đạo-đức cao sâu chịu khó dò
Nếu tưởng chẳng lo thì khó trọn
Nên hư là tại đó nghe trò.

Nghe trò Chơn-Lý ráng đừng quên
Muốn trả ơn cao cậy chí bền
Trả đặng ơn rồi mình mới rảnh
Muôn ngàn tên tuổi vững vàng nên.

Vàng nên nhờ lửa thử cao vàng
Thử đó là mình nhọc chớ than
Nếu nhọc chẳng than là trọn đó
Ấy là công khó đến Thiên-Đàng.

Thiên-Đàng vui vẻ có đâu hơn
Hễ biết là vui dạ chớ sờn
Bước vững kíp theo đừng ngại gót
Muôn kiếp một kỳ mở Đạo Chơn.


******************

Sửa bài giải nghĩa cho Ông Bắc-Sư CHIẾU đặng đọc trong ngày lễ Tu-My tới đây.


1.- Muôn ngàn kiếp gặp Trời mở Đạo
Nắm chủ quyền sửa bạo ra nhơn
Hỏi ai muốn rõ nguồn cơn
Ta khuyên nghe thử giọng đờn không dây.

2.- Nắm mối dây tại đây dìu dắt
Chủ Tam-Hồn sắp đặt Đài-Châu
Rõ trong thưởng phạt cơ mầu
Ai nghe lời dạy khỏi sầu, khỏi than.

3.- Lòng chí kỉnh được ban ân huệ
Hành Đạo Chơn đừng để diên trì
Công dày rõ đặng Vô-Vi
Đó là ngọn đuốc dẫn đi nhằm đường.

4.- Ân Oai Diệu Tế đường sanh-chúng
Thiên-Đạo truyền luật đúng Từ-bi
Trải sang cho đủ Tam-Kỳ
Mới trông thấy rõ rằng qui một đàng.

5.- Rưới võ lộ Nam-Bang Hồng-Lạc
Khắp nơi đều bia tạc danh Thầy
Tại đây Đạo-lý phô bày
Điển-Linh Thầy ngự tại Đài-Châu-Thiên.

6.- Thế Thập-ngũ làm giềng làm mối
Ngàn muôn người cứ nối mà theo
Tuổi tên chẳng lựa giàu nghèo
Miễn theo cho trọn một lèo là con.

7.- Muốn tên tuổi bảng son ghi tạc
Phải ghi lòng đừng lạc chữ duyên
Trọn niềm con thảo tôi hiền
Xác tươi, hồn đẹp Đạo truyền danh lưu.

8.- Đầu vọng bái ân cao phổ tế
Chứng lòng con lập thế độ đời
Độ cho chung một Đạo Trời
Cả hai tùng thuận Đạo Đời an vui.


******************

33. Đài-Linh vuông tấc là đây

Ngày 17 tháng 10 annam 1938

-----o0o-----

Đài-Linh vuông tấc là đây
Khải-thông Đạo-lý một Thầy độ chung.

1.- Con nào sớm biết tùng mạng lịnh
Thì mới mong cảnh tịnh qui về
Con nào còn tánh muội mê
Thầy không chờ đặng rước về cựu ngôi.

2.- Chừng đến đỗi ôi thôi là thảm
Thảm cho thân chìm đắm dập dồn
Rõ rồi mới hết cậy khôn
Khôn sao qua khỏi luật công Lý Trời.

3.- Tuy là thấy ít lời vuông tấc
Chớ kỳ trung là luật Linh-Đài
Một chừng chẳng sót không sai
Khắp trong thân thể dầu ai cũng vầy.

4.- Kẻ có phước gặp Thầy mau tỉnh
Nhìn Chơn-Linh tự kỉnh nơi lòng
Nói chi đến bọn cuồng ngông
Thấy Linh lại ghét thì công hao mòn.

5.- Ngày tháng lụn đâu còn tâm lý
Luật đổi thay ngu trí xây vần
Có thân mà chẳng biết thân
Để cho kình chống so gần đọ xa.

6.- Vì tại đó gây ra chia rẽ
Cậy phần đông nào kể Thiên-Điều
Tội tình chất chứa khó tiêu
Làm cho miệng thế đặt điều ngạo chê.

7.- Nhiều đứa nói cảnh quê, quê cảnh
Mà chưa thông bào ảnh mộng trường
Đáo đầu tội báo vấn vương
Cũng vì học nói phô trương gạt người.

8.- Đời chưa mãn một đời phần xác
Đà thấy bao nghiệp ác quanh mình
Các điều tội lỗi chẳng tin
Nói cho người sợ mà mình lại khi.

9.- Tại lầm chỗ tu trì là đó
Tại đó gây ra khổ cho mình
Trọn tin cùng chẳng trọn tin
Đó là cạn chỉ cho gìn giữ thân.

10.- Có nhiều đứa đã gần đặng hưởng
Vì tự do tự cượng nên lìa
Than thầm trách trộm sớm khuya
Nhìn xem bổn phận từ đây hư lần.

11.- Còn có đứa ân cần sốt sắng
Lại còn ham đen trắng lộn màu
Quên mình ỷ giỏi tự cao
Đứa thua lại ngạo cùng nhau khó gần.

12.- Đây Thầy cũng nhắc chừng cho đó
Đứa nào vương chịu khó dứt lần
Việc làm phải phải phân phân
Chớ nên quá vội, cũng đừng giả lơ.

13.- Đứa hay giỏi ráng chờ đứa dốt
Đứa khôn lanh dìu dắt đứa khờ
Đứa hiền dạy đứa ngây thơ
Cả ba đều phải cậy nhờ nương nhau.

14.- Thầy đã nói mầy tao cũng một
Một là do rường cột chung nhà
Vững bền vui đẹp lòng Cha
Chớ nên xao động gọi là con hoang.

15.- Dầu thâu trữ bạc vàng châu báu
Mà không lo thuận thảo ích gì
Vàng nhiều của quý rồi khi
Hễ khi thì có đoạn ly đâu lầm.

16.- Vạn Linh đó là tâm vuông tấc
Tấc lòng thành cho thật trọn tin
Thành tin là tập cứu mình
Cứu mình cho đặng, tại mình không kiêu.

17.- x Thi văn dạy trẻ ít nhiều
Nữ Nam chung cả thảy đều một Linh
Đặng không thì hỏi lại mình
Mình coi cho kỹ phận mình ra sao?

18.- Chớ nên cấm chợ ngăn rào
Để cho thong thả hạng nào nấy lo
Muốn nên thì phải chịu dò
Dò theo Máy-Tạo làm trò Đạo sanh.

19.- Mỗi câu Thầy cũng dạy rành
Không nghe thì chịu, tại mình đừng than
Đứa nào muốn được vững vàng
Thầy khuyên ráng nhớ ngày đàn Vạn-Linh.

20.- Xác nương hồn cậy giữ gìn
Đều do chữ Đạo dạng hình là đây
Muôn năm gặp một hội nầy
Là năm chuyển lập, kẻ đày người siêu.

21.- Xét trong đó rõ ít nhiều
Là cơ Tạo-Hóa chỉ điều nhặt thưa
Chậm mau cân sớt cho vừa
Lý-chơn là Một, đặng ngừa vạy ngay.

22.- Khắp nơi ai cũng nói Thầy
Gạn cho tới lóng rõ Thầy là đây
Con nào sớm rõ biết Thầy
Thầy khuyên làm trọn phận đây thi hành.

23.- Chớ nên giành giựt lợi mình
Mà không thương kẻ đứng nhìn đợi trông
Nói cho quấy phải hết lòng
Đó là nhơn sự dụ tùng tại chơn.


******************

34. THỜI CƠ VẬN HÓA TRẢI LẦN

Ngày 19 tháng 5 annam 1940 (7 giờ tối)

-----o0o-----

Nầy các con có đứng tên vào Thập-Ngũ Linh-Đăng cùng là Thập-Nhị Thời-Quân, ráng nghe Thầy nói:

NÓI

Thời cơ vận hóa trải lần
Trải lần san sớt gọi
bần phú chia.

1.- Chỗ chia đó là bi với lạc
Bi lạc nầy là thiện ác sanh
Vậy nên Thầy phải chia rành
Bần ra lãnh phú, phú tranh chỗ bần.

2.- Vì tại sớ Chư-Tiên tâu rỗi
Cơn kiếp đời dời đổi ngày nay
Đổi dời có đứa nào hay
Đứa nào hay đặng, đặng hay hỏi mình.

3.- Mỗi con có luật hình trước mắt
Thường ngày coi sắp đặt đó rồi
Chẳng tường là tại bỏ trôi
Ngày nay Thầy hỏi nhớ coi ngán thầm.

4.- Cơ vận hóa mười năm dời đổi
Hai năm đầu nhóm hội tuần tra
Nay đà qua lễ Long-Hoa
Ngày Tam-Tôn định Thánh-Tòa sắp đây.

5.- Mỗi con ráng nghe Thầy nói rõ
Coi cuộc đời lạc khổ cho tường
Chớ đừng có để lương khương
Rồi mang tiếng dựa hầu nương có chừng.

6.- Lời nói thiệt khuyên đừng có trách
Trách sao Thầy lại ít bỏ qua
Con ôi! đừng tưởng vậy mà
Thầy thương hết sức chỉ ra hết lời.

7.- Chỉ cho đến cơ Trời là tột
Sao mỗi con đành dọc ngang kình
Mở lời thì nói trọn tin
Nói rồi đem dạ thế tình dại khôn.

8.- x Cho nên vậy khó bảo tồn
Là trong lòng vẫn còn khôn dại quyền
Chẳng hay, chẳng hiểu hậu tiền
Là sau trước định mối giềng Càn Khôn.

9.- Tại vầy mà có bôn chôn
Bôn chôn càng lắm hại dồn tội cho
Chẳng tin đường Đạo khó dò
Vì cơ vận-hóa một lò chỗ không.

10.- Chỗ nầy khó nhắm khó mong
Khó bề coi bói, khó đong, khó lường
Hễ tin Chơn-Lý thì tường
Vì Chơn-Lý định trần Cương Kỷ thành.

11.- Ít nghe lời đó khó rành
Vì Cương Kỷ lập bình sanh lâu rồi
Cái người ta lại làm đôi
Bị hai cái đó mà bôi lấp đường.

12.- Mỗi ngày hằng mỗi tranh thương
Quỷ-Vương, Phật-Tổ lập đường cầu danh
Cả hai xưng hiệu hô hành
Làm ra cuộc biến, chịu đành ngày nay.

13.- Con nào nghe vậy thấy đây
Thì trong chỗ thấy vầy đây nhớ chừng
Nhớ chừng bỉ thái suy hưng
Nhớ câu vận hóa thì tuân lý mầu.

14.- Cũng gom vào lại chỗ đầu
Là nơi phục thỉ Trời thâu chuyển lần
Biết rồi thân ráng lập thân
Do Tam-Tôn Đại làm dân mới hoài.

15.- Cứ dò mực thẳng đừng sai
Còn ai không thuận, đứng ngoài khó vô
Chỗ nầy chẳng có lấn xô
Song lòng nghịch lý mình xô lấy mình.

16.- Rồi coi rõ cuộc hòa bình
Là Vô-Vi lập Canh-Thìn sắp sang
Tuân hành theo vận hóa an
Đừng canh-cải luật ban ngoan xảo tài.

17.- Ỷ nhiều thì có ước sai
Đó là lời tục gái trai nói thường
Ỷ nhiều rồi tới tranh thương
Nên Thầy nhắc chuyện Quỷ-vương, Phật Thầy.

18.- Vận cơ vận chuyển buổi nầy
Con nào Chơn-Lý sợ Thầy thì an
Sợ thì đừng có thói ngang
Xuôi dòng nước chảy, đừng toan cản gàn.

19.- Phải thông họa phước hai đàng
Thói ngang là cậy sức càng hại thêm
Trước khi Thầy chỉ yếu mềm
Là tâm quân tử ráng kềm tập theo.

20.- Ngỗ ngang thì vướng nghiêng nghèo
Nghiêng thời chịu đỡ, đở nghèo là đây
Cũng vì cái nạn khoe hay
Hay rồi ngỗ nghịch kết bầy quá ngang.

21.- Hư hư thiệt thiệt hành tàng
Thì cơ họa phước rõ ràng có hay
Chuyển dần báo ứng ngày nay
Nghiêng nghèo thấy khổ, trả vay không lầm.

22.- Cơ Trời mầu nhiệm lý thâm
Người mê vật chất tối tăm khó tường
Trách sao Thầy chẳng chỉ đường
Mà quên trách lại thói cường ngạnh ngu.

23.- Chẳng màng Đạo-đức chơn tu
Cứ do phàm tục thất phu cự Trời
Ngày nay cơ vận hóa thời
Thì cam chịu lãnh, nghe rồi đừng than.

24.- Lãnh là lãnh biến với an
Hai đường nói đó rõ ràng có đây
Lãnh an thì đặng vui vầy
Lãnh qua đường biến thấy hoài chuyện bi.

25.- Từ nầy đừng có nghị nghi
Ráng coi lời dạy vận kỳ Long-Hoa
Trải lần ngày lụn tháng qua
Chừng cơ kết cuộc mới là biết nên.

26.- Mỗi con Thầy mỗi khuyên bền
Là khuyên mỗi đứa đừng quên phận mình
Đặng an trải bước gập ghình
Ghình đâu mặc đó, cứ gìn trải qua.

27.- Chẳng bền gặp đó thở ra
Thở ra rồi ngán là xa phận mình
Mỗi con nhớ chỗ gập ghình
Từ đây có gặp ráng gìn chớ buông.

28.- Ôm lòng nhẫn nại hòa chung
Có Thầy độ dẫn chỉ cùng tới thông
Cơ Trời vận hóa là không
Không rồi lại có tại trong máy Thần.

29.- Nếu không phủi sạch phàm trần
Thì đâu rõ đặng hội vần chuyển xây
Có phần, có phước là đây
Đây là các trẻ biết Thầy thuận qui.

30.- Khó khăn Đời chuyển Đạo kỳ
Người không thấu Đạo đường đi không nhằm
Có phần thì dẹp tham tâm
Còn nơi có phước thì ham tập rèn.

31.- Tập cho nết bạo hóa hiền
Rèn gươm thần huệ phá phiền não tiêu
Con nào nhớ vậy làm theo
Đó là Thầy dụng mến yêu dạy truyền.

32.- Mỗi con chừng đó phỉ nguyền
Là vui vẻ Đạo tránh liền nạn tai
Giờ nay dặn trẻ một bài
Mỗi con đừng tưởng gần Thầy vậy thôi.

33.- Phải coi phận sự cho rồi
Gần không giữ trọn, xa rồi cậy ai
Con đồng có gái cùng trai
Đứa nào gần gũi đừng phai dặn dò.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra rồi mời đủ mặt nhóm tại Đông-Lang, phần con phải đứng ra đọc cho trong đó nghe, rồi CA lãnh phát ra cho mỗi đứa; còn phái Nữ thì cho Đầu-Sư, Chánh-Phối-Sư rồi trong đó chép ra mà học, phái Nam cũng vậy; còn các chủ Thánh-Thất thì phần Thiên-Sư gởi mỗi người một bổn, trong đó cũng dặn phải chép ra mà học.


******************

THÁNH-HUẤN

35. PHỔ-ĐỘ CÁC CHI PHÁI (LẦM LẠC)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 10 annam 1939 (11 giờ trưa)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: giờ nầy có Thượng TRUNG-Nhựt Giáng-đàn, con phải vưng theo lời Thầy dặn chấp bút nghe theo lời chép ra cho mọi người rõ biết.

- Bạch: con vưng theo lời Thầy.

THƯỢNG hạ không hòa vậy mới chinh
TRUNG ngôn nghịch nhĩ thói nhơn tình
NHỰT lâm Đàn-nội trần chơn ngữ
Giáng tố ưu thời sự lý minh.

Trước Bửu-Tòa lạy Đức Chí-Tôn, sau tỏ lòng chào Hàng-Long Chơn-Tánh, Bửu-An-Thiên cùng anh em, chị em lớn nhỏ. Bần-Đạo vì nhớ lời hứa trước sẽ giúp Chơn-Lý cho đến cùng, nay vì thấy trong phần đông về phái Tây-Ninh gây ra ác cảm, nên buộc lòng về đặng than thở đôi lời gọi là trọn nghĩa.

THI

1.- Nhìn cảnh tượng Tây-Ninh sầu não
Hết chỗ trông cơ Đạo tấn hành
Hằng ngày gây sự ác sanh
Ác sanh thì có luật hành vô tư.

2.- Đành phải chịu liều hư không kể
Vì quá mê quan hệ không cần
Thảm là thân nọ hại thân
Vì nghe lời TẮC, chẳng cần xét suy.

3.- Làm cho Đạo Tam-Kỳ mang tiếng
Tiếng phi thường nạn biến từ đây
Ôi thôi! đừng có lạy Thầy
Tội ghi đã sẵn, từ ngày Long-Hoa.

4.- Nó chớ ỷ gọi là cao thượng
Đem lời gian cậy mượn thói phàm
Tội hành thì phải đành cam
Thương vì một bọn không làm có mang.

5.- Bần-Đạo thấy dạ càng chua xót
Vì thương tâm lụy giọt nhỏ đầy
Thương cho thân thể đọa đày
Cũng vì mê tín theo hoài phải hư.

6.- Ngày chí tối đỏng đưa miệng lưỡi
Mà chưa hay họa gởi tai kề
Nói càng chán ngán thảm thê
Óc mê không biết, không dè dặt lo.

7.- x Cứ lo khôn dại reo hò
Một câu Đạo-lý chẳng dò chẳng thông
Bấy lâu trông đợi Đại-đồng
Đại-đồng sẽ tới, lại đồng bước vô.

8.- Tại nghe lời phỉnh mồ hồ
Uổng thay một kiếp bán đồ lụy thân
Đã vương đã thấy nhiều lần
Tại sao nay lại còn gần chẳng xa.

9.- Tại vì xác thịt hồn ma
Cãi Trời nên phải chịu ra đỗi nầy
Quá mê gọi TẮC là Thầy
Đổ cho Thầy biểu cứ vầy làm y.

10.- Rõ ràng thấy trọn hành vi
Trên Trời dưới nước chẳng vì chẳng kiêng
Nói cho vậy đó phỉ nguyền
Giành chen háo thắng bạc tiền kỉnh dưng.

11.- Làm vui chưa thỏa chí vừa
Vì trong tưởng thiệt không ngừa chứng gian
Đạo Trời khai hóa mở mang
Tu hành như vậy lại càng khốn thêm.

12.- Mỗi khi Thầy mỗi ra điềm
Tại lòng ám muội, chẳng xem chẳng tường
Lão vì lòng dạ quá thương
Nhiều khi can gián cũng cường cự tranh.

13.- Cãi làm ra chuyện chẳng lành
Khen cho chẳng hổ, lại đành dể ngươi
Người sao quá tệ vậy người
Đem thân vào ngục lại cười, lại ưa.

14.- Lớn làm, nhỏ học dây dưa
Truyền lưu giống độc đổ thừa tại tu
Rõ ràng Chơn-Lý phá ngu
Không về học hỏi thì tu chỗ nào.

15.- Cậy đông phe đảng ồn ào
Tới lui chẳng biết, ra vào chẳng thông
Có nhiều người phải cuồng ngông
Đó là liều mạng gọi xong một đời.

16.- Giờ khuya than thở giáng lời
Tại Thiên-Đài nội cảnh Trời Châu-Thiên
Chúc mừng Chơn-Lý vạn niên
Sau cầu Đại-Đức Bửu-Thiên lâu dài.

17.- Anh em tuy cách mặt mày
Phần Thiêng-Liêng có hằng ngày tại đây
Bề trong chuộc tội lạy Thầy
Bề ngoài Phổ-độ tiếp tay lo lường.

18.- Nữ Nam chung cả Định-Tường
Lão mừng cho đó gặp đường Lý-chơn
Ráng làm cho thiệt là hơn
Đừng nao khó nhọc một cơn thì thành.

19.- Các nơi nghịch mạng chịu đành
Tại đây khuyên ráng kỉnh thành trọn vui
Huệ thần điển mãn tạm lui
Giã ơn lớn nhỏ đừng nguôi Đạo Thầy.

Trước Đàn Lão lạy Thầy, kiếu Đại-Đức Hàng-Long Chơn-Tánh cùng chư vị bình an.

Thăng.


ĐƯỢC, bài nầy con phải giao lại cho CA, đặng nó in ra cho nhiều gởi cho bọn Tây-Ninh cùng các chủ Thánh-Thất coi cho rõ, tại đây cũng phát ra cho Đạo học. Con chớ quá sợ sự hờn mà quên lời Thầy phán trách, con cứ việc thi hành đừng sụt sè chi cả, rồi cũng đem vào Đuốc-Chơn-Lý mùa Đông.

Thăng.

******************

36. THẦY XỬ ÁN

Ngày 29 tháng 5 annam 1938 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

T…, con nghe Thầy xử:

1.- Rày con hết ỷ mình cao thượng
Cơn đáo đầu khó mượn danh Thầy
Trước vì thương trẻ thơ ngây
Đem ra tiếp điển giúp Thầy lập công.

2.- Lời Thầy dặn lo xong mối Đạo
Chớ chác điều ngược ngạo phỉnh người
Lâu ngày con lại dể ngươi
Lộng quyền tà mị coi Trời như không.

3.- Thầy cầm luật Chí-công Tạo-Hóa
Chuyển cơ huyền rõ đá, vàng, thau
CA ra gánh nặng Thầy giao
Đặng con tự xét ngày sau của mình.

4.- Nào dè trẻ cành nanh quá lẽ
Dám viện điều bác bẻ lời Thầy
Làm cho cơ Đạo trở day
Rắp đường cản ngõ gạt rày đoàn em.

5.- Chư Tiên Phật xét xem quá ngán
Về xin Thầy xử đoán phân minh
Đặng cho sanh-chúng dễ nhìn
Để vầy mối Đạo khó thành Lý-chơn.

6.- Thầy suy nghĩ thiệt hơn sau trước
Cầm viết phê xử trước Linh-Tòa
Tội nầy khó nổi bỏ qua
Gom thâu hồn trẻ dẫn ra Đại-đồng.

7.- Giao chư vị Thần thông ác sát
Chiếu luật hình đặng phạt tội con
Từ nay thân thể khải mòn
Ấy là cũng bởi tại con cãi Trời.

8.- Án ghi đủ các lời tội lỗi
Con khó trông cãi chối đặng nào
Hiện giờ giam tại Thiên-lao
Chờ cơn nguy hiểm sẽ giao hành hình.

Án nầy đọc tại ngày lễ An-Thiên, trước khi đọc phải đánh ba hồi trống, mỗi hồi 28 dùi, đọc tại thời Tý phải có Chủ Tam-Hồn chứng án. Đọc án giao cho Bửu-An-Thiên.

Thăng.

******************

37. NGƯỜI ÔI! ĐỪNG CÓ CÃI TRỜI

Ngày 20 tháng 10 annam 1941 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

1.- Người ôi! đừng có cãi Trời
Người ôi! đừng cậy thói đời ngược ngang
Người ôi! nhớ chữ hành tàng
Người ôi! nhìn lại điều an biến nầy.

2.- Người ôi! học phải nhớ Thầy
Người ôi! đừng có xô mầy hại tao
Người ôi! lòng dạ dường nào
Cầm dao cắt ruột hại nhau cho đành.

3.- Người ôi! chớ lại chê lành
Lại ham làm dữ đời sanh phá đời
Người ôi! ai cũng dưới Trời
Đừng gây chuyện phản rồi hơi thở mòn.

4.- Người ôi! phải xét vong tồn
Cũng trong Đời Đạo vuông tròn bấy nhiêu
Người ôi! chớ cậy ăn nhiều
Chớ khoe mình mạnh rồi tiêu lụn lần.

5.- Người ôi! ráng trọng tinh thần
Bớt ham vật chất thì thân rảnh rời
Người ôi! Trời nói hết lời
Là cơn khổ nạn đừng chơi giỡn nhiều.

6.- Người ôi! thấy đó dập dìu
Nầy trôi, nọ tấp như rều gió đưa
Người ôi! ráng tập ngăn ngừa
Đừng cho nết tục vừa ưa thói hèn.

7.- Người ôi! gươm huệ ráng rèn
Đặng lo trừ chuyện, gây phiền não oan
Người ôi! ngó lại Thiên-Đàng
Là nơi Trời lập rỡ ràng tại đây.

8.- Người ôi! chớ vội phô bày
Chớ xưng mình đúng hạng tài trí mưu
Người ôi! phủi sạch oán cừu
Đặng cho mình khỏe đừng cưu khó lòng.

9.- Người ôi! nghe kỹ đặng phòng
Phòng khi gặp rối bề trong gỡ lần
Người ôi! ai phước có phần
Là công giồi tập chuyện cần, chuyện nên.

10.- Người ôi! khuyên chịu khó bền
Đặng làm ra dễ đừng quên lỡ vời
Người ôi! ai cũng mạng Trời
Chớ chê nghèo khổ giành nơi lợi quyền.

11.- Người ôi! khuyên nhớ phận hiền
Nhớ làm cho trọn là duyên phước dài
Người ôi! trong một buổi nầy
Chẳng tu thì khổ, chừng hay lỡ rồi.

12.- Cãi lời trong gọi người ôi!
Con đồng thế hạ nghe rồi ráng lo
Biết mình rày đặng ấm no
Người ôi! một tiếng rằng cho nhớ người.

13.- Cả trong người thế đương thời
Xét coi Người Một chung Trời mấy ai
Có người đây có gái trai
Người ôi! một Lý ngày nay thiếu nhiều.

14.- Một cơn Trời phán Luật-Điều
Người ôi! không biết đành theo đám tà
Người ôi! bao nỡ vậy là
Đường ngay chẳng muốn, nơi hòa lại chê.

15.- Đó là người chẳng xa nghe
Người không rộng thấy lầm phe bất bình
Trời thương, Phật tiếc cho mình
Mình sao lại phủi theo nhìn chỗ nhơ.

16.- Nên rằng gọi đám trơ trơ
Đến cùng cam chịu, bây giờ khó phân
Cũng vì người chẳng biết thân
Dầu ai có nhắc đâu cần kể đâu.

17.- Người ôi! trong buổi nạn sầu
Lủi theo rằng mạnh, còn đâu nhớ người
Tu-My ngày lễ Đạo Trời
Trong giờ Thầy phán gạn Người tiếng ôi.

18.- Mỗi con Chơn-Lý coi rồi
Để lòng lo phận cho Trời độ cho
Đã đành rày thấy ấm no
Còn cơ Đạo-lý ráng dò thạnh suy.

ĐƯỢC, bài nầy giao lại cho CA, đặng nó in ra cho nhiều, đặng phát cho mấy đứa có mặt về làm lễ hội Tu-My. Còn các chủ Thánh-Thất về phần Thiên-Sư phải gởi.

Theo lời Thầy buộc thì mỗi đứa có rồi chép ra cho trong hội ngày lễ nầy, ráng đọc đặng Đời Đạo nghe chung cũng là có ích.


******************

38. Ngày nay có chư Thần giáng bút

Ngày 23 tháng 4 annam 1938 (7 giờ tối)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Ngày nay có chư Thần giáng bút
Đặng chúc mừng thọ phúc dư niên
Vì chưng chức sắc khẩn nguyền
Xin cho CA giữ mối-giềng cho lâu.

2.- Thầy nghe tiếng quặn đau dạ ngọc
Thương vì CA cực nhọc lâu rồi
Lẽ thì đem nó qui hồi
Song Thầy đình đải lựa người thế thay.

3.- Vì tại đó mấy ngày ngưng việc
ĐƯỢC nghi ngờ thiệt thiệt, hư hư
Lòng lo cầu khẩn Đại-Từ
Thầy xem khí tượng bấy chừ chẳng vui.

4.- Thầy hiệp đủ các nơi Tiên Thánh
Trước Bửu-Tòa lời chánh hỏi qua
Hiện giờ công vụ của CA
Đến nay mãn kiếp Đạo nhà chưa xong.

5.- Chư Tiên Phật một lòng chung tấu
Nhờ ơn Thầy thêm số cho CA
Đặng lo sửa trị cho hòa
Xong rồi trở lại Ngọc-Tòa Linh-Tiêu.

6.- Thầy nghe rõ các điều sau trước
Vui lòng Thầy châu bút phê liền
Sắc gia hưởng thọ nhị niên
Canh-Thìn bán tải đủ liền hai năm.

7.- Mậu-Dần kể là năm thứ nhứt
Còn từ nay hưởng phước vô cùng
Chư-Tiên, Chư-Phật thính tùng
Đồng nhau đứng dậy cúc cung ra về.

8.- Sau cùng trước đề huề giáng bút
Đúng Ngọ thời đặng chúc mừng CA
Giờ nầy Áo, Mão, Ca-sa
CA quì trước án nghe Cha dặn dò.

9.- Từ đây phải chung lo với ĐƯỢC
Đặng sum vầy em trước anh sau
Ráng lo gầy dựng phong trào
Thuấn Nghiêu Ấp-tổn kẻ trao, người nhường.

10.- Đồng đi một con đường Chơn-Lý
Hiệp chí nhau chung-thỉ cho tròn
Ấy là căn dặn hai con
Mối-giềng Chơn-Lý sắc son một lòng.

Bài nầy đọc tại giờ Ngọ cho CA nó nghe.


******************

39. CỬU THÔNG

Ngày 24 tháng 4 annam 1938 (10 giờ tối)

-----o0o-----

Hiện nay đủ mặt Chư-Thần
Phật Tiên cả thảy chúc mừng cho CA.

1.- Các động phủ gần xa qui hiệp
Vì trễ nên chưa kịp giáng Đàn
Giờ nầy hội đủ lưỡng ban
Đồng dưng chúc thọ miên tràng viên miên.

2.- Vậy mới gọi Cha hiền, con thảo
Thảo vì Thầy với Đạo vì thân
Đạo khai ra đã mấy lần
Ngày nay chọn được trọn phần là CA.

3.- Kể từ thuở bước ra giúp Đạo
Không chác điều ngược ngạo phỉnh người
Lo chung về Đạo về Đời
Hai vai gánh nặng chẳng lời than van.

4.- Trong Tòa-Thánh đặng an nhờ vậy
Thiệt là con tin cậy của Thầy
Hiện giờ có ĐƯỢC tiếp tay
Truyền thông liên lạc sợi dây của Thầy.

5.- Khai Tam-Tiểu từ đây rộng rãi
Cả Đại-đồng cả thảy qui hồi
Làu làu Bạch-Ngọc cao ngôi
Trung-Thiên gầy dựng nối đời Thuấn Nghiêu.

6.- Người mộ Đạo tiêu diêu khoái lạc
Kẻ tu trì cải ác làm lành
Ấy là phước cả dân sanh
Từ đây xướng họa hiệp thành Bắc Nam.

7.- Hiệp là hiệp Kỳ-Tam Thiên-lý
Thành là thành chung-thỉ một màu
Đạo thì có trước có sau
Ngày nay Qui-nhứt lẹ mau vô cùng.

8.- Ấy Thầy muốn độ chung chi phái
Cho các nơi qui lại một trường
Trung-Ương nay sửa Định-Tường
Là nơi yên vững cột rường bền lâu.

9.- Các trẻ ráng nhớ câu Tam-Cửu
Tam-Cửu là cửu cửu chia ba
Mỗi kỳ đều mỗi có ba
Trong ba mà cửu mới ra Đạo-mầu.

10.- Số cửu trước đứng đầu tam phái
Nên kêu rằng là phái Đại-thông
Cửu nhì nó ẩn nơi trong
Nên Thầy đặt phái Trung-thông rõ ràng.

11.- Chữ cửu ba là sang Nguơn-hạ
Hiệp chung là Thượng Hạ Trung-thông
Gọi là hai chữ Tam-thông
Các con chưa rõ lo phòng ngày đêm.

12.- Nay Thầy phải chỉ thêm một đoạn
Đoạn nầy là một đoạn giao thông
Thông là khắp cả Kiền Khôn
Thông đồng võ-trụ ẩn trong tâm người.

13.- Người được vậy là người của Đạo
Đạo có người là Đạo của Trời
Trời đây là Đấng sanh người
Sanh Nhơn, sanh Vật, sanh Đời, sanh Linh.

14.- Người nhờ có vóc hình đi đứng
Cũng là do cảm ứng với Trời
Phải tuân biến diệc tùy thời
Phải theo Máy-Tạo, chẳng rời Âm Dương.

15.- Trời sanh đủ bốn phương, tám hướng
Đủ các điều sắc tướng âm thinh
Vô-Vi lại có hữu hình
Là cơ Tạo-Hóa chỉ rành không sai.

16.- Người thì có gái trai phân biệt
Trời thì chia Nhựt Nguyệt không gần
Ấy là thọ thọ bất thân
Phải chia hai ngã khó gần hiệp nhau.

17.- Đạo muốn hiệp hòa sau với trước
Tiên Hậu Thiên cho được sanh đồng
Gọi là thể dụng hóa công
Hư vô diệu tướng dẫn thông tinh thần.

18.- Hiệp rồi hóa chia phân Tam Ngũ
Lập ra đời có chủ, có cha
Có chồng, có vợ gầy ra
Lần lần gia tộc, cửa nhà nghinh ngang.

19.- Chia kẻ khó, người sang cả thảy
Rồi sanh ra giai cấp sang giàu
Ỷ mình tự đại, tự cao
Chê khen, lấn hiếp cùng nhau chẳng hòa.

20.- Vì tại đó sanh ra tội lỗi
Luật Công-bình khó nỗi nhiêu dung
Luân-hồi trả nợ vô cùng
Kiếp kia kiếp nọ dập dồn liên miên.

21.- Kẻ thì mắc tiền khiên nghiệp quả
Người thì vương tai họa nhãn tiền
Oan qua trái lại liền liền
Cũng vì tại chỗ không hiền mà ra.

22.- Vì tại đó nên Cha mở Đạo
Dạy các con học Đạo sửa mình
Các con còn tánh hay khinh
Vậy nên phải chịu lụy mình đừng than.

23.- Lời Thầy chỉ rõ ràng không giấu
Con nào chưa rõ thấu hỏi Thầy
Kỳ nầy Thầy ngự tại đây
Tại con không quyết tin Thầy đó thôi.


******************

40. Chúc thọ Vạn-tuế Cửu-Trùng-Đài

Ngày 15 tháng 4 annam 1939 (9 giờ tối)

-----o0o-----

BÀI CHÚC THỌ

1.- Chúc cầu Vạn-tuế Cửu-Trùng
Vững an mối Đạo vô cùng sự vui
Đời thông, Đạo hiểu đủ mùi
Vì thương em dại lấp vùi tấm thân.

2.- Lòng không ham phú phụ bần
Nhứt tâm vì Đạo ân cần dạy khuyên
Dạy cho bỏ dữ theo hiền
Khuyên lo giữ chặt mối-giềng Thầy trao.

3.- Em nhìn thấy rõ trước sau
Công Ngài khó nhọc chẳng nao, chẳng sờn
Làu làu vẹn vẻ nghĩa nhơn
Quyết đem thân phận làm gương cho Đời.

4.- Đạo xây chuyển lập Tam thời
Lòng tin theo trọn phỉ người nguyện ta
Anh em trên thuận dưới hòa
Là nơi gương tốt gần xa một niềm.

5.- Thấp hèn lòng dạ ngưỡng triêm
Lạy Thầy tăng thọ phước thêm không cùng
Chúc cầu Vạn-tuế Cửu-Trùng
Vững an mối Đạo vô cùng sự vui.

G.S THU Linh-Thông Cảm-Giác La-Hán.


******************

41. Nền Đại-Đạo xanh um Cổ Thọ

Ngày 19 tháng 5 annam 1939

-----o0o-----

Nầy các con nghe Thầy dạy:

1.- Nền Đại-Đạo xanh um Cổ Thọ
Chỉ cho con lớn nhỏ tỏ tường
Ở đời quí tại lòng thương
Hễ thương thì phải tầm phương cứu đời.

2.- x Thầy răn dạy đủ hết lời
Một cây Cổ Thọ giúp người mát thân
Tàn xanh lá phủ xây vần
Người đi lỡ ghé nghỉ ngừng tại đây.

3.- Các con là hột giống Thầy
Đã gieo sao lại một ngày một tiêu
Chẳng sanh, chẳng hóa ít nhiều
Nhìn cây Cổ Thọ có điều thẹn chăng?

4.- Dại khôn lanh xảo khoe rằng
Thầy sai hành Đạo khó khăn lại buồn
Đứa thì sợ hố sợ truông
Đứa thì sợ tốn của công sụt sè.

5.- Cạn lời Thầy nói con nghe
Sống lo giữ chặt, thác về tay không
Uổng cho một kiếp kiếp đồng
Đứng trong võ-trụ đục trong chưa tường.

6.- Đứa thì khoe học văn chương
Văn chương thì có thiệt thường thì không
Nói ra cũng biết Đại-đồng
Ngặt lo sửa kiếp một lòng thì chưa.

7.- Hở môi chuyện quấy không ngừa
Khi nhơn tổn đức lại ưa lại mừng
Cỏ cây còn để đời dùng
Người khôn lanh xảo nỡ lòng hại nhau.

8.- Xanh um Cổ Thọ làu làu
Thầy coi ít đứa ngó vào cho lâu
Mảng ưa húng hính cơ cầu
Lại trông đắc Đạo chực chầu Ngọc-Kinh.

9.- Trước Thầy dặn một chữ Tin
Tin rồi Qui-nhứt, Nhứt Linh cho tròn
Cha hiền ai cũng làm con
Con không thảo thuận phận còn thiếu xa.

10.- Chỉ cây Cổ Thọ đó là
Từ khi Thầy lập Thánh-Tòa Trung-Ương
Đến nay qui lại Định-Tường
Mỗi con nào có nhớ chừng đó không?

11.- Hỏi rồi xét lại phần đông
Một hai đứa nhớ, nhớ không chịu làm
Đạo Thầy chẳng luận Nữ Nam
Có công thì thưởng, hễ tham thì trừng.

12.- Mỗi con khuyên ráng ngó chừng
Chừng cây Cổ Thọ liệu gần xét xa
Đã đành mình thiệt người ta
Người ta gặp Đạo gọi là người tu.

13.- Chỗ tu là chỗ phá mù
Mù mê nhờ Đuốc công bù của chung
Hiệp nhau trong buổi cuối cùng
Cùng không cho tận sửa dùng từ đây.

14.- Từ đây hễ biết có Thầy
Thì mau tự xét sống nầy làm chi
Sống là sửa cuộc biến nguy
Thầy sai Thầy cậy phải ghi phải làm.

15.- Mỗi ngày phận sự cho kham
Ngày nay tuy vậy, mai phàm hóa Tiên
Sửa cho người dữ trở hiền
Thì lo học hỏi lời khuyên của Thầy.

16.- Cơ Trời Tạo-Hóa đổi xây
Thương vì con dại giáng đây chỉ đường
Làm lành cho trọn là thương
Đừng ham nghịch lẫn hóa phường độc sâu.

17.- Phải thông thiện ác đáo đầu
Nhìn coi Cổ Thọ nó sầu hay vui
Các con sao chẳng rõ mùi
Cứ lo tranh cạnh uổng đời rồi thôi.

18.- Chồng than, vợ khóc đôi hồi
Xác chôn tiếng biệt uổng đời sống dư
Con vầy là gọi con hư
Cũng mang tiếng đứa Phụ từ, Tử bi.

19.- Cổ danh thọ lãnh duy trì
Một câu Thầy để Tam-Kỳ Đạo Nam
Chẳng lo tìm học đặng làm
Làm y theo đó phẩm hàm nào hơn.

20.- Nói thường Đạo-Đức Trí Nhơn
Mà quên Cổ Thọ vướng cơn hiểm nghèo
Con nào hiểu đặng làm theo
Phận ai cũng có ít nhiều tại đây.

21.- Tùy theo cơ hội giúp Thầy
Giúp cho thành tựu thơm lây Đạo-Tràng
Đêm ngày cầu nguyện vái van
Vái cho đời đặng mở mang thái bình.

22.- Vái rồi sao chẳng xử mình
Muốn nên thì ráng sự tin cho tròn
Dưới trần thế hạ nước non
Nước non bền vững nhờ công thiệt hành.

23.- Thuận hòa nhường nhịn chẳng tranh
Lấy theo Đạo-lý đạt thành tự tân
Tục mê khuyên khá dẹp lần
Dò theo lẽ thiệt hưởng phần thảnh thơi.

24.- Một cây Cổ Thọ giữa Trời
Gió dông cam chịu ích Người lợi Ta
Tàn xanh lá mát diềm dà
Đến khô đến rụng miễn là giúp chung.

25.- Phận tu Đại-lực Đại-hùng
Thì cây Cổ Thọ hết lòng vì đâu
Khắp trong mấy quả Địa-cầu
Tại đây nhờ đặng Đạo-mầu cứu nguy.

26.- Mười năm nối tiểu thời kỳ
Một cây Cổ Thọ đồng qui cho nhằm
Chớ rằng Đạo chuyển nhiều năm
Ngồi không chờ đợi lạc lầm không hay.

27.- Mỗi con mở miệng biết Thầy
Thầy khuyên ráng tập phận này cho quen
Học thì đừng tiếc sách đèn
Có hao có hiểu là duyên phận mình.

28.- Biết là Tạo-Hóa hiếu sinh
Hiếu sinh là chỉ chỗ Linh cho làm
Muốn Linh thì bớt tục phàm
Còn đeo đuổi nặng chịu trầm đọa theo.

29.- Công tu khó nhọc ít nhiều
Ráng làm thêm mới là điều lập thân
Các con lớn nhỏ xa gần
Bài nầy khuyên ráng chép lần học chung.

30.- Đặng cho Thầy lựa Thầy dùng
Có danh có phận Đại-hùng Đại-bi
Đó là hột giống Tam-Kỳ
Muốn cho khỏi ẩm làm y theo lời.

31.- Giống lành gieo cả khắp nơi
Tùy theo thủy thổ thợ Trời sẵn đây
Bốn mùa thời tiết đổi thay
Nhìn theo vận khí khỏi sai tại vầy.

32.- Tại trong chỗ biết sợ Thầy
Thầy không dạy quấy con bầy một Cha
An lòng đừng có xảo ngoa
Định-tâm thì rõ thấy Cha tại lòng.

33.- Phải nhìn cho tột Ngôi Trong
Trong là tin cậy một lòng thỉ-chung
Hỏi dò đường cả bước đường
Đó là Cổ-Thọ nơi lòng các con.

Thăng.


******************

42. Thanh thanh Nhựt Nguyệt Cửu-Trùng-Thiên

Ngày 19 tháng 5 annam 1939 (9 giờ tối)

-----o0o-----

Giải nghĩa 8 câu:

Thanh thanh Nhựt Nguyệt Cửu-Trùng-Thiên
Hiện xuất Cao-nhơn tại nhãn tiền
Bất quản Hổ tranh thâu Bắc-Cực
Chỉ huy Long đấu đoạt Nam-Uyên.

Sanh tồn cư pháp vô công trác
Tử hậu cùng đồ uổng lộ viên
Hữu đạo hữu công vô tự khả
Vô công vô đạo tổng đồ nhiên.

Thầy giải nghĩa:

1.- Câu thứ nhứt: Thanh thanh Nhựt Nguyệt
Cửu-Trùng-Thiên vận chuyển Tam-Kỳ
Còn câu hiện xuất thứ nhì
Cao-nhơn tại nhãn tiền qui hiệp thời.

2.- Hai câu đó cơ Trời định để
Cửu-Trùng-Đài thọ thế
An-Thiên (1)
Cao-nhơn xuất hiện bí truyền
Hàng-Long giáng thế mối-giềng Thầy trao. (2)

3.- Lòng chẳng quản chẳng nao Hổ huyệt
Dụng Bắc-Tinh-Cực quyết thâu hồi
(3)
Chỉ huy Long vận khí thời
Nam-Uyên là chỗ cứu đời muội mê.
(4)

4.- Ba câu đó Thầy phê tiền định
Đặng chúng-sanh tùng lịnh tu hành
Kiếp đời là kiếp phù sanh
Sẵn ban qui pháp đặng dành sửa trau.

5.- Người tu niệm đừng nao công nhọc
Ráng giồi mài chuyên tập cho nhuần
Sanh lòng biếng nhác chẳng tuân
Đến cơn mãn kiếp lỡ chừng chịu sa.

6.- x Cùng đường đâu rõ Phật Ma
Xiên theo nẻo dại đó là trầm luân
Đạo Trời mở rộng Hồng-ân
Có công, có quả tự tân cho mình.
Khá tuân biết vậy phải gìn
Vô công thì Đạo xa mình tự nhiên.


CHÚ GIẢI

(1) Cửu-Trùng-Đài phải chịu chuyển cho đủ Tam-Tiểu thời là 9 lần trong đó mới hiệp với An-Thiên La-Hán đó là Cửu-Trùng-Thiên vận là vậy.

(2) Hàng-Long là Đức Phật giáng thế, hiệp cùng Đức Hiệp-Thiên-Đài từ ngày Long-Hoa-Hội 15 tháng 4 năm Mậu-Dần (1939), là tay thợ Trời.

(3) Hồi Đức Chơn-Võ xuống làm vị Bắc-Phương Châu-Võ là ngôi sao Bắc-Cực.

(4) Nam là nhà Nam-Uyên là hố sâu vực thẳm vì ham chỗ giàu sang hiếp lẫn nhau gọi là muội mê nên phải theo cơ Trời Đất mà hiệp hòa thì Đạo mới sanh.


******************

43. BẮC XƯỚNG NAM HÒA

Ngày 16 tháng 10 annam 1938 (7 giờ tối)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: con phải chấp bút đặng Thầy dạy con làm một bài "BẮC XƯỚNG NAM HÒA", đặng để đời sau đọc cho nhớ là ngày Ấp-tổn. (1)

- Bạch: con vưng theo lời Thầy.

THI

Bắc xướng Nam hòa là hiệp nhứt gia
Nhứt gia hòa hiệp nhứt gia gia
Gia hòa gia hiệp gia gia tất
Gia tất tùng là gia tất gia
Gia tất gia, hưởng họa âu ca
Nhơn hà quản a
Khúc cầm vĩnh gia
Bao la địa cầu
Liên tiếp đồng Ngũ-châu
Tại ư thử kỳ, Đại-từ Đại-bi
Vạn dân an, oai nghi tựu tùng.

Đồng phủ phục cúc cung
Chúc Thiên Khung huệ từ
Vạn tải dư (là) vạn tải dư
Ngộ ư thử thời Ấp-Tổn giao.
Vô cao thật hành
Phán đoán minh, hữu hóa sinh
Do sở bình hà thắng linh
Hữu hà thắng linh
Thắng thử Vạn Linh
Đồng tin ư Đạo hữu hồ tri hồ?
Tại ư vĩnh trù, bách tuế thu.
Nhơn gian đồng nguyện
Thử như hà thắng kỳ Đạo sanh.
Huệ chúc minh, Là huệ chúc minh
Ám muội khai; kim lai cổ hà
Giác kỷ tiền tha, Thoát vạn ba ái hà
Thế phiệt thường nhựt đa
Thế phiệt thường nhựt đa
Nhựt nhựt đa vô cùng
Bảo tồn thỉ-chung, mộng Nam-Kha.
Giữ Huỳnh-Lương
Ảo tưởng Tiên
Kiện diệu tinh thần
Đức hòa vạn dân
Thử Thiên-ân bố khai phước lộ.
Hưởng hòa Đạo chơn
Diệt ngã nhơn vô tà
Đắc nguyện đồng lạc gia.
Thiên Địa Nhơn hiệp đồng
Hữu toại thành công
Hữu Chủ-Ông hiện thời
Định qui toàn hạc Linh
Tiêu-trưởng hư-dinh, thùy sự tư nhiệt thành.
Hòa hảo chúng-sanh
Nhựt tăng vinh vô cùng
Hữu tài hóa sung
Giữ an ninh Đại-hùng
Phủ phục cúc cung
Lạc vô cùng từ đây.

Từ đây nối bước theo Thầy
Vẻ vui sắc đẹp nở mày phận con
Trước sau đạo nghĩa lo tròn
Vững phong thuần tục chẳng còn muội mê.
Mặc dầu thương ghét mến chê
Đó là miệng lưỡi đừng nê chấp người
Biết thân sanh đứng giữa Trời
Thì lo cho trọn Đạo Đời từ đây.

ĐƯỢC, bài nầy con phải đọc đi đọc lại cho quen chừng năm mười lần đặng Thầy cho Chư-Thần sửa giọng cho con đọc cho nhằm. Chừng nào rồi, con sẽ giao lại cho CA, đặng nó in ra cho Đạo Đời nghe rõ. Tuy trong đó nói tầm thường, chớ kỳ trung đều có chỗ nhiệm mầu Chơn-Lý.

Vậy con cứ đọc đi, còn việc chi lần lần sẽ thấy.

Thăng.


(1) Hai chữ ẤP TỔN nghĩa là kẻ trao người lãnh đặng lo gìn giữ Đạo Trời.


******************

44. ẤP TỔN GIAO QUYỀN

Ngày 7 tháng 10 annam 1938 (5 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn đây ráng nhớ nghe con.

Phận con Chưởng-Quản Thiên-Đài
Thì lo xứng đáng Tam-tài cho xong.

1.- CA nó thiệt dày công với Đạo
Mấy năm trường vĩnh bảo tại đây
Cũng vì nó quá sợ Thầy
Đắng cay đậm lợt, mỏng dày cũng vui.

2.- Nay là đến kỳ thời Tam-Tiểu
Trách nhậm con chánh yếu lo tròn
Nhớ lời Ấp-Tổn nghe con
Là nơi chỉ tột Ngọc-Côn non Thần.

3.- Cũng chớ vội quá mừng quên Đạo
Chớ vội buồn ngơ ngáo thê nhi
Cả hai Đời Đạo trọn nghì
Là gương tươi tốt Tam-Kỳ Đạo Chơn.

4.- Đừng tính thiệt so hơn chi lắm
Cũng đừng ham áo gấm mão vàng
Nhớ câu tùy ngộ nhi an
Tùy cơ ứng biến gọi trang tu hành.

5.- Phải ráng xét ngọn ngành cho kỹ
Mỗi mỗi đều có thỉ có chung
Thỉ sơ chung hậu vô cùng
Là cơ đắc Đạo qui tùng tại đây.

6.- Còn nhiều việc sau Thầy sẽ dạy
Hiện giờ đây cứ vậy đi lần
Đó là tân cẩu nhựt tân
Là tân hóa nhựt phong trần vô tri.

7.- Ngày tháng lụn nhiều khi day trở
Đạo biến sanh núi lở sông cồn
Ấy là thế lực Kiền Khôn
Tuần cơ vận đảo độc tôn chi quyền.

8.- Cho thay đổi kẻ hiền người dữ
Đạo thưởng răn vạn sự nan đào
Đau lòng thế tục xiết bao
Vì chưa rõ đặng Trời cao Đất dày.

9.- Rày con đặng nhờ Thầy ung đúc
Thì phải tuân đặng dứt nợ trần
Nặng là hai chữ Oai Ân
Thầy cho con thấy trong phần thưởng răn.

10.- Con thấy đó là ngăn là sửa
Sửa hằng ngày hằng bữa Đạo sanh
Tuy chưa gọi đặng trọn lành
Song trong mối Đạo tự mình mà ra.

11.- Vì trách nhậm của CA gần mãn
Thầy định cho Ấp-Tổn giao quyền
Tu chơn Lý chánh để truyền
Bắc Nam xướng họa bạn hiền hòa nhau.

12.- Một lời nguyện ngày sau cho trọn
Đời Thuấn Nghiêu đức lộng nhơn từ
Đạo Thầy mười mấy năm dư
Ít ai rõ thấu chịu hư quá nhiều.

13.- Hễ nhớ đặng tịch triêu rành rẽ
Thì lòng lo đừng để bơ thờ
Phần nhiều tại tánh ngáo ngơ
Là chưa quyết đoán đợi chờ uổng công.

14.- Thầy đem trẻ lập công cứu thế
Kiếp Mậu-Dần quan hệ là đây
Quan là giữ mối Đạo Thầy
Hệ là trọng yếu xác nầy còn mang.

15.- Thầy nhìn thấy trẻ chứa chan
Nên cho bài Đạo thở than dặn dò
Một phần gia đạo ấm no
Một phần Đạo-đức cũng cho vuông tròn.

16.- Làm cho hết sức là con
Mặc ai hung bạo dại khôn đừng phiền
Làm cho rộng mở Tâm-điền
Làm cho người bạo trở hiền mới hay.

17.- Ấy là phải mặt thay Thầy
Thầy nương lời Đạo chỉ bày dạy chung
Dầu cho quê dốt ngây khùng
Thì con cũng phải hết lòng trọn thương.

18.- Chung vui vững bước một đường
Đuốc khêu tỏ rạng cung tường vẹt mây
Muôn năm tiếng để Đạo Thầy
Châu-Thiên nhựt lịnh từ nầy Đạo thông.

19.- Phật Tiên Thần Thánh công đồng
Vô-Vi đều hội thính tùng lịnh Cha
Nguy nguy khí tượng ôn hòa
Đó là diệu điển, đó là diệu trung;
Trước đồng phủ phục cúc cung
Kẻ trao, người lãnh hiệp chung độ đời.

ĐƯỢC, bài nầy con biểu CA nó in ra đặng gởi các Thánh-Thất cho hay, rồi cũng phải đọc tại ngày Đàn cho Đạo-hữu nghe, còn tại ngày 16 đây thì chính mình con phải đọc tại giờ đó, đọc rồi con với CA bắt tay nhau mà tỏ lòng thành thật trước Thiên-bàn cho Chư-Thần vui dạ.

Trong đó Chức-sắc có mặt tại đây đều phải cúi đầu mà tỏ dấu chúc mừng cho Đạo Thầy yên vững.


******************

45. Ngày Xuân đến Hiệp-Thiên-Đài

Ngày 30 tháng 12 annam 1941 (12 giờ trưa)

-----o0o-----

BÀI KINH ĐỌC CHÚC-XUÂN TẠI VÔ-VI-CẢNH

1.- Ngày Xuân đến Hiệp-Thiên-Đài
Là Vô-Vi định của Thầy đã giao
Mỗi con đừng nệ nghèo giàu
Miễn sao cả thảy một màu cho tươi.

2.- Trên Thầy thường giáng giúp lời
Dưới hai Chưởng-Quản Đạo Đời vẫn thông
Khuyên đồng con dại chớ trông
Là trông phi lý vượt vòng phải mê.

3.- Ráng coi theo đó trọn bề
Bề cư xử phận đề huề chẳng chinh
Đó là do lý xử mình
Xử xong ngày sẽ thấy hình dạng vui.

4.- Đời qua Đạo tới rõ mùi
Là cơ hội trải vận thời quảng bao
Dặn lòng thấy khó đừng nao
Quyết tu cho trọn năm nào cũng năm.

5.- Hễ xuân là chỗ nhớ thầm
Thầm trong vạn vật hưởng đầm ấm đây
Ngày Xuân đến Hiệp-Thiên-Đài
Là Vô-Vi định của Thầy đã giao.


******************

46. Mừng thay võ thuận phong điều

Ngày 25 tháng 6 annam 1941 (9 giờ trưa)

-----o0o-----

Nầy lời Thầy nói trước cho mỗi con nào thích chí tu hành, qui tùng Chơn-Lý rõ cảnh Vô-Vi, có Thầy thường ngự thì ráng học bài Thầy cho dưới đây, khi nào có nhớ đến đó mà đi không đặng thì đọc thầm cũng vui, cũng như mình có đến đó, ngoài ra đừng có nhiều chuyện theo phàm mà sai lời Thầy dặn.

BÀI

1.- Mừng thay võ thuận phong điều
Lành an dữ dẹp nầy Nghiêu Thuấn nầy
Nầy là cơ vận ứng xây
Mấy đời lưu chuyển hiện nay thấy rồi.

2.- Thấy trong Đạo-lý Ta Người
Thấy ngoài ai trọn tin Trời dễ nghe
Cách mừng vậy đó nào khoe
Rõ lời thâm cảm người nghe nghiệm người.

3.- Ở ăn gìn giữ vận thời
Đừng ham lãng phí, đừng hơi bợ lùa
Thú quê tùy phận nương mùa
Thị thành tuy thế khuyên chừa lấn tranh.

4.- Cuộc an ngày mở mang rành
Là đâu cũng một bề tranh thận cần
Tu hành truyền Đạo-lý tân
Dị đoan tà thuyết dẹp lần thói mê.

5.- Cứ chung bề một xuôi bề
Là chơn đức hậu chừa đê tiện tà
Đó là Người trọn vẻ Ta
Đó kêu là Đạo-đức ca tụng hiền.

6.- Đó trong người nghiệm vui liền
Đó ngoài ai chớ cậy quyền thế bôn
Đó coi Trời định vong tồn
Đó nhìn cho tận quyền bôn thế rồi.

7.- Rồi là chung một tiếng ôi!
Là ôi rồi thấy tại vui quá buồn
Là cơn ách nạn tai luồng
Quyền cao thế mạnh theo luồng đáng cho.

8.- Đáng cho lời đáng dặn dò
Dặn dò khuyên nhớ phận trò cho xong
Phận trò thì Đạo-lý thông
Trò không thuận lý lầm trong chỗ vầy.

9.- Phong điều võ thuận từ đây
Từ đây người biết Đạo hay mới nhờ
Hay là hay rõ vận cơ
Là hay biết có Đạo thơ tại lòng.

10.- Mới nhờ trong nghiệm rành trong
Mới an bề một nhờ thông nhiệm mầu
PHONG trào ngày tốt đẹp mau
ĐIỀU qui Đạo chánh người trau sửa người.

11.- VÕ nhuần êm nhiệt ngút hơi
THUẬN trong ngoài trải mật phơi gan đành
Đó là cơ Tạo-Hóa sanh
Đó là một lẽ tu hành tỉnh tri.

12.- Định thần nhớ cảnh Vô-Vi
Nghĩ từ cơn lại xiết chi mặn nồng
Vì công Tạo-Hóa hết lòng
Giáng trần lo lập Đạo đồng tế nguy.

13.- Trải qua Nhứt Nhị Tam-Kỳ
Lập thành cơ thể cũng vì sự thương
Phát minh truyền Thượng-cổ tường
Cuối cùng lo lập gầy phương hướng mầu.

14.- Tuần huờn rõ cuộc bao lâu
Tu hành một kiếp khí hầu một sanh
Nhiễm thâm hình tượng ra lành
Đổi thay đời Hạ-nguơn hành Thượng-qui.

15.- Cũng vui mà nghĩ cũng kỳ
Kỳ cho người lại trở khi Đạo Trời
Chuyện kỳ nầy nói hết hơi
Quá kỳ như vậy thì chơi chỗ buồn.

16.- Cũng vì phàm tục chẳng buông
Cũng vì danh lợi níu luôn lụy mình
Lắm kỳ vậy lắm làm thinh
Làm thinh mình tự đoán minh Lý Trời.

17.- Lý trong người đó quá rồi
Trời kêu không sợ thôi thì vậy thôi
Cơ Trời ngày sắp đặt xuôi
Người ngang trở lại ngược rồi khó theo.

18.- Phong điều võ thuận Thuấn Nghiêu
Hưởng đồng dân thiện, ách tiêu nạn mòn
Cho bài để gọi lòng con
Là con nào trọn sắc son Đạo Thầy.

19.- Thiên-Đài Thầy lập để đây
Đây từ đây nhớ vậy hay ráng làm
Chớ ham rù quến theo phàm
Này danh, kia lợi tặng hàm phẩm bia.

20.- Rõ Trời khai Đạo thành qui
Rõ cơ mầu nhiệm Vô-Vi một lần
Mười năm Đinh-Hợi Mậu-Dần
Bước qua Mậu-Tý chớ lần lựa lâu.

21.- Rõ Trời quyền một Lý thâu
Mười năm vững đặt vậy đâu cũng vầy
Mỗi con vì Đạo nhớ Thầy
Đọc bài thâm cảm lời hay nghiệm lời.


******************

47. ĐẠO ĐỜI TRỜI MỘT PHÁN PHÂN

Ngày 23 tháng 3 annam 1941 (10 giờ tối)

-----o0o-----

ĐẠO ĐỜI TRỜI MỘT PHÁN PHÂN

Chủ Tam-Hồn, chánh vị Tam-Tôn
Gồm một Châu-Thiên

Nầy mỗi con đứng trong vòng Chơn-Lý, mỗi đứa ít gì cũng đặng 8-9 năm là ít, vậy mỗi con ngày nay có đứa nào trọn lòng tin chắc Chơn-Lý là có Trời hay là còn nghi ma, nghi quỷ. Vậy lời Thầy hỏi đó thì mỗi con nghe cạn xét mình là xét như vầy: nếu mình đã gọi là người đứng trong vòng Chơn-Lý mà còn chưa quyết định sao là Trời Phật, sao là quỷ ma, thì cái công của mình theo Đạo đây với cái danh của mình đứng trong vòng Chơn-Lý đó, vậy chẳng là không thiệt với đó chớ gì! Đó mỗi con nghe cạn xét lại lời Thầy thì trong chỗ xét với chỗ làm, thảy đều thấy đặng các điều hư thiệt.

Nầy mỗi con ôi!!! Mỗi con thiệt cũng là có phước mà còn đứng vững đây, theo lẽ thì phải nhớ cái phước đó đặng ráng làm thêm cho ra nhiều cái phước khác, đặng cho người sau noi đó mà đi lần, chớ đừng có dụ dự nay mai, rồi hóa ra người trôi trễ, rồi một ngày kia hồn ra khỏi xác đó cũng là một đám vong hồn là hồn quên Đạo-đức đó, chớ nói chi cho đến cái đám phạm hồn là đám hồn phạm tội khi còn sống khi Trời, thì buổi lâm chung phải đành chịu giam vào nơi hắc tịch đặng chờ ngày chuyển phạt vào chỗ Tam-đồ.

Vậy Thầy cũng được trông thấy phần chơn hồn năm nay cũng được phần nhiều hơn năm rồi đó, đó là các hồn trong khi còn mang xác thì đã rõ đặng sự chơn; nếu mình làm chưa đặng chớ ai làm đặng thì cũng mừng không dám điều chi kích bác. Ngày nay mãn sổ thì hồn đó được đứng vào sổ "tự chơn" là sổ để biên riêng cho mấy người không chê Đạo dầu cho quấy lỗi đó là tại cái người, chớ vẫn biết Đạo là Đạo-đức. Nhờ vậy mà ngày nay cái cơ Thầy chuyển lập thì cũng hầu đặng vẻ vang là nhờ các chơn hồn giúp công mà hành Đạo.

Vậy thì mỗi con còn sống tại năm Tân-Tỵ nầy đây hãy ráng định-tâm mà nhớ lại coi từ ngày Thầy cho ĐƯỢC quyền Tam-Tôn Chưởng-Quản cái Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi đã mấy năm rồi, hằng năm hễ qua ngày lễ Tam-Tôn Thầy thường cho ở tại Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi ít nữa là 3-4 ngày đặng hầu nghe luận phán. Nếu mỗi con mà nghe Thầy hỏi rồi định nhớ lại tìm ra cho kỹ thì có chi đâu mà nghi nghị nhiều điều quỷ ma, ma quỷ thì chỉ có thấy rõ trong đó là có Trời lo sắp đặt đặng gầy dựng cho Đời trở lại Thượng-Nguơn, chớ ma quỷ nó có biết đâu mà hầu đem ra sắp đặt, dầu cho nó có biết đi nữa thì nó cũng không làm, vì nó là một lũ muốn phá Đời tranh Đạo, nên thấy chuyện phải đành chịu bỏ qua. Thầy chỉ rõ biện rành thì trong mỗi con tự mình hiểu lấy, chớ buổi sanh tiền còn mang xác tại đây mà được rõ cơ mầu thì có chi là quí nữa, nếu con nào cho đó là không quí thì Thầy cũng không ép, nhưng mà Thầy chắc cho đứa đó đành theo lũ quỷ ma, rồi từ đó làm ra thì quỷ ma cũng là một đám người ta mà không thiệt đó, chớ cũng chẳng đâu xa; Thầy nói trước thấy sao Đạo Đời không khác là vì trong một lẽ vong tồn tự nhiên có vậy.

Vậy ngày nay là ngày Thầy cho ĐƯỢC là một vị Hàng-Long ở tại Hiệp-Thiên-Đài, chủ Tam-Hồn nơi Tòa-Thánh, Tam-Tôn chánh vị, gồm một Châu-Thiên, cơ vận hóa nhãn tiền Đạo Đời Minh Lý, rằng đó mỗi con hỏi lại mỗi con coi vậy phước hay là họa, rủi hay là may, thì mỗi con thấy rõ, mỗi con phải nhớ lại coi trước khi Thầy chưa định Hội Long-Hoa, chủ Tam-Hồn chưa có, Tam-Tôn chưa trọn là vì chưa tới phận sự Hàng-Long, tại vậy mà mỗi con mảng lòng dục vọng lo kiếm xa vời, tưởng thầm Đạo ở núi non, biển sâu, cồn cạn, nẻo thẳm, hang cùng; cứ nghe theo bọn Bàn-môn mà làm thêm mỏi mệt, rốt cuộc rồi hư cũng về hư, thiệt không thấy thiệt, tại vậy nên trước khi Thầy có cho mỗi con hay rằng là: mỗi con để lòng ráng tu cho trọn, đừng dục vọng bôn chôn, hễ tới Hội Long-Hoa có Thầy ra chỉ, là tới đó mới có thiệt người ra thế cho Thầy là Hàng-Long Chơn-Tánh đó.

Nầy mỗi con nay là năm Tân-Tỵ, Thầy chỉ tới đây cũng đã nhiều rồi, mỗi đứa ráng mà lo mà sợ, đừng có dạ hớ hinh phô bày dị lý, rồi vương họa đó là do tại nơi mình đừng có trách Thầy sao không dặn trước.

THI rằng:

1.- Đạo Đời Trời Một phán phân
Một tay Thầy định hóa tân vận hành
TÂN là tân lý biện sanh
VẬN khai thời hữu thạnh danh chơn truyền.

2.- HÀNH tàng cơ hội Bổn-nguyên
Con đồng nghe vậy trọn chuyên tới cùng
Đặng hòa cho thỉ với chung
Người sanh nhằm cuộc mạng tùng tánh qui.

3.- Đặng làm đuốc rọi đường đi
Trước sau dò một chớ nghi ngại nhiều
Thung dung nào nệ trưa chiều
Tới đâu thì sẵn bề theo một bề.

4.- Tin Trời vì Đạo thấm nghe
Thì cơ Tạo-Hóa đâu hề gọi xa
Bởi chưng lòng trọn trung hòa
Người ta một trí, bầy ma quỷ lìa.

5.- Tại lòng nhiều đứa còn chia
Giàu sang quê tiện nọ kia tao mầy
Cho nên đầy dập quá đầy
Đầy thêm tội chứa khôn vầy dại kia.

6.- Rốt rồi cũng một đám chia
Là chia quyền lợi thạnh suy đâu tường
Cho nên đành khổ chán chường
Chịu mang mà lại tự cường nói hay.

7.- Cũng trong đám đó tặng Thầy
Tặng Thầy nhờ có tại mầy khổ tao
Tiếng buồn hờn ngán giận nhau
Thầy xem thấy vậy dạ đau cho vầy.

8.- Cho là chịu khổ nói hay
Vậy vui về vậy Thầy đây quá sầu
Một Trời một luật đâu đâu
Dễ chi mà cãi chạy đâu khỏi Trời.

9.- Gián can vì Đạo tỏ lời
Tưởng cho Trời Phật trọng người có oai
Tưởng vầy vậy mới lầm sai
Đáo đầu không rõ tại oai khổ mình.

10.- Con nào Chơn-Lý trọn tin
Nghe lời lo phận gợi mình chẳng bôn
Thì trong đó tự bảo tồn
Mỗi con thì mỗi nhớ đồng vậy nghe.

11.- Được nhờ Trời Đất chở che
Thoát vòng lao khổ đành quê chịu đành
Mỗi con Chơn-Lý xét mình
Xét rồi thấy sự mầu linh nhiệm vầy.

12.- Quê hèn mà rốt cuộc hay
Đó là hay trước sắp bày lại sau
Một trường một lý nhìn nhau
Con Thầy Thầy chỉ dạy tao cứu mầy.

13.- Đó là rốt cuộc thấy hay
Giờ đây nghiệm biết quả vầy không sai
Đặng dò theo một đừng hai
Là hai lòng tính cãi Thầy lập phe.

14.- Dặn cho mỗi đứa kiêng dè
Mạng Trời nào có sợ phe đảng nào
Kiêng dè thân đặng nhờ sau
Chẳng kiêng dè chịu ngày hao lụy hoài.

15.- Đó là chuyện sắp tới đây
Con nào Chơn-Lý sợ Thầy thấy mau
Thấy rồi đừng có vội nao
Vì chưng chuyển phạt hạng nào nấy vương.

16.- Sao sao lòng vẫn vậy thường
Thường ghi tiếng Thiệt trọn nhường kỉnh Tin
Mà hay mình tự cứu mình
Có ai mà đặng phê bình dại khôn;
Qua ngày Đại-lễ Tam-Tôn,
Tỏ lời Thầy dặn vong tồn cẩn nghiêm.


******************

48. Phỉ nguyền Đại-lễ TAM-TÔN

Ngày 13 tháng 5 annam 1941 (3 giờ trưa)

-----o0o-----

1.- Phỉ nguyền Đại-lễ TAM-TÔN
Là cơ Thầy định người thông dẫn người
Dẫn cho người khỏi khổ đời
Là ra lời chỉ dạy nơi lý hòa.

2.- Chơn truyền ngày tỏ rạng ra
Là do thần huệ Ngọc-Tòa suốt chơn
Khó khăn đừng có dạ sờn
Ráng làm theo trọn điều hơn thấy lần.

3.- Một ngày một thấy duy tân
Đó là công dụng cần tuân mạng Trời
Nối nhau gìn nhớ một lời
Là trong bổn phận Ta Người hiệp đôi.

4.- Đó là Nghiêu Thuấn cuộc vui
Ngàn năm đáng mặt gọi tôi con lành
Mỗi năm thường mỗi nhớ rành
Ngày TAM-TÔN định bình sanh thái bình.

5.- Nhớ rồi Linh tự hòa linh
Đó là do một đức sinh hạnh tồn
Phỉ nguyền Đại-lễ Tam-Tôn
Là cơ Thầy định người thông dẫn người.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho chung cả mỗi người có mặt hầu lễ ngày 14 tháng 5, đặng đọc tại giờ con bước ra Bửu-Điện lạy Thầy, đọc rồi đồng lạy một lượt. Từ đây sắp tới cứ giữ bài nầy đặng hầu lễ Tam-Tôn.


******************

49. Trời cho một đấng Mây-Lành

Ngày 4 tháng 2 annam 1941 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy mỗi con nghe Thầy hỏi:

1.- Trời cho một đấng Mây-Lành
Tại sao mà lại bỏ đành đi đâu?
Đi đâu rồi cũng đáo đầu
Là đi sai nẻo ngày lâu họa nhiều.

2.- Mây-Lành là cuộc mến yêu
Thương Thầy vì phận dò theo Lý hòa
Đó là Đạo chẳng có xa
Là Mây-Lành để cho già trẻ tu.

3.- Bỏ đành dầu trí cũng ngu
Dầu chơn cũng ngụy, đám u dật dờ
Quá thương dành để cho nhờ
Còn con quá bạo hết chờ tại đây.

4.- Hỏi ra lời nói nghe vầy
Vầy con nào biết tại đây Mây-Lành
Biết rồi đừng có cạnh tranh
Cạnh tranh thì dữ Mây-Lành khó che.

5.- Nói vầy vậy đó mau nghe
Mau nghe rồi đặng trọn bề thỉ-chung
Đem gồm về một Lý trung
Đặng Thầy ung đúc sắp dùng cậy sai.

6.- Để chi mà luống chơi hoài
Rồi thân đó hoại cốt hài ra chi
Sống đời mà chẳng xét suy
Xét suy là phận phải tùy Lý-chơn.

7.- Theo Thầy hành Đạo hóa-nhơn
Ẩn vừng mây phủ khỏi cơn nạn đời
Chẳng tường tưởng nói vậy chơi
Chừng lâm đến đỗi thói đời sống thôi.

8.- Một câu nói vậy vang Trời
Trời lo chỉ trước đặng người bớt câu
Câu là lời nói thấm lâu
Là câu nói vậy tại đâu có vầy.

9.- Hỏi rồi chịu xét mới hay
Là hay mình được biết nghe tiếng Trời
Cao thì khó vói con ôi!
Thấp thì chê hạ, không rồi cả hai.

10.- Hỏi qua rồi nói vậy vầy
Vầy cao vậy thấp, chỗ nầy gọi sao?
Chỗ nầy là chỗ không cao
Cùng là không thấp, biết nhau ruột rà.

11.- Mây-Lành che phủ thịt da
Có đâu mà để nạn sa não nồng
Nghe rành thì ráng lập công
Cùng nhau chia độ tấm lòng thâm qui.

12.- Ngỗ ngang nào có hay gì
Gì hay tàn bạo lắm khi hại càn
Tại vầy khó hết gian nan
Tại vầy Trời Phật lúc than, lúc trừng.

13.- Đặng cho người thấy vậy đừng
Đặng chê lời nói gọi rằng nói chơi
Dễ chi mà đổ tiếng Trời
Nói ra thì rộng gom thời khó khăn.

14.- Một điều biết sợ biết tuân
Đó kêu là dễ có Thần độ cho
Mây-Lành che vậy cứ do
Là do lời hỏi nghĩ so phận mình.

15.- Đặng thông minh dễ cho mình
Là so tài hạnh dám kình đặng không?
Mây-Lành che trọn phần đông
Là đông biết Đạo trọn công quả hành.

16.- Thầy thương nhiều đứa chưa rành
Cứ tìm mây nổi giựt giành hỏng chưn
Mãn đời mà chẳng nên thân
Là thân làm vậy tổn thần hạo nhiên.

17.- Chỉ cho đứa trọn nghe liền
Là nghe liền trọn phỉ nguyền sự tu
Hiểu vầy nào có đi đâu
Níu theo lời Lý nhiệm sâu của Thầy.

18.- Tới năm Tân-Tỵ hỏi vầy
Hỏi vầy là hỏi đặng gầy nối thêm
Gầy ra cơ hội êm đềm
Nối danh thuần hậu người thêm trọn lành.

19.- Chẳng cho rời rã Mây-Lành
Kết nhiều thêm đậm màu thanh sắc ngời
Trong ngoài đều cũng tốt tươi
Kêu tường vân hiệp Lý Trời vận bao.

20.- Nữ Nam chẳng luận con nào
Con nào thì cũng một nhau rún đồng
Ngó nhìn trên một là không
Không mà có dạy có công tập rèn.

21.- Không là không dụng mua khen
Không dùng khoe tặng sự đen đỏ màu
Một chừng không vọi sắc cao
Là cao sắc mạng lịnh nào khó qua.

22.- Hiệp tâm về chỗ Linh-Tòa
Đồng triêm vọng bái Trời ra buổi nầy
Đó là chỉ trước cho hay
Chớ Linh-Tòa cảnh lúc nầy tạo khai.

23.- Ngọc Linh-Tòa Hiệp-Thiên-Đài
Đồng Vô-Vi-Cảnh trọn tài thế Thiên
Ngọc-Chơn-Long chánh mối-giềng
Chỉ lần cho vậy đừng riêng Mây-Lành.

24.- Cơ mầu ngày mỗi có sanh
Tại lòng trong mỗi con đành lãng xao
Bỏ liều xiêu lạc lòng đau
Để lời ra nói cạn mau hiểu lời.

25.- Tới đây chừa thói ỷ thời
Cùng quên cậy thế nạn đời vướng to
Mây-Lành chỉ tột dòm coi
Chẳng kiêng thì lụy hẳn hòi chi ai.

26.- Trời cao biển rộng sông dài
Sức người coi lại lâu dài bấy nhiêu
Gặp hồi Trời mở Thuấn Nghiêu
Mây-Lành che đậy, dẹp kiêu mới gần.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho Đồng-nhi học thuộc lòng, đặng đọc tại giờ Tý ngày Đàn 15 tháng 2 tới đây, đọc rồi cũng phát ra cho Đạo coi mà học.

Còn Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất mỗi người một bổn.


******************

Mỹ-Tho, ngày 15 tháng 7 annam 1949

-----o0o-----

Tân Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài: Nguyễn-văn-Năm
Chánh Thái Tứ-Bửu: Phan-văn-Ngô
Chánh Ngọc Tứ-Bửu: Nguyễn-văn-Vân
Đông-Thiên-Sư: Trần-văn-Trượng
Tây-Thiên-Sư: Nguyễn-văn-Rợ
Bắc-Thiên-Sư: Nguyễn-văn-Dậu
Nam-Thiên-Sư: Trần-Kim-Ty

CAO-ĐÀI NHỊ NIÊN


******************

LỜI KHUYÊN CỦA HỘI-THÁNH

50. CÁC LỜI KHUYÊN

-----o0o-----

Chư Quý-vị Đọc-giả.

Cuốn Thiên-Đạo Chơn-Truyền chẳng khác cuốn Tân-Ước của Đạo Thiên-Chúa khi trước.

Thiên-Đạo là Thiên-Lý nơi tâm.

Thử xem con trẻ còn nằm
Biết nhìn Cha Mẹ chẳng lầm người dưng
Ngày đêm xây chuyển không ngừng
Bốn mùa tám tiết một màu không sai.

Nên Thầy có dạy:

Tìm ngọc báu non trèo biển lặn
Kiếm châu lành dải nắng dầm sương
Đạo cao phải học mới tường
Minh mông biển rộng khó lường khôn đong;
Ngày đêm khuyên ráng chí công
Dẫu cho cầm thú có lòng cũng nên.

Cho nên Hội-Thánh xin chư Quý-vị có xem thì để lòng kính cẩn trang nghiêm thì mới khỏi uổng công Thầy Trời giáng trần lập Đạo đồng tế nguy.

Vậy mới hiểu được ít nhiều tùy theo căn kiếp của chư Quý-vị.

Chư Quý-vị gặp Đạo gặp Thầy rồi thì khuyên ráng học, ráng hành.

Là học những bài nầy:

1- Kinh Tu-Chơn Thiệp-Khuyết.
2-
Chánh-Tà Yếu-Lý.

(Hai quyển nầy gồm trọn chương trình Thiên-Đạo)

3- Ba bài: Thuyết Đạo-Phật, Đạo-Lão, Đạo-Nho.
4-
Phát minh Nữ-phái.
5-
Kinh kính mừng Đức Chí-Tôn, Đức Mẹ, Tứ-Thánh, Chưởng-Giáo Thiên-Tôn, Chưởng-Án.
6- Kinh kính mừng.
7-
Bốn bài kinh Nhựt-Khóa và hai bài kinh Tứ-Thời.
8-
Tam-Kỳ Thánh-Huấn:

+ Nhứt kỳ là: Di-Đà, Thái-Thượng, Phục-Hy.
+
Nhị kỳ là: Thích-Ca, Lão-Tử, Khổng-Tử, Gia-Tô.
+
Tam kỳ là: Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn tá danh Cao-Đài giáng thế. Mở dạy Trung-Nguyên ngôi Thái-Kiệt rải gieo Nam-Việt giống Thần-Nông.

Vì vậy nên Thánh-ý có tỏ:

Tu hành là học làm Trời
Phải nào kiếp kiếp làm người thế-gian.

Câu nầy phù hạp với Thánh-Giáo (1930) nầy:

Vô-Vi ấy Đạo phi chơn Tướng
Hữu dụng cho người chiếm Hóa-công
Khuyên rửa tánh phàm noi Thánh-huấn
Đạo Thầy huyền dịu thấu sao cùng.

Tại hồi khai Đạo tại Tây-Ninh (1926) Thầy có phán rằng:

Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị ngã
Thích-Ca Mâu-Ni thị ngã
Kim-Viết Cao-Đài.

Mà trong sám truyền của Đạo Thiên-Chúa Đức Gia-Tô có tiên tri trong hai ngàn năm tận thế và Ngài cũng trở lại thế-gian, xử người sống và người chết.

Ấy là cơ Trời phán đoán Đại-đồng thế-gian hiện tại gần mười năm nay.

Cuộc đời càng gẫm lại càng gay
Ngặt nỗi Thiên-cơ chẳng giáng bày
RẮN núp dưới hang coi NGỰA chạy
KHỈ ngồi trên ngọn ngó GÀ bay.

Đông Tây chộn rộn Trời thay xác
Nam Bắc ê hề Đất chở thây
Nhơn vật mười phần hao tám chín
Thần Tiên thấy vậy cũng châu mày.

Chư Quý-vị học lần lần hết Thánh-ngôn Nhị-Tiểu rồi sẽ bước qua các bài Tam-Tiểu 1938.

Chừng ấy chư Quý-vị sẽ thấy Đạo mắc mỏ nên có nhiều người học 12 năm, theo Thầy bén gót mà còn phải hỏng, cũng tại vì số phận căn kiếp của người, Thầy hết sức kêu gọi than thở, Chư-Phật, Chư-Tiên, Chư-Thánh, Chư-Thần dồi dào khuyên nhủ cha mẹ chị em qua đời, rồi Thầy cho nương bút nhắc nhở gánh nặng, không quên quãng giữa đường mà mấy anh em cũng không nghe.

Nên Hội-Thánh để lời khuyên nhủ chư Quý-vị ráng học, ráng hành vì thời thưởng phạt Đại-đồng thế-gian chẳng dung cái tội khi Trời và cãi Trời.

Ít lời nhắc nhở chư Quý-vị:

Đức tin công-quả vẹn rồi
Vô-Vi hiệp nhứt về ngôi Thánh-Tòa.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Ở trần thế nghỉ ngơi chẳng được
Cõi giái-ba là cuộc chiến trường
Lợi danh Đạo-đức tranh thương
Quỷ-vương Phật-Tổ hai đường chống nhau;
Mà ai Chơn-Lý rõ sâu
Thì được về chầu Bạch-Ngọc Ngôi-Cao.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Đức tin (thường thiệt) Công-Quả vẹn rồi
Vô-Vi hiệp nhứt về ngôi Thánh-Tòa.

Chừng ấy chư Quý-vị mới hiểu mấy chữ: Khai-Thiên Tịch-Địa; Trời Nghiêu, Đất Thuấn.

Thầy có dạy:

Đạo Thầy cốt để hòa bình thế-gian

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Năm-châu qui hiệp một tràng tại đây.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Mà hồi năm 1941 Thầy đã cho ca tụng bài kết quả Đạo Thầy tốt đẹp:

1.- Mừng thay võ thuận phong điều
Lành an dữ dẹp, nầy Nghiêu Thuấn nầy
Nầy là cơ vận ứng xây
Mấy đời luân chuyển hiện nay thấy rồi.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9.- Phong điều võ thuận từ đây
Từ đây người biết Đạo hay mới nhờ
Hay là hay rõ vận-cơ
Là hay biết có Đạo thơ tại lòng.

10.- Mới nhờ trong nghiệm rành trong
Mới an bề một nhờ thông nhiệm mầu
PHONG trào ngày tốt đẹp mau
ĐIỀU qui Đạo chánh, người trau sửa người.

11.- VÕ nhuần êm nhiệt ngút hơi
THUẬN trong ngoài trải mật phơi gan đành
Đó là cơ Tạo-Hóa sanh
Đó là một lẽ tu hành tỉnh tri.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18.- Phong điều võ thuận Thuấn Nghiêu
Hưởng đồng dân thiện ách tiêu nạn mòn
Cho bài để gọi lòng con
Là con nào trọn sắc son Đạo Thầy.

19.- Thiên-Đài Thầy lập để đây
Đây từ đây nhớ vậy hay ráng làm
Chớ ham rù quến theo phàm
Nầy danh kia lợi tặng hàm phẩm bia.

20.- Rõ Trời khai Đạo thành qui
Rõ cơ mầu nhiệm Vô-Vi một lần
Mười năm Đinh-Hợi Mậu-Dần
Bước qua Mậu-Tý chớ lần lựa lâu.

21.- Rõ Trời quyền một Lý thâu
Mười năm vững đặt vậy đâu cũng vầy
Mỗi con vì Đạo nhớ Thầy
Đọc bài thâm cảm lời hay nghiệm lời.

Luôn dịp Hội-Thánh giải nghĩa 2 vé chót (8 câu):


a) Giải nghĩa: Rõ Trời khai Đạo Thành qui

Khai Đạo tại Tây-Ninh (1926) qui về Định-Tường (1938) vì trước có dạy:

Tam-Kỳ ân xá các nơi
Hễ biết nghe lời thì được qui nguyên
Kiếp Mậu-Dần Thầy gạn từ tên

b) Giải nghĩa: Rõ cơ mầu-nhiệm Vô-Vi một lần.

Nên Mậu-Dần Phật Hàng-Long giáng thế nhập xác Ông Hiệp-Thiên-Đài là một Chơn-Như, cho huyền cơ diệu bút viết ra Thánh-Ngôn, Thánh-Giáo, Thánh-Huấn.

Ngày đêm xây chuyển không ngừng

- Thánh-Ngôn: là bài giảng của Thầy ngày Sóc-Vọng ngày Đại-lễ Kỷ-niệm Tam-Cảnh Đài-Linh và các nơi Đạo-Tràng.

- Thánh-Giáo: là lời Thầy dạy vẽ Nhãn-Tâm, thờ đèn Thập-Ngũ Linh-Đăng, làm Ngọc-Ỷ tạo đèn đỏ vàng xanh trong Châu-Thiên, cho sắc phục Hiệp-Thiên-Đài, làm cây Lịnh, sắp đặt Bát-Quái-Đài trên nóc có đèn 5 ngọn bốn phía có đèn Tam-Giác v.v…

- Thánh-Huấn: mấy bài giải nghĩa Nhãn Thị Chủ Tâm, ba chữ A Ă Â, Tứ-Ân, Nhơn-Duyên, Thiện-Duyên, Tam-Thanh, Tam-Phái v.v…

c) Giải nghĩa: Mười năm Đinh-Hợi Mậu-Dần

Trong mười năm Thầy lập thành cơ thể cho Đạo cũng vì sự thương.

Phát minh truyền Thượng-cổ tường
Cuối cùng lo lập gầy phương hướng mầu.

Đó là Thầy dạy châu đáo (Thánh-Ngôn Thiên tải kỳ phùng).

d) Giải nghĩa: Bước qua Mậu-Tý chớ lần lựa lâu.

Là Thầy khuyên Đức Tam-Tôn sắp đặt việc nhà trong năm Bính-Tý qui hồi Bạch-Ngọc đó là một nghĩa thứ nhứt, nên ngày mùng 4 tháng 12 annam 1948 từ giã Hội-Thánh với mấy tiếng nầy:

Sống có Ta thác có Ta,

e) Giải nghĩa: Rõ Trời quyền một Lý thâu
Mười năm vững đặt vậy đâu cũng vầy.

Nếu người tin Thiên Nhơn nhứt Lý, Trời Đất Người có một, là một Lý sanh vô cùng, thì người ráng tu theo qui luật của Thiên-Đạo Chơn-Truyền, ít nữa là 10 năm cho vững đặt là cho thường (trai) cho thiệt cho tin cho trọn cho chí thành thì cũng đến địa vị Hóa-công như Đức Tam-Tôn vậy.

HỘI-THÁNH

Lời khuyên: việc kỷ-niệm Tổ-Tông công đức theo Tu-Chơn Thiệp-Khuyết có dặn dùng hoa quả mà thôi; còn bổn-tộc có về cúng thì đãi tiệc toàn chay và bánh trái trong 2 bữa Tiên, Chánh.

HỘI-THÁNH


******************

51. TÁ DANH THẦY LÀ A Ă Â

Ngày 12 tháng 8 annam 1938 (1 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: con chỉ đầu dây cho VÂN nó rõ. Vì lúc ngày Thầy giáng mà dạy Đạo thì Thầy dùng danh là A Ă Â, trong đó Thầy có chỉ rành, Thầy giáng Đàn mà dạy Đạo-lý chớ không có dạy Quốc-sự hay là Thiên-cơ. Từ đó đến nay nhiều tay ước vọng canh-cải mà làm cho mất cái mối dây đó đi, bởi vậy nên mới sanh ra nhiều điều trái ngược mà làm cho chia rẽ Đạo Trời, chinh nghiêng chích mích nhau là tại quên ba chữ A Ă Â đó. Trong ba chữ đó vì Thầy nói ẩn nên chúng nó không hiểu, nghĩa là Thầy chuyển đủ ba lần là Tam-Tiểu Thời-Kỳ đó. Tuy là có khác dấu chút ít, chớ kỳ trong cũng một chữ A. Một chữ A đó là đầu dây đó, nên làm sái chữ A thì lạc mất đầu dây. Nay Thầy qui về Tam-Tiểu nơi Tòa-Thánh Định-Tường, qui đủ Tam-Hồn là A Ă Â đó, trong đó gồm một chữ A là Thầy, là Ngôi Độc-Nhứt. Còn thể ra là cho biết áo trắng Khai-Thiên gọi là Cửu-Thiên Đại-La Thân Phi Bạch Y là đó. Hễ muốn tầm cho ra mối-giềng của Đạo thì phải đến đây mới tầm đặng, ấy là chỗ Thầy Qui-nhứt.

Thăng.

******************

52. Chỉ rõ: THÁNH-THẤT và TÒA-THÁNH

Ngày 20 tháng 7 annam 1938 (7 giờ sáng)

-----o0o-----

ĐƯỢC, Thầy cho phép con sửa bài biểu chương của GIÀU đi đặng giao lại cho CA nó xét, ngày sau in vào Đuốc-Chơn-Lý.

SỬA:

Câu hỏi: Tại sao kêu bằng Thánh-Thất Định-Tường?

Trả lời:

Thầy mở Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
Dạy Lý-chơn chỉ rõ dữ lành
Bề trong Thầy có chỉ rành
Bước sang Tam-Tiểu mới thành Đạo Nam.

Trước Thầy dạy phải làm Thánh-Thất
Tại Mỹ-Tho là đất Định-Tường
Lời Thầy chỉ rõ chán chường
Đó là nhà Thánh Định-Tường xứ đây.

Đờn Chơn-Lý lên dây trỗi giọng
Đặng xa gần ráng lóng mà nghe
Nghe rồi phải dặt, phải dè
Hạ-Thiên Đạo chuyển nhiều bề trở day.

Mấy lúc trước ít ai thức tỉnh
Cũng còn ưa phờ phỉnh đặt bày;

Câu hỏi: Tại sao kêu bằng Tòa-Thánh Trung-Ương?

Trả lời:

Tại vầy nên động đến Thầy
Nhâm-Thân chuyển Đạo gọi là Trung-Ương.

Dùng biểu hiệu chỉ đường sanh-chúng
Từ đây là chánh giống Tam-Kỳ
Chỉ rành cách-vật trí-tri
Trung-Thiên cơ Đạo Nhị-Kỳ là đây.

Ban Thánh-Huấn, đổi thay áo mão
Ai thính tùng thuận thảo thì theo
Ấy là do luật Thiên-Điều
Nương theo thời cuộc dẫn dìu hậu lai.

Trước khi lập lời Thầy có dặn
Trung-Ương là gánh nặng Thầy trao
Dưới trên hòa thuận một màu
Bỏ điều chia rẽ tự cao độc quyền.

Khêu đuốc huệ tuyên truyền chánh lý
Chọn anh tài đặng chỉ Đạo-tràng
Đó là Chơn-Lý mở mang
Qui-Điều kỷ luật tạm ban theo thời.

Ai sớm biết có Trời chuyển Đạo
Thì chớ mang tháo bạo ta-bà
Dò lần ráng bước cho qua
Đặng sang Tam-Tiểu khỏi sa Đại-đồng.

Trung-Ương đó tỏ lòng hưởng ứng
Gìn bực trung cho vững cho bền
Nhớ lời Thầy dặn đừng quên
Trung-Ương là chỗ tạo nền Châu-Thiên.

Câu hỏi: Tại sao kêu bằng Tòa-Thánh Định-Tường?

Trả lời:

Đó là chỗ mối-giềng căn cứ
Rày bước sang năm thứ Mậu-Dần
Đạo thì mỗi nhựt mỗi tân
Muốn cho rõ Đạo dò lần mối-manh.

Nay Thầy định lập thành Tam-Tiểu,
Nơi Trung-Ương để hiệu Định-Tường
Định nầy là định nghĩa phương
Tường minh thưởng phạt phước lường tội cân.

Ai sớm biết ăn năn là phải
Đặng nghe lời chỉ dạy sửa mình
Nếu ai còn tánh chống kình
Khó trông tránh khỏi tội hình nghịch Thiên.

Định Tòa-Thánh tuyên truyền xử đoán
Khương-Thái-Công Chưởng-Án Lịnh-Tòa
Khắp cùng cả thảy gần xa
Muốn nên phải hiệp phải hòa mới nên.

Vậy mới gọi dưới trên tùng thuận
Vậy mới rằng nương vận cứu đời
Không tuân bàn cãi nhiều lời
Gây ra khẩu nghiệp cãi Trời đặng đâu.

Trước Bệ-Ngọc cúi đầu vọng bái
Nhờ ơn trên chỉ dạy con tường
Quyết lòng độ kẻ lương khương
Định-tâm lời viết biểu chương lạy Thầy.

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: bổn này con biểu CA nó in ra cho GIÀU một bổn, con một bổn. Rồi đòi nó lên Thánh-Tòa đúng ngày 27 nầy đặng giao trách nhậm cho nó y như lời Thầy dạy vừa rồi đó. Coi nó chịu lãnh hay không, như nó chịu lãnh, thì con phải biểu nó đến Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi đặng làm lễ, rồi sau Thầy sẽ gia phong Giáo-Sư cho nó. CA hỏi nó coi chịu đi hay không? rồi Thầy sẽ định ngày cho nó cùng là người đi theo nó. Bài nầy đòi nó lên giáp mặt rồi sẽ đưa cho nó coi, rồi biểu nó đọc coi nó có vừa lòng hay không?

Thăng.

******************

53. Nay gặp Thầy gặp Đạo đây con

Ngày 10 tháng 4 annam 1938 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

1.- Nầy các trẻ có duyên tìm Đạo
Nay gặp Thầy gặp Đạo đây con
Thầy lo đủ xác đủ hồn
Biến an xây chuyển bảo tồn cho con.

2.- Các chi phái ở trong Đại-Đạo
Cũng đều lo mộ Đạo tu hành
Tại sao hay cải hay canh
Là chưa rõ đặng mối-manh của Thầy.

3.- Vì tại đó đến nay chưa hiệp
Còn chia nhau lấn hiếp tranh quyền
Lâu ngày quên hẳn chữ duyên
Gây ra nhơn quả đảo điên hại mình.

4.- Nay Thầy phải chỉ rành cho trẻ
Muốn gặp duyên đừng kể thế quyền
Hễ quyền thì phải đảo điên
Đảo điên nhiều nỗi dầu Tiên cũng phàm.

5.- Các trẻ nói bỏ tham bỏ giận
Đứa thì khoe dứt đặng nợ trần
Đáo đầu hai chữ Tham Sân
Hiện nay các trẻ còn mang nặng quằn.

6.- Tu như vậy là nhăng là nhố
Tu như vầy sa hố lạc truông
Nhơn duyên do tại cội nguồn
Các con không rõ để ruồng đâu xa.

7.- Con nào biết Thầy ra mở Đạo
Thì phải lo sửa bạo ra hiền
Sửa hiền mới rõ đặng duyên
Nếu theo ngược bạo thì riêng của đời.

8.- Đời tại đó nên Đời mới hoại
Muốn tránh Đời trở lại đường tu
Tu là tránh lũ quáng mù
Nên kêu tu tỉnh chẳng rù quến ai.

9.- Ai cũng biết rằng ai cũng một
Biết một rồi theo một cho rành
Một rành mới rõ mối-manh
Một là một lý một sanh vô cùng.

10.- Cả trần thế ở chung trong một
Chia ra nhiều Người một Ta hai
Đua nhau ỷ sức, ỷ tài
Ỷ khôn, ỷ dại lâu ngày hóa ngu.

11.- Miệng thì đọc nhiều câu Thánh-Huấn
Mà tâm chưa cảm ứng chỗ nào
Lại khoe Đạo thấp, Đạo cao
Hỏi đâu nghẹn đó làm sao cho thành.

12.- Đó là tại mối-manh không rõ
Lại ham khoe nghiệp khẩu hơn người
Thầy khuyên, Thầy dạy hết lời
Tại sao con lại cãi Trời vậy con?

13.- Nhìn các trẻ thon von hết sức
Mười mấy năm hạnh đức chưa rành
Chác điều phỉnh gạt nhơn sanh
Nếu không thưởng phạt tội sanh ra nhiều.

14.- Các con ráng nghe theo lời dặn
Nghe cho rành làm đặng mới hay
Phải xem phải xét mỗi ngày
Xét cho tột lý rõ Thầy dạy con.

15.- Con nào muốn nên con tin cậy
Thì dứt điều dại dại khôn khôn
Đặng thông an biến vong tồn
Đặng cho chung-thỉ mới tròn nhơn duyên.

Thăng.

******************

54. THỨC TÂM HÀNH THIỆT

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 9 tháng 6 annam 1939 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy các con cả thảy ở thế hạ nầy dầu Đạo dầu Đời, hễ ngó mặt lên biết trên đó có Trời, thì phải biết con người đây là Chơn-Tánh, Chơn-Tánh đó là nhờ ai ban cho, có phải là nhờ Thầy hay là vị nào ban cho được, thì tự mình hỏi lại đi. Hỏi rồi ngó lại xét coi, hễ biết có Trời ở nơi trên không không đó, thì phải biết Trời cứu thế là Trời ứng cảm tại tâm, đặng sửa đời phá tục, vẹt ngút rẽ mây đặng cho đời được thuần phong mỹ tục, khỏi lấn hiếp nhau, đó là Vô-Vi nhi hữu chứng.

Vậy Thầy xem thấy phần nhiều hơn hết chưa trọn tin Trời, cứ tư tưởng có một điều cầu ma, vái quỷ đặng phò hộ cho giàu, cho sang, cho vinh, cho hiển, cho mạnh giỏi, sống lâu đặng hưởng nhờ gia tài của tạm; mà quên rằng trong đó người giành giựt giết người, ta chẳng biết hổ với ta là đem Chơn-Tánh mà quì lạy ma hồn, quỷ xác; rồi trở lại công kích Đạo Trời, chê bai đánh đổ. Bởi tại đó nên mới có cái tội lỗi lớn hơn hết, là cái tội khi Trời nên phải chịu nạn mấy chục năm có dư, kêu Trời vái Phật mà cũng không chịu bỏ lòng tham.

Nay đúng thời kỳ phán đoán, Thầy cho Hàng-Long giáng thế đặng thay Thầy phá tục sửa đời, theo lẽ thì trước phải cúi đầu mà tạ ơn Tạo-Hóa, sau là hết dạ thương người như mình đây, vậy mới gọi là một. Chớ có đâu đã chẳng biết ơn, còn lại sanh lòng ganh ghét; mình đã chẳng rõ điều hư hư, thiệt thiệt, lại dám viện lẽ chê người ra lãnh gánh cứu đời. Thầy hỏi cái chỗ chê đó có đáng hay là chê càn, thì tự lòng mỗi ai xét lấy.

Thầy vì cơn mạt kiếp, đời chịu khốn nguy nên buộc lòng phải ra cứu vớt. Trước là dạy cho biết đường ngay đặng tránh lần nẻo quấy, sau thoát tục cho thân khỏi buộc ràng. Hễ tin trọn làm theo thì cả đời thong thả, còn chẳng tin thì phải ở vào trong đó mà chịu lấy cái nạn cúi lòn, chớ không nỡ ai vào mà chịu thế cho đặng. Than ôi! biết cái thân là trọng mà đành quên chỗ trọng đó là Trời. Tại vậy nên người chẳng hổ với người, là người quên căn bổn đó. Đây Thầy cũng hết các lời biện giải cho cả thảy nghe rành đặng tự lòng suy nghĩ, rồi sau sẽ thấy cái việc vui buồn nó cũng ở gần nhau trong chỗ chê khen, khinh trọng đó. Vậy Thầy cũng vui lòng vì thương cho đứa quá mê mà đành quên Chơn-Lý, nên cho một bài đây gọi là: THỨC TÂM HÀNH THIỆT đặng coi rõ mà tự giác tha.

BÀI NHƯ VẦY:

THỨC tỉnh cho con cả thế trần
TÂM phàm dục vọng với Tham Sân
HÀNH theo Chơn-Lý khuyên chừa bỏ
THIỆT trọn Thần minh rõ huệ ân.

Tiếp cho luôn THI:

1.- Huệ ân Trời Đất ban nhiều
Tại lòng không dứt tự kiêu nên lìa
Ưa cầu khẩn nguyện sớm khuya
Lạy ma, tế quỷ đặng chia lợi quyền.

2.- Thầy nhìn thấy rõ đảo điên
Con người sao lại bỏ duyên dụng tà
Cho mình trọn kiếp người ta
Người ta phải biết Phật, Ma cho rành.

3.- Phật là thường dạy chúng-sanh
Hiếu Trung Đạo-lý thiệt hành đồng cho
Chẳng dùng tiền lót của lo
Bày ra mưu quỷ muốn cho vẽ vời.

4.- Vẻ vui chuyện khác mê đời
Đời cho người tách xa Người với Ta
Chẳng thông nẻo chánh đường tà
Cứ ham vui vẻ gọi là mở mang.

5.- Chẳng dè vào chỗ gian nan
Vì vui cho quá tới than là cùng
Làm người chẳng rõ thỉ-chung
Thiên sanh, Địa dưỡng sanh tùng tử qui.

6.- Phải lo đường cả tu trì
Có đâu đến đỗi A-tỳ đọa thân
Dầu cho Tiên Phật Thánh Thần
Trước noi Chơn-Lý lập thân mới thành.

7.- Đạo Đời có diệt có sanh
Tại người không chịu nhứt thành khó thông
Học thường hai chữ Trung-dung
Học cho có học, làm không chịu làm.

8.- Tại vì dục vọng tham lam
Thánh riêng đạo Thánh, phàm riêng ý phàm
Nay Thầy chuyển đạo Kỳ-Tam
Lập cơ phá tục, dựng làm Thượng-Nguơn.

9.- Điển thần rộng rãi ban ơn
Thưởng cho người biết Đạo nhơn tâm hòa
Còn phần giả dối kiêu sa
Sẵn cho Đại-Kiếp, hồn ma xác người.

10.- Làm cho báo ứng hiện thời
Sống coi thấy rõ, biết Trời chuyển luân
Nhãn-Tâm là tượng chỉ chừng
Đặng cho người nghịch đừng xưng hơn Trời.

11.- Chuyển luân trong mấy kiếp đời
Ngày nay nhìn thấy rõ Trời tại tâm
Thì tri hai chữ chẳng lầm
Nếu ai rõ đặng dễ tầm đường chơn.

12.- Cạn lời phân tỏ nguồn cơn
Đặng cho đời rõ Thiên Nhơn Địa thành
Tam-tài hiệp bảo tồn sanh
Lập Tam-Kỳ Giáo phát minh Chơn-truyền.

13.- Nặng nề cho kẻ vô duyên
Khó khăn vì tại đảo điên nơi lòng
Làm người chẳng rõ đục trong
Bạ đâu tưởng đó luống công lao hình.

14.- Phước lành đức rộng minh minh
Khác hơn vật chất khó nhìn là đây
Mẫu Tâm vẽ tượng thì Thầy
Người không rõ Lý biếm bày rằng ni.

15.- Tại vầy lầm lỗi chẳng tri
Nhứt tâm kỉnh niệm nhiều khi dạy truyền
Ngày nay chỉ tột phỉ nguyền
Thiệt tâm diệu lý cổ truyền kim chung.

16.- Dạy chung cả thảy rõ cùng
Còn ai chẳng trọng Đạo trung khó gần
Luật Bình-Quân đủ oai ân
Ban hành phá tục xa gần đặng hay.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó giao lại cho Thiên-Sư đặng in cho nhiều, để lại Thánh-Tòa một bổn, còn bao nhiêu thì phát cho Đạo coi mà học, các Thánh-Thất cũng vậy.

Thăng.

******************

55. TAM-THANH TAM-PHÁI

1.- Trong ba phái đỏ, vàng, xanh sắc
Đó là do sơ phát chọn màu
Đặng dùng thứ tự đủ ba
Là khi lập hội truyền trao Đạo-mầu.

2.- Ba màu đó yêu cầu xuống thế
Theo giúp người đặng để danh lâu
Chọn ba màu đó làm đầu
Là tâm hóa Đạo cơ mầu ích ghi.

3.- Xưa xuống thế Phục-Hy màu đỏ
Là ẩn thân cậy đó bề ngoài
Lâm trần điển hiệp đầu thai
Tường vân xích đạo đến nay lưu truyền.

4.- Di-Đà hiệu Huỳnh tiên ứng mộng
Sắc son
vàng vào bụng mẫu thai
Lớn lên thân thể hình hài
Thảy đều vàng ửng gọi tài kim thân.

5.- Thái-Thượng hóa hạ trần thanh khí
Hiệp Tam-Thanh Nguơn ký ư hành
Đó là Tam-vị Tam-Thanh
Là sanh tam dịu vàng, xanh, đỏ màu.

6.- Lần lần chuyển kiếp sau Tam-Giáo
Truyền lưu ngôn Phật, Lão, Thánh đồng
Đồng hè Tam-vị nhứt thông
Là thông khí tượng đồng công tỉnh đời.

7.- x Giải cho con rõ mọi lời
Ba màu ba phái nối đời về sau
Gốc người cũng có công lao
Gốc trong giống đó lưu hành có xa.

8.- Chánh truyền Đời Đạo thể ba
Là Tam-tài hiệp Người ta Đất Trời
Tiếng ba là để nhắc lời
Lấy ba làm dấu cho Đời nhớ tu.

9.- Tam-Hoàng trị thế đã lâu
Rồi sau Tam-vị nối hầu Tam-Tôn
Chuyển lưu Tam-Giáo Trung-Tôn
Biến kỳ Tứ-Thánh Kiền Khôn đảo huyền.

10.- Bính-Dần cơ lý phát nguyên
Lập thành Tam-Trấn lưu truyền lần ra
Mậu-Dần Đạo chuyển đủ ba
Định-Tường thống nhứt hiệp thành Tam-Tôn.

11.- Thống trong ngôi chủ Tam-Hồn
Đó là Độc-Nhứt Kiền Khôn định thành
Thưởng phần Tam-Bửu vân sanh
Là sanh khí tượng Thần Anh bảo tồn.

12.- Đắc là bửu vị Tam-Tôn
Cho Đời thấy rõ xác hồn hiệp ba
Hiệp thành cơ Đạo phát ra
Đó là Tam Nhứt người ta với Trời.

Thăng.

******************

56. LUẬN GIẢI TỨ-ÂN

Ngày 5 tháng 3 annam 1939 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

Bài nầy Thầy sửa về hai chữ TỨ-ÂN.

THÂN, con nghe Thầy dạy:

1.- Con luận giải Tứ-Ân thì phải
Thầy khuyên con sửa lại như vầy
Ơn Trời, ơn Đất với Thầy
Mẹ Cha là bốn, cao dày nặng sâu.

2.- Bốn ơn đó người âu lo trả
Trả cho rồi thong thả phận người
Trước là kỉnh sợ Luật Trời
Đã che cả thảy trong đời ở chung.

3.- Bao võ-trụ nhờ không mà sống
Đổi thay truyền mối trọng huyền vi
Ơn cao Luật cả khó bì
Thưởng ban răn trị Đạo tùy chỗ không.

4.- Còn Đất rộng minh mông thế-giái
Đồng chở chung chủng loại thú cầm
Kìa như biển rộng thâm thâm
Vật nơi đáy biển, đất nằm đỡ chưn.

5.- Núi cao vọi ngàn từng chớn chở
Nếu chưn không đất đỡ sao bền
Côn trùng, thảo mộc gầy nên
Ấy là sơn thủy tuổi tên lâu dài.

6.- Cha cùng Mẹ, ai ai Phụ Mẫu
Sanh ngã hề hai chữ cù lao
Nặng nề cay đắng xiết bao
Lúc sanh lúc trưởng gồm bao lo lường.

7.- Ơn Sư mạng mở đường giáo-huấn
Dạy lễ nghi Tinh vững Thần bền
Đạo người nhờ đó mà nên
Có danh có phận tuổi tên yêu vì.

8.- Trong các việc trí-tri cách-vật
Nếu không người tỏ thiệt biết đâu
Muốn thông lấy học làm đầu
Là Chơn-Sư mạng, chẳng cầu lợi riêng.

9.- x Trải xem các bực Thánh hiền
Tứ-Ân thường giữ trọn nguyền thỉ-chung
Khít khao yêu mến một lòng
Tiền lưu hậu cố chữ đồng Đạo sanh.

10.- Trọn nhơn, trọn nghĩa, trọn thành
Tứ-Ân là trước phải rành phải ghi
Mỗi điều phải xét phải suy
Trả ơn là tại nhớ y chuyện lành.

11.- Ơn Vua bảo bọc thái bình
Trị an đạo tặc thứ tình dân quê
Thuế xâu lo đủ mọi bề
Trên thương dưới thuận mựa hề dể ngươi.

12.- Mỹ phong thuần tục trong đời
Nếu quên, nếu nghịch thì Người hại Ta
Bốn ơn phải trọng vậy là
Là nương Chơn-Lý đặng hòa hiệp nhau.

13.- Phải rành hai chỗ thấp cao
Phải thông trật tự hạng nào tới đâu
Trước Thầy có chỉ biển sâu
Biển sâu nhờ nước, núi cao nhờ Trời.

14.- Có thân, có vóc gọi người
Không ai răn dạy tiếng người còn chi
Đó là Thầy chỉ phải ghi
Rành trong lẽ thiệt trọn nghì đền ơn.

15.- Đã đành việc phải, phải tuân
Ngặt không Đạo-lý khó phân cho rành
Thầy vì thấy cả chúng-sanh
Tứ-Ân biết đọc mình đành chịu nguy.

16.- Ngày nay luật chuyển Tam-Kỳ
Tới đâu dạy đó thị phi không lầm
Nghe theo làm đặng thì nhằm
Cải-canh thì hại vì tâm không bình.

17.- Trước ban Sắc-tứ Ngọc-Đình
Luật ra trị đứa chống kình dọc ngang
Đạo-mầu rộng mở Nam-Bang
Là cơ tạo thế vững an nhơn quần.

18.- An là biết sợ biết tuân
Tùy theo cơ Đạo là vưng mạng Trời
Thương con Thầy chỉ cạn lời
Ráng nghe cho trọn độ Người cứu Ta.

Thăng.

******************

57. Thiện duyên muốn giữ cho tròn

Ngày 6 tháng 7 nhuần 1938 âm lịch (12 giờ trưa)

-----o0o-----

Ngọc-VÂN-Thanh nghe Thầy dạy:

Ớ nầy trẻ Ngọc-VÂN-Thanh
Ráng nghe lời dạy cho rành nghe con
Thiện duyên muốn giữ cho tròn
Trước lo học hỏi chữ Tồn chữ Vong.

Sau là gạn đục lóng trong
Lóng rồi con sẽ rõ thông Đạo-mầu
Thiện duyên hai chữ đứng đầu
Tại người không giữ ác liền gây ra.

Thiện duyên phước của Ông Bà
Hoặc là Âm-đức Mẹ Cha để dành
Mỗi đời đều mỗi làm lành
Như dây buộc quấn cứ nhành chuyền leo.

Rủi thay cho mấy hạng nghèo
Trách thầm cha mẹ chẳng gieo giống lành
Không dè tại nó biến sanh
Mẹ cha tích đức, còn mình ngỗ ngang.

Phước dư dầu có muôn ngàn
Mà không noi giữ bạo tàn phải tiêu
Ai ai cũng có ít nhiều
Người sanh dưới thế thảy đều có duyên.

Tự lòng ham muốn đảo điên
Cho nên chẳng nối thiện duyên lâu dài
Thương con có chí râu mày
Nên Thầy cạn chỉ một bài Thiện-duyên.

Con giao lại cho CA đặng gởi trả cho nó.

Thăng.

******************

58. CỬU-HUYỀN THẤT-TỔ

Ngày 22 tháng 5 annam 1938 (6 giờ chiều)

-----o0o-----

THỂ, con nghe Thầy dặn:

1.- Con chưa rõ Cửu-Huyền Thất-Tổ
Thầy cũng vui chỉ chỗ chưa rành
Kể từ Phụ Mẫu sơ sanh
Cũng nhờ Tổ Đức lập thành chánh chơn.

2.- Người chưa rõ nguồn cơn trong đó
Nên dể ngươi đành bỏ rã rời
Từ con lên đó năm đời
Con từ đó xuống bốn đời chia ra.

3.- Trong số ngũ sớt ra làm chính
Chính mình con là định trung hòa
Trước con là gọi Mẹ Cha
Sau con kế đó nó là cháu con.

4.- Tới bực cháu Huyền Tôn là chín
Gọi Huyền Tôn là chín Cửu-Huyền
Hiệp thành là cửu hóa nguyên
Kể trong Cửu-tộc lưu truyền không sai.

5.- Đếm từ chín bớt hai còn bảy
Là bảy ông thảy thảy kêu chuyền
Gọi là Thất-Tổ chi nguyên
Nên kêu Thất Tổ hậu tiên không lìa.

6.- Thân con đứng giữa chia vay trả
Vay ơn dày thì trả nghĩa sâu
Tại vầy nên phải lo tu
Lo tu đặng độ đền bù nghĩa nhơn.

7.- Người có đó nên người hơn thú
Thú được vầy thú cũng bằng người
Khuyên con chớ tưởng trò chơi
Ráng lo tu niệm nên người dễ chi.

Thăng.

******************

59. Bốn báu: HUỆ, MINH, THẦN, DIỆU

Ngày 7 tháng 7 nhuần, annam 1938 (5 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: con phải biểu SÁU nó định-tâm cho lắm, đặng Thầy ban thêm diệu tánh cho nó, đặng nó vững vàng mà giúp con trong việc cho bài học.

Hiện nay Thầy ban cho nó bốn báu gọi là HUỆ, MINH, THẦN, DIỆU. Trong bốn món nầy là Thầy ban cho rộng đó, chớ Thầy e cho nó khó mà lãnh cho hết đặng; vì trong lúc Hàng-Long mới vừa hạ trần cứu thế, thì Thầy có giao cho người nhiều món báu lạ thường nhưng mà có bốn món nầy hay dùng hơn hết.

Nay Thầy thấy nó cũng là có nhơn duyên với Đạo, nên Thầy mới định ban cho nó đặng giúp đỡ cho con là vậy đó. Vậy con biểu nó mặc áo rộng trắng quì trước Thiên-bàn làm lễ, đọc lạy Thầy, lạy Mẹ; rồi con đọc bài của Thầy cho đây cho nó nghe.

Kể từ ngày nay sắp lên, Thầy cũng giảm sự hành lễ cho nó cũng như CA với con vậy. Hễ đọc lạy Thầy, lạy Mẹ rồi thì nó đứng dậy.

Còn bài của Thầy cho nó như vầy:

SÁU, con nghe Thầy dặn:

Ớ nầy trẻ Ngọc-SÁU-Thanh
Điển linh Thầy rọi Diệu, Minh, Huệ, Thần
Ráng lo sửa hạnh cho cần
Từ nay con lãnh giúp phần Hàng-Long.

Đêm ngày trẻ phải dày công
Định-tâm khai huệ dẫn thông Nguơn-Thần
Âm Dương động tịnh xây vần
Tâm lưu hiển hiệp chẳng ngừng chẳng phai.

Giao quan phối thuận trong ngoài
Đạo thông chiếu tại mỗi ngày mỗi thêm
Thầy lo ung đúc thúc kềm
Đặng cho vững chặt để tìm sự hay.

Mỗi khi con đến Thiên-Đài
Trước vào làm lễ đặng Thầy chứng cho
Từ nay phận sự phải lo
Chớ nên than thở, rút co biếng lười.

Trước con có nguyện mấy lời
Thỉ-chung giúp Đạo trọn đời cho xong
Dặn con khuyên ráng ghi lòng
Lập công tiêu nghiệt, tránh vòng nạn tai.

ĐƯỢC, CA Chưởng-Quản hai Đài
Phận con phải trọn, chớ nài khó khăn
Giờ đây đủ mặt Chư-Thần
Phật Tiên tề tựu chúc mừng cho con;

Gìn lòng giữ dạ sắc son
Lập xong danh phận tiếng con muôn đời.

ĐƯỢC, con đọc bài nầy rồi biểu nó lạy Thầy, rồi nó đứng dậy tỏ lòng đáp lễ với con, ấy là anh em hòa hiệp nhau mà chung lo mối Đạo. Trong đó có đủ Tiên Phật Thánh Thần đồng chứng cho, rồi con giao bài nầy lại cho CA nó coi đặng nó mừng, đặng nó để vào Đuốc Chơn-Lý cho Đạo-hữu biết mà nhìn nhận.

Thăng.

******************

60. Phá cái giấc chiêm bao mấy kiếp

Ngày 12 tháng 8 annam 1939

-----o0o-----

ĐƯỢC, con sửa bài học SÁU đi đặng giao lại cho CA, nó ban hành cho trong Đạo rõ. Thầy cho phép tên bài:

PHÁ MÊ TẦM ĐẠO

Đầu bài học như vầy:

Phá cái giấc chiêm bao mấy kiếp
Đặng về mau cho kịp với người
Đạo Trời bủa khắp nơi nơi
Đông Tây Nam Bắc một Trời Lý-chơn;
Phải tìm cho gặp con đường
Đừng cho lạc bước, để hờn kiếp sau.

Thầy sửa lại như vầy:

1.- Phá cho đặng muội mê tăm tối
Cái thân phàm tội lỗi muôn phần
Giấc mê nay đặng tỉnh lần
Chim bay cá lội đặng mừng thảnh thơi.

2.- Bao thuở đặng gặp Trời ban phước
Mấy khi mà nghe được kinh Trời
Kiếp mau tỉnh mộng nghe lời
Đặng chung nhau một hưởng đời Thuấn Nghiêu.

3.- Về Bạch-Ngọc tiêu diêu khoái lạc
Mau mau chừa biếng nhác đừng làm
Cho rành Đạo chuyển Kỳ-Tam
Kịp cùng không kịp tại tâm mỗi người.

4.- Với bạn hữu để lời khuyên nhủ
Người với Ta đoàn tụ vui vầy
Đạo mầu Thầy mở tại đây
Trời cao biển rộng vần xây vô cùng.

5.- Bủa Chơn-Lý dùng chung cả thảy
Khắp nơi đều chuyển dạy làm lành
Nơi đây Thầy đã định rành
Nơi đây Thầy ngự hợp thành Ngọc-Kinh.

6.- Đông-Thắng-Châu còn tin vật chất
Tây-Hạ-Châu giữ luật Công-bình
Nam-Châu lo học sửa mình
Bắc-Châu còn luận, chưa rành thiệt hư.

7.- Một Ngôi-Chủ Đại-Từ Cứu-Thế
Trời rộng khai phổ tế nhơn quần
quyền đều gạn minh trưng
Chơn ngôn diệu toán thưởng răn không lầm.

8.- Phải lo học nhiều năm mới biết
Tìm đường ngay lẽ thiệt cho rành
Cho tường tà chánh trược thanh
Gặp nguy tế độ, gặp lành thì vui.

9.- Con nhờ đặng nếm mùi Đạo-đức
Đường Lý-chơn thẳng bước theo lần
Đừng gây ra việc nhố-nhăng
Cho an bổn phận làm ăn theo đời.

10.- Lạc biển khổ đời đời bê trễ
Bước không chừng bị kế ma ranh
Để lâu liên lụy đến mình
Hờn ai nỡ hại tại mình còn mê.

11.- Kiếp một kiếp cà kê chi lắm
Sau lại còn chìm đắm thêm nhiều
Nếu ai rõ đặng các điều
Làm theo cho trọn tránh điều họa tai.

12.- Đầu cúi lạy Cao-Đài Ngọc-Đế
Ra ơn lành châm chế tội đời
Đặng mau thức tỉnh kịp thời
Ngũ-Lôi tránh khỏi sợ Trời là hay.

Thăng.

******************

61. Hóa-công là luật dậy bừng sấm oai

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 5 annam 1938 (10 giờ tối)

-----o0o-----

LÊ, con nghe Thầy họa đây mà tự xét nghe con:

Họa lấy chữ đầu.

Đầu than, đuôi thở tưng bừng
Hóa-công là luật dậy bừng sấm oai
Dốc tu cho trọn Đạo Đài
Vì cơn rắc rối buộc hoài khó khăn.

Đã hay Đạo vốn trang bằng
Chức Trời ban để đặng dằn phàm tâm
Phận con Đạo-lý ít tầm
Làm sao rõ thấu diệu thâm chơn truyền.

Làm sao dứt đặng đảo điên
Bởi chưng nghiệp quả tiền khiên vẫn còn
Chớ chi con tỉnh mộng hồn
Trẻ dầu mấy kiếp dập dồn cũng qua.

Mấy lời Thầy dặn thiết tha
Dứt xong nghiệp chướng khỏi sa A-tỳ
Căn lành nghiệp dữ còn ghi
Ngày qua tháng lụn có khi thêm nhiều.

Đã rằng Thiên-Luật nan nhiêu
Đâu đâu cũng phải chịu điều xử chung
Vì cơ bí mật vô cùng
Đặng cho con rõ, con phòng lấy con.

Vì thương nên mới hết lòng
Đặng cho con đến Đại-đồng khỏi than
Trẻ lo chi việc Dinh-hoàn
Dò theo Lý Đạo bảo toàn Chơn-Thân.

Con tua sớm tự xét lần
Thầy nay nhắn trẻ một lần nầy thôi
Ngày xưa con hứa mấy lời
Nên nay Thầy cũng trả lời cho hay.

Trước dầu biết lạc lầm sai
Dốc tu thì phải kíp quày chơn mau
Con hư Thầy có vui nào
Lòng đau dạ thắt, than vào thở ra.

Giúp lời Thầy cậy tay CA
Đừng đem thói bạc, bất hòa nghe LÊ
Con chừa nết cũ khen chê
Chưa thông thì học, đừng nghe sự xằng.

Lời sau tiếng trước dặn rành
Trẻ không nghe lọt, trẻ đành hại thân
Xưa nay Tiên Phật Thánh Thần
Một lòng chí kỉnh trọn phần Chơn-nhơn.

Giữ gìn không mẻ không sờn
Anh Linh Thần trọn, chẳng hờn giận ai
Nay con quyết chí theo Thầy
Phá mê chẳng đặng kiếp nầy phải sa;
Đông-tường Nam-bích Tây-hà
Bắc-sơn Trung-lập con ra ngã nào?

CA, con chịu khó nói cho LÊ nó nghe, rồi con hỏi nó coi Thầy họa bài đó có bằng nó hay không, có vừa ý hay không, có vui lòng nó hay không?

Thăng.

******************

62. BẤT TRI TẮC VẤN TRI HỒ

Ngày 24 tháng 11 annam 1939 (4 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con phải nói cho KỈNH nó nghe, trong bốn điều nó xin hỏi Thầy đó gọi là "bất tri tắc vấn" thì đã phải, song Thầy giải ra cho rành thì buộc nó phải làm cho y theo, đó mới gọi là chẳng uổng cái lời của nó hỏi cùng là công của Thầy chỉ ra, vì chữ "Bất tri tắc vấn cập tri hồ, tri hồ hành hồ, tri hành hiệp nhứt" đó là lời Thầy nhắc cho nó hay, sau đây Thầy giải nghĩa ra cho nó rõ trong bốn điều xin hỏi đó.

Câu thứ 1: "Thiên mạng vị chi tánh, xuất tánh vị chi Đạo", đó là tánh mạng song tu, nghĩa là tánh của Trời phú cho mỗi người ban sơ là sự sáng, nên mới biết học, biết hành. Song có học mà hành chưa đúng theo chỗ học đó nên nhà Phật gọi là "tu hành", Nho gọi là "học hành", Đạo gọi là "lý hành", thì trong đó thảy đều nói về một chỗ.

Còn Thầy dạy "tánh mạng song tu" thì phải nhớ lời nói sau thì buộc phải làm y. Cả hai đều gọi là tu cho trọn, nên chẳng dám nói dối cùng là không dám nói cho quá nhiều lời thì e làm không trọn. Hễ làm trọn thì tánh mạng thành. Tánh là của Trời ban, mạng là vưng lời làm cho trọn, đó là tùng mạng thuận Thiên, làm cho đặng gọi là hòa lý.

Câu thứ 2: "Hồn nương với Xác", là chỉ tắt ra cho dễ hiểu. Hồn là hơi thở, xác là cái thân đây, hoặc hồn là máu, còn xác là thịt xương, cả hai đều có riêng nhau đặng lo làm phận sự; còn về phần hành Đạo cho đúng Chơn-Lý; chỉ ra cơ thể, thì hồn là Hiệp-Thiên-Đài, xác là Cửu-Trùng-Đài, thì cũng phải nương nhau đặng dò theo cơ Tạo-Hóa.

Câu thứ 3: "Thầy đâu con đó", nghĩa là tâm thường nhớ lời Thầy dặn bề cư xử như thể lòng Trời. Đó là Thầy dạy đâu, con làm theo đó, nên gọi là theo Thầy.

Câu thứ 4: "Con đâu Thầy đó", nghĩa là cái xác nầy là cái xác của con nương nhờ Cha Mẹ của phàm mà tạo thành cơ thể; còn trong thì có một điểm Linh-Quang gọi là Hồn. Hễ cái xác thân nầy mỗi việc đều định-tâm mà xét, đó là chỗ hỏi Thầy, nên gọi là con làm tới đâu, hỏi Thầy tới đó, là chỗ hỏi lương-tâm định nhằm một lý, là buộc cho phải trọn lòng thương, mới gọi là Trời chung trong một là vậy đó. Làm được như các lời nói trên đây gọi là "tu tâm dưỡng tánh".


******************

63. TAM-TÙNG TỨ-ĐỨC

Ngày 26 tháng 6 annam 1938

-----o0o-----

Vưng lịnh Đức Sư-Tôn dạy sửa lại cho NGUƠN ở Sa-Đéc.

Bài dạy Tam-Tùng Tứ-Đức.

Thấp hèn cẩn thận khuê môn
Ráng nghe lời dạy bảo tồn Chơn-thân
Tam-Kỳ rộng mở Hồng-ân
Muốn nên Nữ-liệt, gắng công học hành.

Giữ câu chí kỉnh chí thành
Tam-Tùng Tứ-Đức tại mình đâu xa
Xử sao cho được ôn hòa
Mới là phải mặt con nhà Nữ-lưu.

Được vầy mới rạng mới vui
Gần ưa, xa mến tới lui tập tành
Mẹ Cha nghĩa trọng sanh thành
Tại gia Tùng Phụ phải rành thần hôn.

Bữa ăn giấc ngủ lo tròn
Trải tâm báo bổ sắc son một lòng
Xuất gia phận gái Nhị Tùng
Tiết trinh cho trọn, Đạo chồng mới vui.

Công cô tức nhược đền bồi
Hai bên cho trọn khỏi lời biến sanh
Chẳng may chồng thác đã đành
Thì lo vun quén cội lành mát êm.

Gia đình dạy dỗ cẩn nghiêm
Nên danh Sương-phụ, trọn niềm Tùng Tam
CÔNG là công nghệ phải làm
Vá may thêu dệt cho kham phận mình.

Rảnh rang ráng tập công trình
Học thêm chữ nghĩa đặng gìn giữ thân
NGÔN là lời nói có chừng
Chớ nên lêu lỏng, cũng đừng tự kiêu.

Nói ra trước phải độ điều
Bướm ong hoa nguyệt ít nhiều tại đây
DUNG là đi đứng thẳng ngay
Châu thân sạch sẽ chớ bày điểm tô.

Phải cho biết phận liễu bồ
Nết na cho vẹn, phải dò phải ngăn
HẠNH là giữ dạ trang bằng
Chớ nên tập tánh rộn ràng bôn chôn
Thấp hèn cẩn thận khuê môn
Ráng nghe lời dạy bảo tồn Chơn-thân.

Thăng.

******************

64. CỨU VỚT ĐỜI ĐẠO

Ngày 5 tháng 1 annam 1939

-----o0o-----

ĐƯỢC, con chấp bút đặng nghe Thầy cho bài "Cứu vớt Đời Đạo" đây, đặng viết ra mà Phổ-độ chúng-sanh. Đứa nào sớm tỉnh thì nghe theo, đứa nào quá mê thì chịu lấy.

THI

1.- Đời vì tục nên chìm nên đắm
Đạo chưa thông ứng cảm nên lìa
Tại vầy hai ngã phân chia
Đời sa bởi tục, Đạo lìa bởi mê.

2.- Cả hai thấy thảm thê chán ngán
Thầy đau lòng từ đoạn thon von
Cơ quan họa phước mất còn
Trời than Đất thở Phật buồn xiết bao.

3.- Trước Thầy chỉ Hoan Bi Thế Cuộc
Có đứa nào học thuộc hay chưa?
Phá mê tầm Đạo ngăn ngừa
Nữ ban khuyến hữu thượng thừa Đạo nguyên.

4.- Hoặc bài giải thiện duyên tư cách
Lý Vô-Vi giải thuyết khiếu huyền
Chỉ rành Đạo Tướng, Thể nguyên
Chơn-như Thiên-Đạo Thánh-hiền Phật Tiên.

5.- Hoặc lời của Thể-Liêng Tiên-Nữ
Với Phổ-Đà kinh tự phát minh
Chung-Ly, Phương-Sóc luận bình
Mỗi con Nam Nữ được rành bao nhiêu?

6.- Đó Thầy nhắc chưa nhiều cho lắm
Đây Thầy than sao dám cãi Thầy
Đạo Đời đều ở chung đây
Chia nhau là tục Luật Thầy khó qua.

7.- Kìa trước Án Ngọc-Tòa còn để
Luật Bình-Quân cân chế sớt trừ
Đứa nào dám chắc phước dư
Đứa nào còn tội ai trừ chế cho.

8.- Trước phải biết ai cho mình sống
Ai cầm cân mực gióng ngang bằng
Thác rồi ai độ siêu thăng
Ai hành căn bịnh trở trăn đêm ngày.

9.- Trong mỗi đứa hỏi ai làm đó?
Thì mới mong tránh chỗ tai nàn
Mơ màng quỷ vái Thần van
Mà quên Luật-cả thưởng ban tay Trời.

10.- Các con mỗi đều người ở thế
Sao chưa thông tạo thế là Trời
Xác thân hình dạng là người
Đứng đi cười nói có Trời dạy trong.

11.- Mỗi mỗi việc tại không ra có
Ấy là không, không đó là Trời
Tại sao lại dám nghịch Trời
Đứa nào có dạn trả lời Thầy nghe.

12.- x Tại nói chẳng dặt, chẳng dè
Ngó theo xác thịt chịu bề trầm luân
Nạn tai than thở tưng bừng
Trời cao Đất rộng mấy từng chở che.

13.- Khó bề dạy dỗ không nghe
Vì ưa gây cuộc đảng phe nhạo cười
Ngó qua Đời thảm cho Đời
Nhìn xem bên Đạo còn rời tánh tâm.

14.- Đại-bi Đại-lực không tầm
Duyên minh Đại-giác tưởng thầm rằng chơi
Thương người Đạo chuyển xây dời
Người không tuân mạng Luật Trời nào dung.

15.- Tưởng cho sung sướng đến cùng
Vẻ vang xác thịt tạm dùng là ngoan
Đạo Đời tại đó dở dang
Bước đi lỡ bước ngồi than phận mình.

16.- Mảng đua chen cuộc thế tình
Lại khoe sức mạnh chống kình Trời cao
Cạn sâu Đạo-lý phân hào
Ít ai rõ được khó vào đường tu.

17.- Tranh giành quyền lợi trí ngu
Mà quên mình chịu thất phu lâu rồi
Một đời miễn đặng thì thôi
Kể chi tội phước luân-hồi về sau.

18.- Tại không rành chỗ ảo bào
Phù du cõi tạm khác nào chợ mai
Mỗi con ráng học bài nầy
Học rồi sẽ thấy từ rày sắp lên.

Thăng.

******************

65. PHÁ TỤC

Ngày 18 tháng 10 năm Mậu-Dần 1938

-----o0o-----

Nầy các con Nam Nữ.

Những đứa nào có dự trong cuộc Vạn-Linh nghe Thầy hỏi đây mà tự xét nghe các con. Các con ôi! Kể từ ngày Thầy khai Đạo ra đến giờ, kể đà mấy muôn thế kỷ, nay Thầy chuyển lại Nam-Việt, tại xứ Tây-Ninh sau lần lần xây đến Kiên-Giang gầy ra Chơn-Lý mà đem ra đến Định-Tường, các con nghĩ sơ mấy đứa đó mà các con cũng đủ ngán cho các xác phàm nầy mà trong đó không có là chi, là dạy các con ráng tu đặng cứu lấy Linh-Hồn cho khỏi đọa.

Các con nhớ lại coi có phải vậy không? Nhưng từ đó đến giờ nhiều đứa chưa rõ thấu, nên phải bị bàn môn tả đạo nó bày mưu phỉnh gạt làm cho tốn của hao công, lại còn gây ra cho náo động trong việc trị an là khác, đứa thì lo thiêu đơn luyện hống, đứa thì bùa chú tàng phép ẩn thân, đứa thì hớp mặt trời nuốt mặt trăng, đứa thì tính xa vợ xa con mà lánh đường quan hệ; thiệt cả thảy cũng đều có công, song làm không trúng lý. Tại vậy mà nền Đạo không được vui là vậy đó, vậy các con phải nhớ lại cho kỹ rồi sẽ hay, chớ bôn chôn mà mang họa, rồi trở lại trách Thầy, Thầy đã nói với các con từ ngày nào chí ngày nào. Thầy cũng không cho bày dị đoan bùa chú, rối loạn quốc dân, bỏ nhà lìa tổ, hễ tới đâu Thầy dạy tới đó cho, đã biết vậy mà trước phải tánh tâm hiệp một kìa mới được; hiệp một là hiệp với Chơn: Chơn-tánh, Chơn-linh, Chơn-hồn, Chơn-thể, Chơn-như; có biết đủ, có hiểu cho rành, dầu làm chưa đặng song cũng tính sẽ làm, thì mới thấy đặng chỗ Linh-Hồn là huợt bác. Nay tuy các con đây phần đông chưa làm đặng như lời nói trên đó, chớ cũng có nghe, có biết, có hiểu chỗ lời Thầy nói, cũng tính sẽ làm như vậy nên Thầy mới lập ra ngày hội Vạn-Linh là ngày Tu-My đây, đặng cho đúng theo luật Thiên-Điều phán đoán.

Vậy mà các con phải nhớ rằng Linh-Hồn đó bấy lâu nó bị quẩn quanh theo phần vật dục của cái người cho nên đời phải tồi phong bại tục, nay Thầy lập Tam-Kỳ Phổ-Độ là độ rỗi Linh-Hồn. Vậy trong đó mỗi con phải đem chữ Linh mà nạp vào Tòa-Thánh. Thầy hỏi vậy có nhớ nó hay không, mỗi đứa trả lời trong Lương-tâm cho Thầy rõ.

Đây Thầy nói cạn cho các con nghe:

Cũng có đứa tính đem chữ Linh vào đây đặng nhờ Thầy dạy, còn đứa lại tính khác nữa, là nó tính theo theo ý riêng của nó, như bấy lâu đó; vậy Thầy hỏi mỗi đứa tính mừng như vậy có hạp với Thiên-lý hay không?

Thầy đã đem CA, ĐƯỢC; hai đứa ra làm biểu hiệu chung cho các con coi mà bắt chước, một đứa chẳng kể giàu sang mà hiếp bạn, một đứa chẳng lấy nể nghèo hèn mà được thế, cả hai đều vì Đạo mà quên mình đó là gương tươi tốt cho cả thế-gian đặng rọi chung cho sáng, nhưng mà Thầy xem rõ phần rọi chung thì ít, phần kiêu ngạo thì nhiều, Thầy hỏi vậy rồi mới làm sao cho ra đời Thuấn Nghiêu, làm sao cho rõ mặt tôi hiền, làm sao cho ra người Đạo-đức, rồi mấy tiếng bỏ tham, bỏ giận của đứa đó, làm đem nạp đó, nó có dính vào tâm hay không? Rồi chữ Linh của nó làm đem nạp đó, nó có Linh hay không.

Rủi mà gặp cơn day trở rồi lấy đâu mà chống cự cho vững vàng, vậy chẳng uổng công mình tu niệm hay sao? Đây là Thầy nói xa tỉ gần cho các con rõ đặng hồi tâm, tự xét mà lo liệu cho lâu dài chớ chỉ có nhớ chữ Linh đó là nhớ như vậy mới đúng, là nhớ từ ngày nào đến giờ, nhớ Thầy ung đúc mới có Linh-Hồn, ngày nay Thầy dạy đem về Tòa-Thánh là nơi sáng suốt vậy thì mình phải nhớ công lao đó đặng gìn giữ cái xác nầy cho tử tế, đặng ngày cùng cho hạp với Linh-Hồn, thì chẳng có chi lạ hơn là phải hết lòng thương Đạo, một dạ kỉnh thành là chung nhau đừng để rầy rà chích mích, giàu nhờ của, khó nhờ công, gặp đâu trợ đó, thì có lo chi là chẳng đặng vui vầy, mà lại đặng Linh-Hồn hiệp xác, các con mỗi đứa nghe rồi, tự xét cho rành như phải thì làm bằng không thì nghỉ. Thầy chẳng buộc đứa nào, đừng để ngày sau than thở, Thầy cũng sớm biết lòng của các con phần nhiều nói câu nầy: "Chừng nào chịu đọa sẽ hay chớ bây giờ tốn hao cực nhọc quá không thể chịu đặng". Lời nói vầy nghe qua dường sấm, tưởng đến lạnh lòng, là vì trong đó đã đành kêu án cho mình rồi thì trông chi cứu đặng.

Vậy ĐƯỢC, con phải giao hết cho Hội-Thánh đặng in ra cho nhiều, rồi nữa chỗ có Đạo-Tràng cũng nên đọc và phát cho Đạo biết, còn tại Tòa-Thánh thì đọc trong mỗi kỳ Đàn trước giờ nhóm nhau mà học Đạo, hoặc là dán tại Đông-Lang, Tây-Lang cho nhiều bổn, đặng nhiều đứa thấy cho có vui lòng, kẻo ngày sau nó trách.

LỜI DẶN

Hễ có nhóm điều chi về việc Đạo, thì đọc bài nầy trước rồi sau sẽ bày chuyện nhóm. Đạo-Tràng cũng vậy cứ đó làm hoài, chớ nên bỏ qua kỳ nào hết.

Thăng.

******************

66. CHƯƠNG TRÌNH BÁT-QUÁI-ĐÀI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 9 annam 1939 (7 giờ tối)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn, con phải nói cho năm Thiên-Sư hay tại Bát-Quái-Đài bề trong phải viết thêm mấy chữ như sau nầy:

Như

- Cửa Khảm thì viết chữ , chữ đen lót trắng.

- Cửa Ly viết chữ Ngọ, chữ đỏ lót xanh.

- Cửa Chấn thì viết chữ Mẹo, chữ xanh lót đen.

- Cửa Đoài thì viết chữ Dậu, chữ trắng lót vàng.

Còn bốn chữ như:

- Cửa Càn thì viết chữ Tuất màu vàng lót đỏ, chữ Hợi màu đen lót trắng.

- Cửa Cấn thì viết chữ Sửu màu vàng lót đỏ, chữ Dần màu xanh lót đen.

- Cửa Tốn thì viết chữ Thìn màu vàng lót đỏ, chữ Tỵ màu đỏ lót xanh.

- Cửa Khôn thì viết chữ Mùi màu vàng lót đỏ, chữ Thân màu trắng lót vàng.

Đó là Thập-nhị chi viết phía trong.

Còn Thập-can thì viết phía ngoài như:

- Cửa Chấn thì viết hai chữ Giáp-Ất màu xanh lót đen.

- Cửa Đoài thì viết hai chữ Canh-Tân màu trắng lót vàng.

- Cửa Ly thì viết hai chữ Bính-Đinh màu đỏ lót xanh.

- Cửa Khảm thì viết hai chữ Nhâm-Quý màu đen lót trắng.

Còn bốn chữ như: Càn, Cấn, Tốn, Khôn thì không có viết mấy chữ như vầy, chỉ có tại trung tim phải viết hai chữ Mậu-Kỷ chữ vàng lót đỏ.

Mỗi chữ phải làm bề vuông ba tấc tây, duy giấy màu cắt nét chữ cho trống, cứ theo lời dặn trên đó làm y rồi dán tại mấy chỗ dặn dưới đây như:

- Phía ngoài thì dán dưới mấy chỗ Lạc-Thơ, còn ở trong thì dán tại vòng cung mỗi cửa, có hai chữ Mậu-Kỷ thì phải dán chữ Mậu ở phía Đoài, đuôi chữ Kỷ ở phía cửa Chấn.

- Năm đứa nó phải nhóm Thời-Quân đặng chia nhau làm cho kịp ngày lễ Liên-Hoa đừng để trễ. Trong đó làm bằng chữ Hán, như chúng nó không rành, thì phải chỉ cho biết đặng làm y, đừng sửa đổi.

Vậy con giao lại cho CA, đặng CA giao lại cho năm đứa nó coi theo đó mà làm phận sự.

Thăng.

******************

67. HOAN BI THẾ CUỘC

Ngày 6 tháng 9 annam 1938 (4 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con chấp bút cho Thầy dạy con viết ra một bài gọi là: "HOAN BI THẾ CUỘC" đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu-Thiên-Đài mà phán xét các điều tội phước. Bài như vầy:

1.- Châu-Thiên Hiệp Trùng-Đài cao vọi
Thầy giáng lâm Đại-hội Chư-Thần
Xét rành tội phước cân phân
Căn lành kiếp đọa thưởng răn đủ điều.

2.- Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
Đứa thì ngày trước dày công
Có tu mà lại có trong chuyện xằng.

3.- Có đứa muốn siêng năng làm phải
Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
Vì mê ma quỷ lả lơi
Tại vầy nên chẳng biết Trời là đâu.

4.- Phần quyết chí tu thân lại ít
Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
Thầy xem thấy rõ đủ điều
Các nơi Động-phủ thảy đều về tâu.

5.- Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
Cả thảy nhìn vào án Ngũ-lôi
Cơ quan Máy-Tạo sửa Đời
Luân qua chuyển lại đổi dời hồn thay.

6.- Làm như vậy kịp ngày giờ phán
Dựng nên Đời bỏ oán theo hiền
Tuần huờn tiên hậu Nhị Thiên
Đồng trung qui tại Châu-Thiên một bầu.

7.- Ai sớm biết hồi đầu chung hiệp
Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
Nếu còn lòng dạ tư riêng
Đạo chưa tới Đạo thấy liền yêu ma.

8.- Chớ lầm tưởng người ta là vậy
Người ta nhờ tin cậy chủ nhà
Chủ nhà chẳng ở đâu xa
Là nơi Thầy định gọi là Chủ-Ông.

9.- Chủ-Ông đó là không đặng thấy
Còn thấy đây là thấy cái Người
Cái Người nó ở phần đời
Đời nên nhờ chỗ sợ lời Chủ-Ông.

10.- Ta là chỗ có không còn mất
Ta lo gìn sự thật cho Người
Cái Người nương đó phá đời
Cái Ta lại cậy cái Người là đây.

11.- Thầy chỉ tắt khoản nầy cho rõ
Trời có mây, Đời có Ta Người
Trời cao Đất rộng muôn đời
Đời quên Trời Đất hại người nào hay.

12.- Trời cao vọi mây bay từng dưới
Người đối Ta, mây đối với Trời
Ta đây cũng tỉ như Trời
Người như mây phủ cho đời lập công.

13.- Người phải rõ phải thông mây gió
Mây gió là chỉ chỗ sang hèn
Đủ màu xanh đỏ trắng đen
Là nơi màu sắc tục quen tranh giành.

14.- Chẳng lo hiệp lập thành Chơn-Lý
Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
Đọa đày khổ hạnh liên miên
Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy.

15.- Người Ta hiệp là thương nòi giống
Chẳng giết nhau đặng sống lâu dài
Người đây Ta đó có Thầy
Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên xa.

16.- Người muốn hiệp còn Ta không muốn
Là cái Ta nó chống lại Người
Ta nghe Người cãi viện lời
Đó là tại chỗ cái Người cự Ta.

17.- Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẵn
Mà chưa xong một khoản Ta Người
Chê bai cười nói lả lơi
Vì vui, vì giận quên Người, quên Ta.

18.- Năm nầy đúng kỳ ba Tam-Tiểu
Cả thế-gian còn thiếu đoạn nầy
Tranh giành ỷ giỏi khoe hay
Mà quên trong đó tao mầy hại nhau.

19.- Tại không nhớ mầy tao một giống
Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
Đã đành máu chảy thây phơi
Nhìn coi thấy rõ Đạo người còn chi.

20.- Thầy chép để "HOAN BI THẾ CUỘC"
Vui với buồn lặn hụp sông mê
Đứa kêu đứa rủ đề huề
Đứa sa xuống trước đứa kề lặn sau.

21.- Sóng cuồn cuộn đua nhau hỉ hả
Chừng mỏn hơi thịt rã xương chìm
Một lằn nước đục đỏ thêm
Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà.

22.- Chác tội lỗi gầy ra quá ngán
Luật Chí-công xử đoán thêm buồn
Tiếc gì mà chẳng chịu buông
Buộc đeo cho nặng trầm luân lại mừng.

23.- Thầy xem xét oan ưng các lẽ
Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
Ngọc-Kinh là cửa Thiên-Đàng
Ít người dám đến vén màn lạy Cha.

24.- Lại ưa đến Trần-sa Địa-ngục
Kẻ đuổi xô mạ nhục lại gần
Đổ thừa thân hữu khổ thân
Khổ thân là chỗ ân cần học tu.

25.- Vì không rõ chữ ngu chữ trí
Tại không thông chữ "lý" chữ "quyền"
Đổ thừa viện lẽ ý riêng
Đặng cho vào sổ bìa đen cho nhiều.

Thăng.

******************

68. Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới

Ngày 22 tháng 2 annam 1938 (7 giờ tối)

-----o0o-----

Ớ nầy các con, ráng nghe Thầy dạy đây mà tự hối nghe các con:

1.- Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới
Thầy hết lòng trông đợi các con
Lớn lo tự đại tự tôn
Nhỏ thì khoe giỏi khoe khôn cãi Trời.

2.- Xúm nhau nói nhiều lời phạm thượng
Thầy quở răn lại cượng chẳng tuân
Đua nhau lừng lẫy vui mừng
Vui rồi đến khóc con đừng trách Cha.

3.- Lời Thầy phán trước ba năm đó
Đến ngày nay coi có hay không?
Các con chẳng chịu ghi lòng
Cho nên nghi nghị sợ phòng quỷ ma.

4.- Các con ráng nhìn Cha cho kỹ
Cha với loài ma quỷ khác xa
Cha lo dạy trẻ hiệp hòa
Quỷ ma nó dạy người ta chia lìa.

5.- Con nào biết Tam-Kỳ Đạo chuyển
Con nào thông cơ biến tùy thì
Con nào cách-vật trí-tri
Các con được vậy khỏi nghi sợ lầm.

6.- Các trẻ chẳng để tâm vào đó
Làm sao cho biết rõ thiệt Thầy
Tu sao hơ hỏng quá vầy
Tu sao mười mấy năm chầy còn ngu.

7.- Vậy cũng tiếng là tu Chơn-Lý
Chơn-Lý sao xét lý không thông
Nhìn con Thầy rất đau lòng
Nhìn con Thầy thảm vô cùng cho con.

8.- Con chẳng hổ với non với nước
Con sao đành biếng nhớt vậy con?
Thầy thương hết sức chiều lòn
Sao con cứ việc méo tròn khen chê.

9.- Thầy muốn trẻ sớm về kẻo trễ
Kêu con hoài con kể ra chi
Quẩn quanh theo lũ níu trì
Thoát ra chẳng khỏi A-tỳ phải sa.

10.- Nay Thầy hỏi riêng CA với PHẤN
Phận tu hành còn xứng đáng chưa
Xét coi Cửu-phẩm Tam-thừa
Hai con có xứng phẩm thừa nào không?

11.- Trẻ chớ tưởng hao công tốn của
Mà thở than hằng bữa hằng ngày
Học hành khoe giỏi nói hay
Mặn chay chay mặn lúc nầy ra sao?

12.- Châu-Thiên đó Đài cao nêu vọi
Phải xét coi phước tội cho rành
Khắp cùng Nam Nữ chúng-sanh
Than phiền vì đó Thầy sanh sự buồn.

13.- Đạo Thầy dạy đúc khuôn Chơn-Lý
Sao hai con lấy lý làm quyền
Vậy nên trật tự đảo điên
Con quên trong lúc An-Thiên dặn dò.

14.- Giao làm chủ chiếc đò Chơn-Lý
Mấy năm rồi Chơn-Lý ra sao?
Xét coi đó tại chỗ nào
Thì Thầy lui tới ra vào với con.

15.- Thầy hỏi đó hai con ráng xét
Xét cho rành mới hết hồ nghi
Khuyên đừng chích mích nhau chi
Muốn cho hòa hiệp chớ khi dễ người.

16.- Thầy dạy Đạo tùy thời nương cuộc
Thầy sửa Đời do luật Chí-công
Con ngu, con dại thương đồng
Tội răn, phước thưởng, luật không tư vì.

17.- Hai con ráng nghiệm suy cho đúng
Đừng có lòng rẻ rúng nghe con
Hai con lo liệu không tròn
Làm sao còn có xác hồn tại đây.

18.- Nếu chẳng vậy chỗ nầy tiêu hủy
Ấy là điều hữu thỉ vô chung
Việc hư lúc trước tại PHÙNG
Ngày nay phá hoại tội đồng hai con.

19.- Thầy thường nói hai con hết sức
Việc tu hành có đức mới nên
Đài cao núi dựng làm nền
Là bền tâm chí như nền núi cao.

Thăng.

*********

HẾT QUYỂN 3

TRỌN BỘ 3 QUYỂN