Kính,

Lời cùng Chư Quý-vị Chức-sắc Thiên-phong lưỡng phái và Thiện Nam Tín Nữ hay rằng:

Vưng theo Thánh-giáo của Thầy dạy năm Mậu-Dần 1938, Bàn-Cai-Quản Tòa-Thánh Định-Tường chọn lựa các bài Thánh-Huấn sau nầy sắp một quyển tựa đề “LUẬT BÌNH-QUÂN” để giải mê phá tục, cầu cho Đời đặng mở mang thoát khỏi vòng cúi phục theo bọn quỷ ma.

Vậy trong đó anh em chị em ai có tuân thì làm bằng không chúng tôi không dám ép, dầu Đạo dầu Đời hai bên liệu mà xét lấy, phải cùng không phải trong hai chữ “BÌNH-QUÂN” đó là đủ, chớ nên ỷ thế cậy tài, buông lời lấn lướt mà sanh chuyện bất hòa, rồi thành ra Ta Người chia rẽ.

Đó là chúng tôi vì bổn phận phải làm cũng có điều bổ ích, song tại lòng người tin với không tin nên chúng tôi tỏ lời nói trước.

Nay kính
Ngày 15 tháng 4 âm-lịch 1955 (Ất-Mùi niên)
BÀN-CAI-QUẢN

******************

THÁNH TỰA

CHƯƠNG I

BUỘC PHẢI ĐỌC “LUẬT BÌNH-QUÂN”

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 12 âm-lịch 1943 (3 giờ khuya)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con biểu CA nó in Thánh-Giáo nầy đặng gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng. Còn tại Thánh-Tòa đây thì đọc cho Đạo nghe chung cùng phát ra cho Đạo và dán Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi người coi rõ. Là kể từ ngày nay sắp lên buộc Chức-sắc, Đạo-Hữu hễ ai biết chữ thì phải coi LUẬT BÌNH-QUÂN, nếu không hiểu thì được phép hỏi Thầy chỉ thêm cho.

Tại văn phòng của Chức-sắc làm việc tại Tòa-thánh đây phải có luật đó, đặng Chức-sắc giữ gìn coi cho kỹ, dầu phái Nữ cũng vậy; coi từ tờ, từ trương, từ đầu chí đuôi, văn xuôi văn vần đừng cho bỏ sót.

Đó là Thầy buộc đặng nhớ mà tu hành theo Đạo Lý, nếu ai có nghe mà không tuân thì chư Thần ghi tội, sau đừng than thở.

******************

LUẬT BÌNH-QUÂN

HOAN BI THẾ CUỘC

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 9 âm-lịch 1938 (16 giờ)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con chấp bút đặng Thầy dạy con viết ra một bài gọi là “HOAN BI THẾ CUỘC” đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu-Thiên-Đài mà phán xét các điều tội phước.

THI

1.- Châu-Thiên, Hiệp, Trùng-Đài cao vọi
            Thầy giáng lâm đại hội Chư-Thần
                    Xét rành tội phước cân phân
          Căn lành kiếp đọa thưởng răn đủ điều.

  2.-   Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
                Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
                Đứa thì ngày trước dày công
      Có tu mà lại có trông chuyện xằng.

3.-  Có đứa muốn siêng năng làm phải
              Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
                  Vì mê ma quỷ lả lơi
      Tại vầy nên chẳng biết Trời là đâu???

     4.-     Phần quyết tính chơn tu thì ít
        Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
          Thầy xem thấy rõ đủ điều
      Các nơi Động Phủ thảy đều về tâu.

  5.-   Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
            Cả thảy nhìn vào án Ngũ-Lôi
            Cơ quan máy tạo sửa Đời
    Luân qua chuyển lại đổi dời Hồn thay.         

6.-   Làm như vậy kịp ngày giờ phán
            Dựng nên Đời bỏ oán theo Hiền
            Tuần huờn Tiên Hậu Nhị-Thiên
    Đồng chung qui lại Châu-Thiên một bầu.

   7.-  Ai sớm biết hồi đầu sum hiệp
              Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
                  Nếu còn lòng dạ tư riêng
      Đạo chưa tới Đạo thấy liền yêu ma.

  8.-   Chớ lầm tưởng người ta là vậy
    Người ta nhờ tin cậy chủ nhà
        Chủ nhà chẳng ở đâu xa?
Là nơi Thầy định gọi là Chủ-Ông.

      9.-    Chủ-Ông đó là không đặng thấy
      Còn thấy đây là thấy cái người
        Cái người nó ở phần Đời
Đời nên nhờ chỗ sợ lời Chủ-Ông.

   10.-  Ta là chỗ có không còn mất
        Ta lo gìn sự thật cho Người
                Cái Người nương đó phá Đời
Cái Ta lại cậy cái Người là đây.

   11.-   Thầy chỉ tắt khoản nầy cho rõ
              Trời có mây Đời có Ta Người
Trời cao Đất rộng muôn đời
        Đời quên Trời Đất hại người nào hay.

  12.-      Trời cao vọi mây bay từng dưới
        Người đối Ta, mây đối với Trời
              Ta đây cũng tỷ như Trời
  Người như mây phủ cho đời lập công.

    13.-  Người phải rõ phải thông mây gió
            Mây gió là chỉ chỗ sang hèn
                Đủ màu xanh đỏ trắng đen
      Là nơi màu sắc tục quen tranh giành.

    14.-  Chẳng lo hiệp lập thành Chơn-Lý
            Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
              Đọa đày khổ hạnh liên miên
      Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy.

     15.-    Người Ta hiệp là thương nòi giống
          Chẳng giết nhau đặng sống lâu dài
                Người đây Ta đó có Thầy
    Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên xa.

    16.-    Người muốn hiệp còn Ta không muốn
              Là cái Ta nó chống lại Người
                    Ta nghe Người cãi viện lời
      Đó là tại chỗ cái Người cự Ta.                                                         

     17.-    Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẵn
              Mà chưa xong một khoản Ta Người
                    Chê bai cười nói lả lơi
  Vì vui vì giận quên Người quên Ta.

18.-   Năm nầy đúng Kỳ-Ba Tam-Tiểu
            Cả thế gian còn thiếu đoạn nầy
              Tranh giành ỷ giỏi khoe hay
      Mà quên trong đó tao mầy hại nhau.

19.-    Tại không nhớ mầy tao một giống
            Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
                Đã đành máu chảy thây phơi 
      Nhìn coi thấy rõ Đạo người còn chi.

   20.-   Thầy chép để "HOAN BI THẾ CUỘC"
          Vui với buồn lặn hụp sông mê
Đứa kêu, đứa rủ đề huề
      Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau.

   21.-    Sóng cuồn cuộn đua nhau hỷ hả
          Chừng mỏn hơi thịt rã xương chìm
              Một lằn nước đục đỏ thêm
    Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà.

    22.-   Chác tội lỗi gây ra quá ngán
              Luật Chí-Công xử đoán thêm buồn
                  Tiếc gì mà chẳng chịu buông
        Buộc đeo cho nặng trầm luân lại mừng.              

   23.- Thầy xem xét oan ưng các lẽ
            Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
                Ngọc-Kinh là cửa Thiên-Đàng
          Ít người dám đến vén màn lạy Cha.

24.-   Lại ưa đến trần sa Địa-Ngục
        Kẻ đuổi xô mạ nhục lại gần
            Đổ thừa thân hữu khổ thân
      Khổ thân là chỗ ân cần học tu.

25.-    Vì không rõ chữ Ngu chữ Trí
          Tại không thông chữ Lý chữ Quyền
                Đổ thừa viện lẽ ý riêng
  Đặng cho vào sổ bìa đen cho nhiều.

******************

CỨU VỚT ĐẠO ĐỜI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng giêng âm-lịch 1939 (năm Kỷ-Mão)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con chấp bút đặng nghe Thầy cho bài “CỨU VỚT ĐẠO ĐỜI” đây, đặng viết ra mà phổ-độ chúng sanh, đứa nào sớm tỉnh thì nghe theo, đứa nào quá mê thì chịu lấy.

THI

1.- Đời vì tục nên chìm nên đắm
                Đạo chưa thông ứng cảm nên lìa
                  Tại vầy hai ngã phân chia
        Đời xa bởi tục, Đạo lìa bởi mê.

     2.-     Cả hai thấy thảm thê chán ngán
                Thầy đau lòng từ đoạn thon von
          Cơ quan họa phước mất còn
        Trời than, Đất thở, Phật buồn xiết chi.

3.-    Trước Thầy chỉ Hoan Bi Thế Cuộc
            Có đứa nào học thuộc hay chưa?
          Phá Mê Tầm Đạo ngăn ngừa
Nữ Ban Khuyến Hữu Thượng-Thừa Đạo-Nguyên.

4.-    Hoặc bài giải Thiện-Duyên Tư-Cách
          Lý Vô-Vi giải thuyết Khiếu Huyền
              Chỉ rành Đạo tướng thể nguyên
      Chơn-Như Thiên-Đạo Thánh, Hiền, Phật, Tiên.

     5.-     Hoặc lời của Thể-Liêng Tiên-Nữ
              Với Phổ-Đà kinh tự Phát-Minh
                    Chung-Ly Phương-Sóc luận bình
        Mỗi con nam nữ được rành bao nhiêu?

   6.-    Đó Thầy nhắc chưa nhiều cho lắm
            Đây Thầy than sao dám cãi Thầy?
              Đạo Đời đều ở chung đây
Chia nhau là tục Luật Thầy khó qua.

7.-     Kìa trước án Ngọc-Tòa còn để
“Luật Bình-Quân” cân chế sớt trừ 
Đứa nào dám chắc phước dư
Đứa nào còn tội ai trừ chế cho???

8.-    Trước phải biết ai cho mình sống?
Ai cầm cân mực gióng ngang bằng?
          Thác rồi ai độ siêu thăng?
Ai hành căn bịnh trở trăn đêm ngày?

9.-     Trong mỗi đứa hỏi ai làm đó?
        Thì mới mong tránh chỗ tai nàn
          Mơ màng quỷ vái Thần van
Mà quên luật cả thưởng ban tay Trời.

10.-  Mỗi con mỗi đều người ở thế
        Sao chưa thông tạo thế là Trời
              Xác thân hình dạng là người
      Đứng đi cười nói có Trời dạy trong.

11.-      Mỗi mỗi việc tại không ra có
          Ấy là không không đó là Trời
        Tại sao lại dám nghịch Trời?
    Đứa nào có dạn trả lời Thầy nghe.

    12.- x Tại nơi chẳng dặt chẳng dè
        Ngó theo xác thịt chịu bề trầm luân
              Nạn tai than thở tưng bừng
    Trời cao Đất rộng mấy từng chở che.

13.- Khó bề dạy dỗ không nghe
      Vì ưa gây cuộc đảng phe nhạo cười                                           
Ngó qua Đời thảm cho Đời
Nhìn xem bên Đạo còn rời Tánh Tâm.

14.- Đại-Bi Đại-Lực không tầm
      Viên-Minh Đại-Giác tưởng lầm rằng chơi
        Thương người Đạo chuyển xây dời
  Người không tuân mạng Luật Trời nào dung.

  15.- Tưởng cho sung sướng đến cùng
      Vẻ vang xác thịt tạm dùng là ngoan
            Đạo Đời tại đó dở dang
      Bước đi lỡ bước ngồi than phận mình.

16.-     Mảng đua chen cuộc thế tình
            Lại khoe sức mạnh chống kình Trời cao
            Cạn sâu Đạo-Lý phân hào
      Ít ai rõ được khó vào đường Tu.

17.-  Tranh giành quyền lợi trí ngu
Mà quên mình chịu thất phu lâu rồi
              Một đời miễn đặng thì thôi
Kể chi họa phước Luân-Hồi về sau.

18.- Tại không rành chỗ ảo bào
Phù du cõi tạm khác nào chợ mai
Mỗi con ráng học bài nầy
Học rồi sẽ thấy từ rày sắp lên.

Thăng.

******************

TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO VỀ ĐỜI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 5 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Nầy các con, từ Nam chí Nữ, từ trẻ đến già, mỗi đứa thảy đều có một cái chí tư tưởng riêng nhau, là một cái tư tưởng về Đạo, về Đời, tuy riêng chớ không ngoài hai lẽ.          

Vậy mỗi đứa có biết hai lẽ đó gốc nó ở tại đâu hay không? Nếu các con không biết rồi cái tư tưởng đó nó sẽ kết quả vào đâu?

Đây Thầy trước hỏi thử mỗi con, đặng mỗi đứa đọc đến đoạn nầy rồi trầm ngâm suy xét trong một ít lời rồi sau sẽ coi thêm lời Thầy nói sau đây cho rõ, coi mình sai lầm hay là Trời không thương mà bỏ hủy???      

Các con ôi! Cái nạn vô minh nó cũng ở trong vòng mê tín. Cái tục hủ tệ nó cũng ở chỗ dị đoan, mà mỗi đứa lại ưa đến đó mà vùi thân, vùi thể!!!        

Còn Thầy lập Đạo ra cứu  Đời, giải rành Tiên tục, chỉ rõ thiệt hư, nên mới lập vị Tam-Tôn tại Thánh-Tòa cho mỗi con coi lấy đó mà bỏ lần điều tục, xa tránh dị đoan, một là mình khỏi mang chứng bịnh u mê, hai nữa là được rõ mình nhờ nơi đâu mà tạo thành Đạo-Lý? Nếu Đạo-Lý tạo thành thì có chi qua nổi? thì cái tư tưởng của mỗi con đó nó cũng không ngoài chủ nghĩa Tam-Tôn, mà không có Thầy thì Tam-Tôn không vững, tại bấy lâu Thầy để cho các con lấy trí phàm mà làm ra đặng khoe tài hay học giỏi, sức mạnh qua Trời, nên Thầy không nói đến. Nay đến thời kỳ Thầy ra cứu độ, theo lẽ thì mỗi đứa phải hết lòng kính mến Tam-Tôn, vậy mới gọi con người nơi thế hạ, chớ có đâu tư tưởng riêng thì muốn, mà sự hảo hiệp lại không, rồi các con mới làm thế nào mà tạo thành Đạo-Lý? Ngày nào cho lánh khỏi Đại-Đồng, rồi thành ra cái tư tưởng đó nó trở lại hại các con, thì cũng không ngoài Đời với Đạo, tại đó mà Thầy đau lòng xót dạ chẳng nỡ ngồi coi, nên mới hết lòng lo cứu độ. Thầy nói cạn lời đây chẳng phải Thầy quyết kể ơn với các con, đó là Thầy quyết giải thoát cho các con đó, đứa nào muốn ra cho khỏi thì tuân theo, đứa nào muốn bước vào thêm thì đi càn vào đó; Thầy dặn trước chừng đến đỗi đừng có kêu Trời cho uổng tiếng; cứ kêu lấy cái khôn, cái mạnh, cái dữ, cái hay của mỗi đứa nào có bấy lâu đặng để mà chống Trời vọc nước đó, thì cứ vậy kêu la, coi nó có đó mà cứu các con hay không? Chớ phận sự của Thầy tới đây không còn chỗ nói nữa.

Các con mỗi đứa thường hay nói hai chữ Tu-Thân, Tề-Gia bình thiên hạ, nói nghe thì có mà hiểu lý thì chưa, đó là lời sáo ngữ ăn cắp của người nói nghe cho rộn, rồi lời nói đó nó trở lại hại mình là tại sao? Là tại không biết lý mà mở miệng xưng hô đặng cầu danh thủ lợi, thì tránh sao cho khỏi cái tội nói bướng gạt người, nên phải bị hại là vậy đó. Theo lẽ mỗi đứa phải bớt lần cái bịnh nói môi, để công đó coi Thánh-Huấn Chơn-Lý của Thầy đặng lưu tâm mà sửa lần điều tục, bỏ bớt sự tham, đừng chia phe đảng, hòa nhau như một, giữ trọn lòng thương, thì có chi là hơn nữa.                                                                   

Các con ôi! Cái giàu sang của mỗi con ở thế hạ nầy không biết tới đâu mà phỉ tình mỗi đứa, cái nghèo khổ không biết hạng nào là cùng? Chỉ có cái Đạo-Đức là một thú vui riêng hơn hết, cái vui riêng đó nó sẽ thấy chán chường mà sao các con không bắt chước? Là nơi địa vị Tam-Tôn đó, các con có thấy không?

Thầy nói đây ít đứa chịu nghe, dầu có nghe thì cũng nghe vị lòng rồi bỏ, tại vậy mà các con ngày đêm lao khổ, đắm đuối sông trần, đứa leo, đứa lội, đứa nổi, đứa chìm, lặn hụp loi ngoi giống hình tợ cá ham mừng nước. Tại đó mà phải ở nơi chậu, nhốt ở kho đặng chờ ngày đem thịt xương ra xẻ đãi đằng cho khách trần ăn, rồi kẻ khen ngon người chê lạt, mà quên rằng cũng một giống thịt xương, xẻ ra từng miếng, miệng ăn mắt ngó mà sao chẳng cảm lòng thương, lại nỡ đành chê khen chi vậy??         

Ôi Đời quá tham, mà lắm lúc Đạo mê tín nên chịu sai lầm, cả hai làm cho náo động Đất Trời, Tiên Phật thảm thiết, kẻ dụng thế nầy người lo cách khác đặng can gián nhủ khuyên, rốt cuộc cũng còn mê còn đắm.          

Nay Thầy quyết dựng lại đời Thượng-cổ, nên mới lập vị Tam-Tôn, nếu con nào sớm biết xét mình thì mau kíp thoát thân đặng qui hồi cựu vị. Còn con nào chẳng chịu Thầy cũng vui cho, chớ trong vòng Tạo-Hóa có lẽ nào các con chạy ra khỏi đặng hay sao???    

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: phận con làm chủ Tam-Hồn thì cứ vậy lo tròn, chớ nên than phiền chi cả. Còn bài nầy con biểu CA nó để vào mặt Đuốc-Chơn-Lý mùa Hạ nầy đặng chúng sanh coi cho rõ.

Thăng.

******************

KÌA CƠ HỌA PHƯỚC, NỌ BÁNH LUÂN-HỒI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 7 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Hiện nay Chơn-Lý chẳng đặng vững vàng, con có biết trong đó tại sao hay không ?             

- Bạch: Con không hiểu vì con còn phàm, cúi xin Thầy chỉ dạy              

- Nầy con, từ ngày Thầy đem con ra hành Đạo đến giờ trong mỗi tháng, ngày giờ, Thầy thường theo con từ bước, nhắc con từ lời, đặng kềm thúc con cho vững vàng bước Đạo.

Lời nói cho xuôi, đó là Thầy lấy lòng Từ-Bi mà thương đồng cả thảy, đặng cho mối Đạo mở mang, một ngày một rộng, cho chúng sanh dễ bề qui hướng, ấy có phải là một sự sống để cứu cho Đời không? Đã biết vậy là phải rồi, mà thảm thay trong phần đông đó, đã theo Chơn-Lý mà chưa được một màu, đứa trắng đứa đen, đứa vầy đứa khác, trong chỗ tin mà chưa Thiệt Thường Tin, đứa tin theo là phải, đứa thì nói là nhầm, đứa thì cho là trúng, đứa thì nói là hay, đứa thì khen là giỏi, nói thì có nói mà làm thiệt không có làm, như thường thì không nhớ mà hỏi ra thì trong chỗ đó, nào là giỏi, nào là hay, nào là nhầm, nào là trúng, nào là phải v.v… thì thảy đều chưa có đứa nào đặc biệt vào đâu cho trọn cả, tại điều đó nên Chơn-Lý thì có đông mà thiệt hành thì còn thiếu, lớn cũng chưa rành phận lớn, nhỏ cũng chưa xong, mỗi đứa đều có tật ngó chừng nhau mà sanh nạnh.               

Đây Thầy tỷ dụ cho chúng nó nghe: Đạo của Thầy là một phương thuốc cứu sống Thiêng-Liêng cho cả thảy, mà trong cái sự cứu sống đó nó ở chung trong phần đông đó, muốn cho đặng cứu sống với nhau, thì phải ráng lo, nghe cho nhằm, làm cho giống, nói cho y, cho nhằm mà điều độ, cũng như có bịnh thì phải lo chạy thuốc, đặng cứu nhau, hễ có thuốc rồi thì phải lo chia nhau mà cứu cấp, trong chỗ chia đó đã sẵn có Thầy chỉ cho, chúng nó chỉ có ra công phát thuốc hay là uống thuốc mà thôi, uống thuốc đặng chi? Có phải là đặng sống hay không? Sống đặng chi? Có phải là sống đặng hưởng cho trọn một kiếp đời tại thế đây không? Biết vậy là phải rồi, mà còn chưa chịu uống, chưa chịu chia nhau mà tế độ, cứ lo húng hính, cãi thấp cãi cao, phân ngôi giành phẩm, mà đành quên rằng Đạo-Đức độ sanh tại đó, mà thiệt hành chưa đúng là vậy đó, nếu thiệt hành chưa đúng thì làm sao cho được vững vàng? Nếu không được vững vàng rồi chúng nó mới sao đây? Có hại hay không? Có được vui vẻ không? Rồi chừng đó trách ai?                 

Thầy thường răn chúng nó: Kìa cơ họa phước, nọ bánh Luân-Hồi, trong mỗi ngày thường ở quẩn quanh theo đường danh lợi, mà nhấp nhem cho khách mơ màng chưa tỉnh đó. Tại vậy nên Thầy quyết giáng thế kỳ nầy phải dùng Hàng-Long diệu bút, mượn xác độ đời, đặng thức tỉnh cho mau mà tránh cho khỏi cái nạn kêu Trời không dứt đó. Than ôi! biết kêu Trời mà không biết sợ Trời, thì chẳng khác nào biết mình đây là có bịnh với nhau, mà đã sẵn có Thầy, không lo uống thuốc thì trông chi lành bịnh đặng? Ông Thầy đó có thế nào đem thuốc đổ cho người bịnh đặng không? Đã vậy mà đến đỗi khốn cùng rồi cũng trách ông Thầy sao không cứu??? Trách đó là trách ai? Phải hay quấy? Nhầm hay không nhầm? Đã đành đứa đó chịu khốn rồi, còn đứa chưa khốn đây sao không lo tự hối, để chờ đến đó rồi kêu trách thở than như vậy nữa hay sao?        

Thiệt là quá thảm!!! đèn khêu dầu cạn, người ngủ im lìm, trống đánh chuông rung, mặc tình du hí, tưởng thầm rằng sẵn đèn dễ ngủ, chuông rung êm tai, ngủ cho êm, ngao du cho toại chí, mà chưa hay rằng Trời sáng, ngủ hoài phải trễ ngày giờ, không ai làm mà nuôi cho mình độ nhựt, ngao du cho thong thả mà quên rằng xa cách cửa nhà, Thầy hỏi vậy rồi chừng quá giấc, thức dậy rồi có biết đói hay không? Chừng hết sức chơi rồi giựt mình ngó lại có ngán hay không? Ngán thì đã đành, ngặt vì không nơi nương dựa, rồi mới liệu sao đây? Chừng ấy cũng có một tiếng kêu Trời là trước hết, kêu cho lớn, thở cho dài, rốt cuộc ngồi khoanh nằm lăn theo đó. Ôi! Trời đâu cứu kịp, Đất chở không kham, người thiện từ ngó vào đó càng thêm thảm nữa, người nầy là ai? Người đó là ai? Kìa trên Trời, nọ dưới Đất, chen mà chôn xác, lấn đặng giam hồn, luật Vô-Tư khó bề cứu chữa.        

Trời còn thì vẫn còn Chơn-Lý, mà muốn cho nhơn loại được an nhàn, nên Thầy hối thúc cùng nhau ráng mà chung lo cho vững vàng Chơn-Lý, là một phương thuốc độ chung, chiếc thuyền rước cả, nếu không đồng tâm hiệp chí mà để cho Chơn-Lý đến đỗi xây vần là đến luật Vô-Tư hành phạt rồi mới liệu sao???

Trời thì lo lập Đạo, mà người trong Đạo làm chưa được y theo lời của Trời, Đạo để cứu Đời mà Đời chưa tin Đạo, cả hai đều không hạp rồi làm sao cho đặng hóa sanh? Nếu chẳng hóa sanh thì cũng phải có hồi tiêu diệt, tại vậy nên Thầy phải cho con trở về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi mà tịnh dưỡng, đặng Thầy lo ung đúc Tinh-Thần, đặng một ngày kia sẽ có cần dùng việc khác.    

Vậy con biểu CA nó in bài nầy ra cho khá đặng gởi đi các chỗ trong Đạo, đặng tường mà xét mình cho sớm.

Thăng.

******************

NHỜ ĐÂU MÀ ĐƯỢC NO ẤM Ở YÊN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 4 âm-lịch 1941 (4 giờ chiều)

-------o0o-------

Nầy các con chung cả trong một cõi trần đây, dầu cho Đạo hay là Đời, cũng là một cái thân hình như nhau cả.

Vậy mỗi con ráng suy nghĩ lại cho cùng coi cái thân đó nó được no ấm ở yên, Thầy hỏi lại coi tại đâu mà được vậy? Chắc phần nhiều trả lời là tại cái khôn, cái giỏi, cái hay, cái thế thần mưu sự mà ra đó. Nói vậy Thầy cũng cho là phải đi, là nhằm đi, vì Thầy không hơi nào mà đối khẩu với phần nhiều nói như lời đó.

Đây Thầy hỏi cái phần ít, mà chịu làm thinh, hay là biết trong đó có ai bày ra mà có, thì ráng nghe Thầy trả lời đây: Hiện nay nhiều chỗ thảm khổ, nhiều chỗ tai nàn, đói cơm khát nước, chết sống không chừng. Thầy hỏi vậy cái khôn, cái giỏi, cái hay, cái thế thần mưu sự đó sao không thấy đem ra đặng làm cho hết các điều ghê gớm đó? Đó là lời Thầy nói cho mỗi đứa dại khờ, chịu mình quê mà nghe lời Đạo-Đức, chớ cái bọn ngỗ ngang thì Thầy có nói chi tới nữa.

Đây Thầy nói cho mỗi con nào hồi tâm vì sợ khổ, thì ráng xét cho rành, cái hột giống Thần-Nông của Thầy gieo ra tại miền Nam-Việt, là giống để nuôi cho vững vàng cái thân xác người đây, đã đành ăn vào miệng mà lại phủi ơn Thầy, hỏi vậy có đáng tội hay là không đáng? 

Nầy mỗi con nghe cho kỹ, cái luật tuần huờn của cơ mầu nhiệm, có dễ chi mà hiểu đặng, tại sao khó vậy? tại cái lòng tự thị, cái nết kiêu căng, tại đó nên phải lủi lầm đi về con đường tội lỗi, thì cũng có cái vui là vui thầm trong chỗ tội, tại vui thầm trong đó mà quên ngó trở về, chừng đến đỗi giông mưa, thì ngó lại cái thân đã ở vào nơi chỗ hiểm, chừng đó có quyền thế chi? mưu sự chi? hay giỏi chi mà ra cho khỏi cái khổ hiểm đó không?

Thiệt là tội nghiệp thay! thương hại thay! bài “Thế Cuộc Hoan Bi” không kể, chỗ Đạo-Tràng cứu thế không ưa, tại đó mà mình tự biệt đường đi cho mình là vậy đó .

Thầy nay thấy rõ, cơ hội xây vần, nên phải hở lời ra hỏi thử, gạn lòng mỗi con cho biết, chớ Đạo Trời là Đạo chánh, thì trong đó phải có Chơn là Chơn-Thân, Chơn-Lý, Chơn-Tánh, Chơn-Tâm v.v… mấy Chơn đó hiệp lại một gọi là Chơn-Thuận, là thuận với lý Trời, do theo phép nước, dìu dắt chúng sanh, lập thành quả vị, đó là cơ Đạo của Trời, vậy các con đều ở dưới Trời sao lại nỡ quên chỗ đó?? quên thì cũng cho là lỡ, còn đứa ở tại chỗ đó rồi, sao lại muốn sanh lòng phản? Thầy nói đó ráng nghe đặng xét cho nhằm, chớ cái tội phản Sư có dễ chi mà ao ước? như vậy ráng định tỉnh coi chừng, ngó trước nhìn sau, coi lại thử coi mấy đứa vì quyền quên nghĩa vì lợi phản Sư, thì chẳng có đứa nào mà lập nên cái danh lành chi cả, chỉ có một đảng phe vì đó mà hùa nhau, làm cho lỡ dở một đôi hồi, rốt cuộc cũng đi vào con đường tội lỗi. Ôi, vậy mà ham! vậy mà muốn! vậy mà đành thì rất uổng là có ăn cơm,  thiệt là quá uổng!!!

Ngày nay là ngày Thầy Đại-hội Chư-Thần, đặng phân cho rồi cơ vận hóa, là cơ vận chuyển về Thượng-Cổ Huờn-Nguyên, đặng cho mỗi đứa tự nghĩ nơi lòng, thì có Chư-Thần hóa Tâm về Đạo, đó là một cách nhiệm mầu, mỗi con chớ có nghe qua rồi cho là lời nói nhảm, nói thì Thầy phải nói chớ lòng dạ mỗi con cũng còn ham theo thói dở hay khôn mạnh, mưu sự thế quyền, tại còn nhớ cái đó mà quên hẳn cơ Trời, nên phải chịu đến chỗ Đại-Đồng đặng làm cho vừa sức, đó có phải là tự tâm tác nghiệt hay là tự ai??? Thầy hỏi đó rồi mỗi con coi lại coi con người đây đối với Trời, thì có chi đâu là khó, có chi đâu là dễ? khó sao có người biết mà viết ra đây? còn dễ sao không ai làm được? đó có phải là tại nơi lòng tưởng không nhằm lý, vì lý đó là một lý huyền cơ gọi là chỗ trong không mà chỉ bày ra có thể, có thể rồi thì tạo thể thành nhu, là cái thể mềm cái thân yếu là tại sao? Là tại yếu mềm mà không khiếp nhược, nên đó gọi là thể thân, là cái đời sống mà được rõ tận nơi, có thân thì có Đời đó kêu là thể, thể thân nầy có phải dễ chi mà giành giựt? mà cũng không từ chối đặng nào? đó cũng là cơ vận hóa tân, kết làm nên cuộc, cuộc nầy là cuộc gì? mỗi con có hiểu chăng? phải là cuộc vui không? sao gọi là vui? là tại cái bền nhớ Đạo xa cách phong trần, đó là một cái vui ít người tới đặng, tại sao vậy? là tại chê chỗ đó không mạnh, không khôn, không thế quyền, không mưu sự, ít người tới đặng là tại đó, nếu không tới đặng đó rồi ở đâu? chắc phải ở vào chỗ khổ! mỗi con nghe đó rồi ráng định cho nhằm, đừng có hớ hinh rồi khổ làm thêm khổ nghe mỗi con.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày 15 tới đây, rồi phát ra cho mỗi đứa coi, hoặc là để dành tới ngày lễ An-Thiên phát ra cũng được.

******************

LUẬT BÌNH-QUÂN GIẢI MÊ PHÁ TỤC

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 5 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: con chớ quá buồn về các bài Thầy dạy con viết ra gọi là phá tục giải mê, đặng đem vào Luật Bình-Quân cho người đời thức tỉnh, trong đó có phần yêu trần mến tục, nó quyết phá con thì đã đành vì sợ mất miếng ăn, còn con lo sợ cho người đời không ưa mà mắng chửi, tại đó nên buồn mà sanh lòng dụ dự.

Đây Thầy nói con nghe, con là người Thầy sai, đứng ra thay quyền cứu thế, thì khác chi mấy bực Ngự-Y-Quan ở thế hạ nầy, có chí học hành, rồi thì được bổ đi làm quan giúp về tật bịnh con phải xét trong đó coi thiếu chi là bịnh khổ, mà quan Ngự-Y cũng vui lòng làm cho hết sức, rủi gặp bịnh đau chịu không nổi các điều mổ xẻ, chửi mắng thì người cũng vui lòng, miễn là cứu bịnh cho an, làm tròn phận sự là đủ, còn bịnh nào không chịu vào đó, thì phải mang lấy mãn đời, con coi đó rồi tỷ cạn xét sâu, thì cái sự vui trong mấy bài đó, là vui vô cùng vô tận, là chỗ con quyết hết lòng đừng ngại tiếng thế gian chê cười mà xét lý đó.

Vậy bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in rồi giao lại cho năm Thiên-Sư đặng đem vào Luật Bình-Quân cho nhiều người mau hiểu.

******************

THỨC TÂM HÀNH THIỆT

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 9 tháng 6 âm-lịch 1939 (6 giờ sáng)

-------o0o-------

Nầy các con cả thảy, ở thế hạ nầy, dầu Đạo dầu Đời hễ ngó mặt lên biết trên đó có Trời, thì phải biết con người đây là Chơn-Tánh, Chơn-Tánh đó nhờ ai ban cho? có phải là nhờ Thầy hay là vị nào ban cho được thì tự mình hỏi lại đi, hỏi rồi ngó lại xét coi, hễ biết có Trời ở trên không không đó thì phải biết có Trời cứu thế, là Trời ứng cảm tại tâm, đặng sửa đời phá tục, vẹt ngút rẽ mây, đặng cho đời được thuần phong mỹ tục, khỏi lấn hiếp nhau, đó là Vô-Vi nhi hữu chứng.

Vậy Thầy xem thấy phần nhiều hơn hết chưa trọn tin Trời, cứ tư tưởng có một điều cầu ma vái quỷ, đặng phò hộ cho giàu, cho sang, cho vinh, cho hiển, cho mạnh giỏi sống lâu, đặng hưởng nhờ gia tài của tạm, mà quên rằng trong đó người giành giựt giết người, Ta chẳng biết hổ với Ta, mà đem Chơn-Tánh mà quì lạy ma hồn quỷ xác, rồi trở lại công kích Đạo Trời, chê bai đánh đổ, bởi tại đó nên mới có cái tội lớn hơn hết là cái tội khi Trời, nên phải chịu nạn mấy chục năm dư, kêu Trời vái Phật mà cũng không chịu bỏ lòng tham.

Nay đúng thời kỳ phán đoán, Thầy cho Hàng-Long giáng thế đặng thay Thầy phá tục sửa đời, theo lẽ thì trước phải cúi đầu mà tạ ơn Tạo-Hóa, sau là hết dạ thương người như mình đây, vậy mới gọi là Một. Chớ có đâu đã chẳng biết ơn, còn lại sanh lòng ganh ghét, mình đã chẳng rõ điều hư hư thiệt thiệt, lại dám viện lẽ chê người ra lãnh gánh cứu đời, Thầy hỏi cái chỗ chê đó có đúng hay là chê càn? thì tự lòng mỗi ai xét lấy.           

Thầy vì cơn mạt kiếp, đời chịu khốn nguy, nên buộc lòng phải ra cứu vớt, trước là dạy cho biết đường ngay, đặng tránh lần nẻo quấy, sau là thoát tục cho thân khỏi buộc ràng, hễ tin trọn làm theo, thì cả đời thong thả, còn chẳng tin thì phải ở vào trong đó mà chịu lấy cái nạn cúi lòn, chớ không ai vào chịu thế cho đặng. Than ôi! biết cái thân là trọng mà đành quên chỗ trọng đó là Trời, tại vậy nên người chẳng hổ với người là người quên căn bổn đó.

Đây Thầy cũng để hết các lời biện giải cho cả thảy nghe rành đặng tự lòng suy nghĩ, rồi sau sẽ thấy cái việc vui buồn nó cũng ở gần nhau trong chỗ chê khen khinh trọng đó.

Vậy Thầy cũng vui lòng vì thương cho đứa quá mê mà đành quên Chơn-Lý, nên cho một bài dạy gọi là: “Thức Tâm Hành Thiệt” đặng coi rõ mà tự giác giác tha.

Bài thi như vầy:

THỨC tỉnh cho con cả thế trần
TÂM phàm dục vọng với Tham Sân
HÀNH theo Chơn-Lý khuyên chừa bỏ
THIỆT trọn Thần minh rõ Huệ-Ân.

Tiếp cho thi luôn:

1.-   Huệ-Ân Trời Đất ban nhiều
Tại lòng không dứt tự kiêu nên lìa
Ưa cầu khẩn nguyện sớm khuya
Lạy ma tế quỷ đặng chia lợi quyền.      

2.-    Thầy nhìn thấy rõ đảo điên
Con người sao lại bỏ duyên dụng tà?
Cho mình trọn kiếp người ta
Người ta phải biết Phật Ma cho rành.                       

3.-  Phật là thương dạy chúng sanh
Hiếu Trung Đạo-Lý thiệt hành đồng cho
Chẳng dùng tiền lót của lo
Bày ma, bày quỷ muốn cho vẽ vời.

4.-    Vẻ vui chuyện khác mê Đời
Đời cho người cách xa người với ta
Chẳng thông nẻo chánh đường tà
Cứ ham vui vẻ gọi là mở mang.

5.-   Chẳng dè vào chỗ gian nan
Vì vui  cho quá tới than là cùng
Làm người chẳng rõ thỉ chung
Thiên sanh Địa dưỡng sanh tùng tử qui.

6.-     Phải lo đường cả tu trì
Có đâu đến đổi A-Tỳ đọa thân
Dầu cho Tiên, Phật, Thánh, Thần
Trước noi Chơn-Lý lập thân mới thành.

7.-       Đạo Đời có diệt có sanh
Tại người không chịu nhứt thành khó thông
Học thường hai chữ Trung-Dung
Học cho có học, làm không chịu làm.             

8.-    Tại vì dục vọng tham lam
Thánh riêng Đạo-Thánh, phàm riêng ý phàm
Nay Thầy chuyển Đạo Kỳ-Tam
Lập cơ phá tục dựng làm Thượng-Nguơn.              

9.-  Điển Thần rộng rãi ban ơn
Thưởng cho người biết Đạo nhơn tâm hòa
Còn phần giả dối kiêu sa
Sẵn cho Đại-Kiếp hồn ma xác người.

10.-    Làm cho báo ứng hiện thời
Sống coi thấy rõ biết Trời chuyển luân
Nhãn-Tâm là tượng chỉ chừng
Đặng cho người nghịch đừng xưng hơn Trời.

11.-   Chuyển luân trong mấy kiếp đời
Ngày nay nhìn thấy rõ Trời tại Tâm
Thì tri hai chữ chẳng lầm
Nếu ai rõ đặng dễ tầm đường chơn.

12.- Cạn lời phân biện nguồn cơn
Đặng cho người rõ Thiên Nhơn Địa thành
Tam-Tài hiệp bảo tồn sanh
Lập Tam-Kỳ Giáo phát minh Chơn-Truyền.

13.-    Nặng nề cho kẻ vô duyên
Khó khăn vì tại đảo điên nơi lòng
Làm người chẳng rõ đục trong
Bạ đâu tưởng đó luống công lao hình.

14.-   Phước lành đức rộng minh minh
Khác hơn vật chất khó nhìn là đây
Mẫu tâm vẽ tượng thì Thầy
Người không rõ lý biếm bày rằn ri.

15.-     Tại vầy lầm lỗi chẳng tri 
Nhứt tâm kỉnh niệm nhiều khi dạy truyền
Ngày nay chỉ tột phỉ nguyền
Thiệt tâm diệu lý Cổ truyền Kim chung.

16.-  Dạy chung cả thảy rõ cùng
Còn ai chẳng trọng Đạo-Trung khó gần
Luật Bình-Quân đủ Oai Ân
Ban hành phá tục xa gần đặng hay.

******************

KHUYẾN THIỆN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 10 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con sửa bài Khuyến-Thiện của Lương-Phú-Hộ đi đặng trả lại cho nó học, con sửa đi có Thầy giúp cho.

Sửa:

1.-    Nầy nam nữ ráng nghe Khuyến-Thiện
Chớ tưởng cho là chuyện tầm thường
Đã rằng chữ Thiện là thương
Phải thương cho trúng nhằm phương mới lành.

2.- x    Trước là mình phải thương mình
Thương là mình xét việc mình nên hư
Phật gia tiếng gọi Đại-Từ
Làm người trọn đủ các lời thiện ngôn.

3.-     Tánh phàm vì chỗ ỷ khôn
Rồi sanh tự đại tự tôn quên lành
Hiện nay Thầy chỉ đã rành
Hỏi xem lánh dữ, làm lành thì không.

4.-    Lời khuyên khắp cả Đại-Đồng
Nghe theo làm đặng tránh vòng họa tai
Mặc tình thương ghét bẻ bai
Phận tu thì giữ mực ngay làm đầu.

5.-      Chớ nên húng hính cơ cầu
Công-Phu Quả hiệp mới hầu gọi duyên
Thiện căn quí tại Tâm-Điền
Giữ cho tươi tốt đặng truyền đời sau.

  6.-     Ở đời nhiều bực thấp cao
Bực nào cũng sẵn có trao duyên lành
Làm không là tại nơi mình
Phật Trời thường chỉ dạy rành độ chung.        

7.-     Lập thân trước phải thuận tùng
Thuận theo Thiên-mạng đặng tùng đường chơn
Bớt điều tính thiệt so hơn
Đồng tâm hiệp chí giúp cơn hiểm nghèo.

8.-      Ra tay tế cấp ít nhiều
Tùy theo gia đạo cũng đều sự thương
Chén cơm bát nước lỡ đường
Lời răn tiếng dạy chỉ tường việc nên.

9.-    Mỗi công làm đó cho bền
Làm đừng trông trả, trông đền tiếc công
Biết rằng của tạm đời chung
Giàu sang nghèo khó cũng trong một lò.    

10.-  Điều lành ít thấy ai cho
Bày ra chuyện dữ đặng no thân mình
Khuyến ngôn từ thiện nói rành
Tự lòng ai biết phận mình thì lo.

11.-     Noi theo Thánh-Huấn dặn dò
Tu nhơn tích đức là đò độ chung
Trước Đàn phủ phục cúc cung
Xin Thầy sửa dạy độ chung để đời.

12.-  Độ cho người biết thương người
Thương người cho trọn là Trời tại tâm
Lời ngay lẽ thiệt không lầm
Xảo ngoa tà mỵ khó tầm đường chơn.

******************

CHƯƠNG II

BÀI PHÁ TỤC

NẦY KHUYÊN CẢ THẢY DƯỚI TRẦN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 5 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: nay Thầy cho ra nhiều bài giải mê phá tục, trong đó có nhiều chỗ không hạp với tục tệ bấy lâu, tại vì mê, là do nơi lòng tham sanh húy tử, hoặc là coi theo truyện mà không xét cho rành lẽ thiệt hư, tại vậy nên ngày sau chúng nó cũng có nhiều đứa viện lời canh cải cho con là đặt điều hoặc là lấy theo Đạo Thiên-Chúa, là vì chúng nó còn ưa cúng tế heo, vịt, bò, trâu v.v… nên kiếm thế đem các lời như hồi Lưu, Quang, Trương kết nghĩa, sát bạch mã tế Thiên, tru hắc ngưu tế Địa, đặng đem ra đánh đổ giành giựt về sự tế chong đặng cho vừa lòng, làm cho cuộc mê không dứt, đó là tại chúng nó không hiểu thấu trong lý bạch mã, hắc ngưu cứ cho là cúng tế, đó là vì tại truyện Tàu muốn làm cho có vẻ đặng lưu hậu đời sau tin theo đó mà làm, đặng có ngõ bán buôn thủ lợi, chớ trong đó khác xa, là vì hồi ba người đồng thề với nhau thì Quan-Thánh có lòng cang trực, nên xin đem hai con thú đó ra làm bằng chứng là quyết lòng lo cho rồi bổn phận hết sức làm tôi, thân như trâu ngựa (Nho gọi là Khuyển mã chi lao là vậy). Trong đó thề cho trọn lòng Đạo nghĩa, giữ vẹn nhơn nghì như bạch mã thì không có loạn dâm; còn hắc ngưu thì hết lòng cày ruộng; nếu trong ba anh em mà lòng dạ không tròn thì phải chịu thua loài thú, còn phần sanh tử chẳng bỏ nhau thì phú có Đất Trời soi xét, nhờ vậy mà Quan-Thánh đắc Đạo với Lưu-Bị, Trương-Phi cũng đồng một ngôi tam nghĩa lưu lại cho đời sau sùng bái là tại nhớ lời thệ nguyện với nhau đó, chớ nào phải làm ra mà tế cáo Trời Đất chi đâu, đó là một điều lưu ngôn để lại sách truyện chép ra tam đồ thất lý.

Đây Thầy cho một bài đặng mỗi đứa nghe qua vui lòng mà bớt điều canh cải.

THI

1.-      Nầy khuyên cả thảy dưới trần
Bớt mê đều tục, tỉnh lần chuyện sai
Từ xưa cho đến những nay
Thánh, Thần, Trời, Phật không nài vật ăn.

2.-    Luật thường như sợi chỉ giăng
Thề đây là chứng đặng răn thói tà
Khuyên chung nhớ đó vậy là
Chớ nên mơ ước Trời xa quỷ gần.

3.-     Hết lòng lo trọn nghĩa nhân
Dầu không tế lễ tội cân chế trừ
Quỷ thường hay xúi chuyện hư
Là do tâm vọng người mơ ước xằng.

4.-    Ở đời ngay thật làm ăn
Trời cao Đất rộng Đạo hằng nhớ ghi
Sát sanh thêm tội ích gì
Đổ cho Thần Thánh tội ghi thêm nhiều.

5.-     Từ nầy khuyên ráng làm theo 
Là theo Chơn-Lý dắt dìu dạy nhau
Mạng căn kẻ khó người giàu
Phải nương theo vận khẩn cầu nào xong.

6.-    Đã rằng Trời Phật chí công
Chí công thì chẳng có lòng vị tư
        Con nào dạ nấy khư khư
      Đặng suy xét lẽ thiệt hư liệu dùng.

      7.-        Cạn lời chỉ dạy dỗ chung
      Ích chi canh cải mà không rõ lầm
                Mỗi người đều sẵn lương-tâm
        Tại sao không chịu hỏi thầm vì đâu?

      8.-        Tế Trời nào dụng ngựa trâu
              Nhứt tâm hướng thiện một câu đủ rồi
                Hương đăng hoa quả là đời
        Phải cho dùng đỡ thấy thời biết lo.

      9.-     Ít người chẳng thấy mà lo
        Chẳng nghe mà sợ làm cho trọn nghì
        Ghế bàn trật tự lễ nghi
      Đó là chỉ cách đứng đi coi chừng.

  10.-           Lạy quì là phạt xác thân
              Tại ham chuyện lỗi đem thân lạy Trời
                Tại vầy nên có chỗ nơi
        Kỳ trung phải biết sợ Trời mới linh.

   11.-      Đừng ham khẩn vái lợi mình
            Vái sao mình biết xét mình là hay
                  Đó là lời chánh tỏ ngay
          Rằng thân xác thịt ai ai lỗi lầm.

    12.-    Phật Trời thương dạy chế châm
            Chỉ đường phước thiện sửa lầm ra nên
              Thi bài kinh sách dạy khuyên
          Đó là phận sự Thánh-Hiền phải tuân.

    13.-   Ai nghe làm đặng cũng mừng
        Còn ai ngỗ nghịch tội trừng sẵn ghi
              Đó là cũng chỗ Từ-Bi
Từ-Bi là luật chép ghi hằng ngày.

    14.-    Từ nầy khuyên cả gái trai
            Biết tu biết niệm chẳng ngoài sự chơn
      Bớt lần tính thiệt so hơn
      Hễ đua chen lấn lòng nhơn giảm nhiều.

   15.-    Ngày ngày tâm huệ sẽ tiêu
          Mà chưa hiểu đặng cứ theo giựt giành
            Nên Thầy khuyên nhớ kỉnh thành
          Kỉnh tâm sợ tội chí thành trọn tin;
          Bớt mê bớt vọng cứu mình
      Thầy thương nên dạy chẳng nhìn thì hư.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra rồi giao lại cho 5 Thiên-Sư để vào nơi mặt Luật Bình-Quân đặng cho mỗi người coi mà mau hiểu.

******************

BÀI PHÁ TỤC TRONG CUỘC VẠN LINH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 10 năm Mậu-Dần (1938)

-------o0o-------

Nầy các con Nam Nữ,

Những đứa nào có dự trong cuộc Vạn-Linh nghe Thầy hỏi đây mà tự xét nghe các con. Các con ôi! kể từ ngày Thầy khai Đạo ra đến giờ, kể đà mấy muôn thế kỷ, nay Thầy chuyển lại Nam-Việt tại sứ Tây-Ninh, sau lần lần xây đến Kiên-Giang gầy ra Chơn-Lý mà đem đến Định-Tường, các con nghĩ sơ bấy nhiêu đó mà các con cũng đủ ngán cho cái xác phàm nầy, mà trong đó không có lạ chi là dạy các con ráng tu đặng cứu lấy Linh-Hồn cho khỏi đọa.

Các con nhớ lại coi có phải vậy không, nhưng từ đó đến giờ nhiều đứa chưa rõ thấu, nên phải bị Bàn-Môn Tả-Đạo nó bày mưu phỉnh gạt làm cho tốn của, hao công, lại còn gây ra náo động trong việc trị an là khác. Đứa thì lo thiêu đơn luyện hống, đứa thì bùa chú toàn phép ẩn thân, đứa thì nuốt mặt Trời, hớp mặt Trăng, đứa thì tính xa vợ, xa con mà lánh đường quan hệ; thiệt cả thảy cũng có công song làm không trúng lý, tại vậy mà nền Đạo không được vui là vậy đó. Vậy các con phải nhớ lại cho kỹ rồi sẽ hay chớ bôn chôn mà mang họa, rồi trở lại trách Thầy, Thầy đã nói với các con: Từ ngày nào cho chí ngày nào, Thầy cũng không cho bày dị đoan, bùa chú, rối loạn quốc dân, bỏ nhà lìa tổ, hễ tới đâu Thầy sẽ dạy tới đó cho, đã biết vậy mà trước phải Tánh Tâm hiệp một kìa mới được; hiệp một là hiệp với Chơn, là Chơn-Tánh, Chơn-Linh, Chơn-Hồn, Chơn-Thể, Chơn-Như, có biết cho đủ, có hiểu cho rành, dầu làm chưa đặng song cũng tính sẽ làm, thì mới thấy đặng chỗ Linh-Hồn là huợt bát. Nay tuy các con đây phần đông chưa làm đặng như lời nói trên đó, chớ cũng có nghe, có biết, có hiểu chỗ lời Thầy nói, cũng tính sẽ làm, nhờ vậy nên Thầy mới lập ra ngày hội Vạn-Linh, là ngày Tu-My đây đặng cho đúng theo luật Thiên-Điều phán đoán. Vậy mà các con phải nhớ rằng Linh-Hồn đó bấy lâu nó bị quẩn quanh theo phần vật dục của cái người, cho nên đời phải tồi phong bại tục, nay Thầy lập Tam-Kỳ Phổ-Độ là độ rỗi Linh-Hồn; vậy trong đó mỗi con phải đem chữ Linh mà nạp vào Tòa-Thánh. Thầy hỏi vậy có nhớ nó hay không, mỗi con trả lời trong lương tâm cho Thầy rõ?

Đây Thầy nói cạn cho các con nghe:

Cũng có đứa tính đem chữ Linh vào đây đặng nhờ Thầy dạy, còn đứa lại tính khác nữa, là nó tính theo ý riêng của nó, như bấy lâu đó, vậy Thầy hỏi mỗi đứa tính mừng như vậy có hạp với Thiên-Lý hay không?

Thầy đã đem CA, ĐƯỢC; hai đứa ra làm biểu hiệu chung cho các con coi mà bắt chước, một đứa chẳng kể giàu sang mà hiếp bạn, một đứa chẳng lấy nể nghèo hèn mà được thế, cả hai đều vì Đạo mà quên mình, đó là gương tươi tốt cho cả thế gian đặng rọi chung cho sáng; nhưng mà Thầy xem rõ phần rọi chung thì ít, phần kiêu ngạo thì nhiều, Thầy hỏi vậy rồi mới làm sao cho ra đời Thuấn Nghiêu, làm sao cho rõ mặt tôi hiền, làm sao cho ra người Đạo-Đức, rồi mấy tiếng bỏ tham, bỏ giận của các con nói đó có dính vào tâm hay không? Rồi chữ Linh của đứa đó đem nạp đó, nó có Linh hay không? Rủi mà gặp cơn day trở rồi lấy đâu mà chống cự cho vững vàng, vậy chẳng uổng công mình tu niệm hay sao? Đây Thầy nói xa tỷ gần cho các con rõ, đặng hồi tâm tự xét mà lo liệu cho lâu dài, chớ chi có nhớ chữ Linh đó là nhớ như vầy mới đúng; là nhớ từ ngày nào đến giờ, nhờ Thầy ung đúc mới có Linh-Hồn, ngày nay Thầy dạy đem về Tòa-Thánh là nơi sáng suốt, vậy thì mình phải cho công lao đó đặng lo gìn giữ cái xác nầy cho tử tế, đặng ngày cùng cho hạp với Linh-Hồn, thì chẳng có chi lạ hơn là phải hết lòng thương Đạo một dạ Kỉnh-Thành là chung nhau đừng để rầy rà chích mích, giàu nhờ của, khó nhờ công, gặp đâu trợ đó, thì có chi là chẳng đặng vui vầy, mà lại đặng Linh-Hồn hiệp Xác. Các con mỗi đứa nghe rồi tự xét cho rành, như phải thì làm bằng không thì nghỉ, Thầy chẳng ép buộc đứa nào, đừng để ngày sau than thở, Thầy cũng sớm biết lòng của các con phần nhiều nói câu nầy: Chừng nào chịu đọa sẽ hay? chớ bây giờ tốn hao cực nhọc quá không thể chịu đặng. Lời nói nầy nghe qua dường sấm, tưởng đến lạnh lòng, là vì trong đó đã đành kêu án cho mình rồi thì trông chi cứu đặng!!!        

Vậy ĐƯỢC con phải giao hết cho Hội-Thánh đặng in ra cho nhiều, rồi nữa chỗ có Đạo-Tràng cũng nên đọc và phát ra cho Đạo biết, còn tại Tòa-Thánh thì đọc trong mỗi kỳ Đàn, trước giờ nhóm nhau mà học Đạo, hoặc là dán tại Đông-Lang cho nhiều bổn, đặng nhiều đứa thấy cho nó vui lòng kẻo ngày sau nó trách.                       

LỜI DẶN

Hễ có nhóm điều chi về việc Đạo, thì đọc bài nầy trước rồi thì sau sẽ bày chuyện nhóm, Đạo-Tràng cũng vậy, cứ đó làm hoài chớ nên bỏ qua kỳ nào hết.

Thăng. 

******************

TỰ TRI KỲ YẾU

(Kiện thưa về dâu, con, chồng, vợ, tiền của bất hòa)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 5 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: Hiện nay trong Chơn-Lý phần đông còn tính ngược lo ngang chưa chịu thiệt hành một Lý, tại vậy nên còn nhiều đứa hay đem việc nhà đến Thánh-Tòa hoặc là Thánh-Thất mà thưa gởi theo các việc dâu, con, chồng vợ, tiền của bất hòa, đến cầu nài cho Hội-Thánh xử, Thầy thấy trong bọn đó thường khi cúng lạy hay vái riêng là trông cho bên nầy đặng, bên kia thất, nếu y sở nguyện thì tu theo Chơn-Lý, bằng chẳng hạp thì thôi; thật là một bọn giả tâm Đời không rành, Đạo không biết, vậy cũng xưng hô Chơn-Lý thờ tượng Trái-Tim, mà trong lòng trái hẳn với lời răn tiếng dạy, tại vậy mà phải chịu ở hoài trong cái vòng lúng túng chạy qua gặp kiện, chạy lại gặp rầy, đi tới thì thua, đi lui thì thẹn, rồi ngồi lại ngó Trời than thầm chắc lưỡi, đứa lo tự vận, đứa tính bỏ nhà, mà quên hẳn trong Tim của mình là có Đạo. Vậy con phải nghe theo lời Thầy dạy đây mà viết ra một bài gọi là TỰ TRI KỲ YẾU trong đó Thầy có nhắc đủ các lời đặng nhiều đứa có học hành coi rồi xét lấy.              

- Bạch … Con vưng theo lời Thầy.       

Thầy cho bài mỗi đứa có lòng như vậy nghe rồi thì biết, từ đây chẳng nên đem các việc đó tới Thánh-Tòa hay là Thánh-Thất mà thưa nữa.

TỰ nghĩ về đâu kết chuyện sầu
                TRI tình thế sự ở đâu đâu
                  KỲ ngôn tiên triết tường hư thiệt
              YẾU trọng ư hòa vạn lý thâu.                                           

NẦY:

    1.-     Các con nam nữ dưới trần
            Xét trong thưa kiện có phần nào hay
              Hoặc là chồng vợ trở day
      Chẳng ham hòa thuận cãi hoài vui không? 

     2.-        Với nhau thường nói một lòng
            Nói ra thì vậy chỗ dùng được chưa?
                Sui gia tình hạp nghĩa vừa
      Giả câm giả điếc đặng ngừa nói gian.

   3.-     Ngồi chung vui một đồng bàn
          Phía dâu, phía rể hai đàng cũng con
            Hễ thương khỏa lấp méo tròn
    Dầu cho việc dữ cũng mòn, cũng tiêu.

    4.-      Vợ chồng là chỗ mến yêu
          Xướng ngôn tùy phận giàu nghèo cũng vui
          Chồng khôn vợ dại cũng đời
          Vợ lanh chồng dốt cũng Người với Ta.

       5.-      Nương nhau dạy bảo cho hòa
            Đó là Chơn-Lý Đạo nhà mở mang
            Kiện thưa thì khổ hai đàng
        Thất công tốn của rồi mang đám khùng.

       6.-  Của tiền ruộng đất là chung
          Mẹ Cha để lại dùng trong một thời
            Chia nhau nhiều ít tại lời
      Nhắm sau ngó trước nhớ lời Mẹ Cha.

   7.-     Anh em nhìn đó mới hòa
            Sá chi vật chất gầy ra đau lòng
            Hãy nhìn như kẻ tay không
        Ngày ăn hai bữa cũng xong một đời.

  8.-  Nói ra ai cũng thương người
      Mà trong dòng họ xúi người hại ta
            Tại vì chẳng xét gần xa
  Giàu nghèo tại chỗ thuận hòa với hung.

    9.-  Kể cho mình hưởng đến cùng
          Mà quên cùng thế tại dùng quá khôn
        Ỷ mình phe đảng phần đông
      Phần đông mà hại tại không xét thầm.

10.-   Tại vầy Thầy để Lương-Tâm
      Cải lương về bạo thấy lầm thấy sai
                Nhơn-Tâm Thầy đã chỉ hoài
      Là nguy là hiểm biếm bày dại khôn.

  11.-   Đã cho ai cũng có Hồn
      Hồn mê, Hồn tỉnh vong tồn chẳng thông
    Thờ Cha thờ Mẹ hết lòng
  Anh em không thuận viện lòng kiếm ăn.

12.-  Nhiều con dại dột vô ngằn
      Đã thân vào Đạo còn lăn theo vầy
        Vầy là chẳng hổ cỏ cây
Làm điều vô dụng không hay không nhằm.

    13.-   Thờ Trời Thiên-Nhãn tại Tâm
      Hỏi sao mà chẳng tủi thầm lại ưa
Vầy đoàn hiệp lũ sớm trưa
Đánh Nam dẹp Bắc tội đưa theo mình.

14.-  Làm người lãnh trọn sự Linh
  Đã Linh sao lại đem mình vào hang
  Thầy thương rọi đuốc chỉ đàng
  Là do Đạo-Lý khỏi ràng buộc thân.

    15.- Ai ai cũng có phước phần
    Ít nhiều theo phận phải cần thương nhau
        Phận nghèo đừng có ước giàu
    Phải suy số mạng trước sau tại Trời.

16.-  Sang giàu đừng có lả lơi
          Phải thông báo ứng vận thời trả vay
              Mỗi con vào Đạo Cao-Đài
      Ráng nghe Thầy dạy một bài Tự-Tri.

  17.-     Cho hay chánh yếu Tam-Kỳ
      Khải thông Đạo-Đức chuyển nguy vi tường
            Bớt hờn ngang dọc cự đương
    Thuận Thiên hòa Lý là phương Thái-Bình.

    18.-  Con nào biết phải thì tin
        Tin làm cho đặng Thầy nhìn giúp cho
          Con nào lòng dạ chẳng lo
      Tới đâu hay đó cũng cho là rồi.

    19.-    Con nào ngạo báng Đạo Trời
      Thì mau hỏi lại sống đời nhờ ai?
          Đó là lời thiệt chẳng sai
        Cứu cơn mạt kiếp phận ai nấy nhìn.

  20.-      Trời cao Đất rộng công bình
          Vì thương dạy trước giữ mình gọi tu
          Đuốc khêu tỏ rạng phá mù
    Đã không theo tỏ lại thù oán riêng.

   21.-     Đó là lòng dạ chẳng hiền
            Cậy Trời giúp ngược phỉ nguyền bề trong
      Trách sao lòng chẳng thẹn lòng
    Hại nhơn, nhơn hại sách còn cổ kim.

  22.-  Đứa mê trôi nổi đắm chìm
  Thầy ra cứu vớt lại hiềm lại nghi
          Biết Thầy là bực Từ-Bi
    Từ-Bi thưởng phạt nhiều khi dạy rành.

  23.-   Tại sao mình lại quên mình
      Nói ra không sợ rồi tin chỗ nào
    Ngó chừng Đất rộng Trời cao
    Dại khôn quấy xảo ngõ nào chạy ra;
      Từ đây khuyên nhớ chữ Hòa
Nhứt tâm về Đạo đó là sự vui.

Thăng.

******************

HIẾU TÂM VỀ ĐẠO 

(Lục tuần đáo tuế)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 8 tháng 1 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Nay DƯƠNG nó muốn xin làm lễ chúc thọ tuần cho Thân-Phụ của nó, việc đó là theo thế tục, làm đặng cầu vui gọi là đáo-tuế, theo phép đáo-tuế thì người được hưởng thọ đến bực đó, buộc phải làm lễ tạ ơn Trời Đất cho hưởng đặng đến tuổi nầy, ấy là theo tục xưa vừa qua rồi đó. Nay là thời kỳ Chơn-Lý khử Ngụy tùng Chơn, dầu sống đặng bao lâu đi nữa thì buộc phải lo làm Công-Quả sửa nết tu hành, đặng trừ tội cũ, mà còn dư Công-Quả chút nào thì lo nối Thiêng-Liêng về tới nữa, đặng ngày sau khỏi vương nợ trần, đó là lẽ thiệt. Nay DƯƠNG nó vì chưa dứt tục, muốn làm cho ra vẻ hiếu tang, Thầy cũng đáng khen cho nó, song trong Luật của Thầy không có cho làm điều chi cầu vui mà gọi là báo hiếu.   

Vậy Thầy vui lòng cho nó một bài thơ để gọi là HIẾU TÂM VỀ ĐẠO, đặng nó đọc cho Cha Mẹ nó nghe, hoặc là cho người khác rõ mà tránh lần điều tục.

THI

    1.-     Người sanh trong cõi Đất Trời
          Sống nương xác tạm giúp đời nhờ chung
        Tuổi xuân khí tráng lực hùng
      Tỷ như xuân thọ ngộ phùng tường vân.

   2.-    Tuổi cao hình vóc yếu lần
    Khác nào thuyền khẳm giữa chừng gặp giông
        Lớn thì kính trọng vai ông
    Bực trung chú bác, hạ tùng đệ huynh.

  3.-   Xét coi lấy đó hỏi mình
      Khi sanh khi trưởng khi bình mấy khi?
          Thể thân người cũng ba kỳ
    Nhứt sanh tráng kiện, hạ thì giảm suy. 

  4.-   Xét rồi cũng chẳng lạ chi
    Có thân, có thể, có kỳ hạn riêng
        Khác nhau kẻ dữ, người hiền
    Thọ yên thay đổi hậu tiền cũng đây.

    5.-    Tới lui trong cõi tạm nầy
      Là do nhơn quả đọa đày thưởng răn
      Tuổi già thì phải ăn năn
    Xét trong lúc nhỏ nhố nhăng tội nhiều.

     6.-      Xuân thời chớ tập hiu hiu
              Sợ e không trọng đời kiêu ngạo nhiều
                      Thánh xưa Người có để lời
            Lão lai tài tận ở đời đừng quên.

     7.-    Trẻ già đều có tuổi tên
        Kính thưa nhường nhịn dưới trên cho hòa
            Làm con mới trọn thảo cha
    Trước tuân lời dặn, sau hòa đệ huynh.

     8.-      Sửa sang đầm ấm gia đình
          Khó nghèo chẳng luận khuyên nhìn một cha
        Giàu sang gia đạo bất hòa
      Sánh so lễ vật gọi là cầu vui.

    9.-        Ít ai Đạo-Lý rõ mùi
        Phụ nghiêm Mẫu thuận trọn đời làm con
            Sự vong như thể sự tồn
        Ban y tiếu vỏ phụ tồn hữu phương.

   10.- Hiện nay Đạo-Lý bày tường
          Tục mê bỏ bớt một đường đồng tu
            Chẳng thông nào khác kẻ mù
      Nghe đâu làm đó gọi cầu chúc thân.

     11.-  Nếu ai tuổi đến lục tuần
        Phải suy, phải xét nửa mừng nửa lo
          Mừng vì bữa đói, bữa no
      Từ đây trở lại cũng cho khỏi rồi.

    12.-   Lo là ngày tháng khúc nôi
        Rủi lâm hoạn nạn sợ hồi cô thân
          Tự tâm suy xét xa gần
        Tới lui hai lẽ lo mừng là đây;
      Thầy cho DƯƠNG một bài nầy
  Đọc cho giải tục đặt bày từ xưa. 

Thăng.

******************

THƯỢNG-NGUƠN PHÚ

Kiên-Giang, đêm 9 tháng 7 năm Canh-Ngũ

-------o0o-------

Xuyên châu Liên-Huờn điệu

 DĨ -   Bươn bước lần bực, may lối vô được HAM
Chỉ chừng thiệt hơn, dắt đường Đạo Chơn
      Cổ cầm sánh duơn, VI VẬN.

TRÍCH -   Từ phước tầm. Ngô Giáng Tiên, Phú, Ngũ
                Hổ cô nhứt tiếu, Điệu.

NHẬP ĐỀ

1.- Hội Thượng-Nguơn nhứt phẩm,
Người mừng ca Thánh thọ vô cương.. (bươn)
Lệ trung giái tứ phương, Lễ ứng chực
Thiên quan tứ phước . . . . . . . . . . . . .    (bước)

2.- Gái dầu đèn, trai sáp đuốc, ngược xuôi
lo trả nợ quỷ thần . . . . . . . . . . . . . . . .  (lần)
Già nọ cúng, trẻ hương dưng, tở mở
tính kể ơn Trời Phật . . . . . . . . . . . . . .  (bực)

3.- Tôm, vịt, thịt, tam xên lễ chất, dưới
xê lên, trên xích xuống, tranh đua
dường quỷ chực giàn chay . . . . . . . . .  (may)
Chuối, bánh, xôi lục cúng cỗ bày,
kẻ lấn tới, người xô lui, chen chúc
tợ trẻ dòm rạp bội . . . . . . . . . . . . . . .     (lối)

4.- Phiên tào kê, phiên chủ hội, lên thì nhang
đèn, xuống thì cứ tụng Nam-mô. . . . .  (vô)
Lớp tín chủ, lớp tăng đồ, trước hễ quì
  lạy, sau hễ thấy mòi coi bắt chước …  (được)

5.- Vái van càng lấy được, hước xin bùa, hùa
Xuyên xin niệt, cầu ngày yết, liếc ông sư, bộ hiền
từ, mưu đỉnh đạc, phát phái đỏ, xỏ quai
Châu xanh, khoanh giấy vàng, tràng son thắm,
cấm lằng nhằng, vái ngũ qui tam . . . . . . (Ham)
Liên Vay trả chả tham lam, ham số vốn,
bốn số lời, của Phật Trời, nơi bổn phố,
Huờn Tiếng mượn mỏ, thể chung càng, dùng
pháo hồng, bồng giấy bạc, phát sổ trắng,
Điệu rặng chữ đen, biên ắt chất giáp năm
bội nhị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (chỉ)

6.- Cho vay chưa mấy quỷ
Đoán xăm mới thiệt Thần . . . . . . . . . . . . (chừng)

7.- Một năm có một lần, coi xăm một thử
coi cho biết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .(thiệt)
Trăm quẻ đều trăm quyết, cá tiền trăm
cũng cá chẳng sờn . . . . . . . . . . . . . . . . . . (hơn)

8.- Bụng cầu Trời, tai lóng như đờn, lòng
dối thế miệng ngon tợ mật . . . . . . . . . .  (dắt)

9.- Bề ăn ngay ở thật, sao không lo tích
đức tu nhơn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (đường)

10.- Thế so thiệt tính hơn, sao chẳng sợ
lời trên đà dặn bảo . . . . . . . . . . . . . . . . .  (Đạo)
Khuyên dưới chớ khinh lờn . . . . . . . . . . (chơn)

11.- Chớ tu vào kiếm thọ đao sơn
Phải tu đến Liên-Đài tịnh thổ . . . . . . . .  (cổ)

12.- Cái ham mộ
Muốn thiện tu tâm . . . . . . . . . . . . . . . . . . (cầm)

13.- Mau đọc lấy bài ngâm
Ta cho đây cho chánh . . . . . . . . . . . . . . . (sanh)

14.- Trời phú gương minh cảnh
Phước của Hội Thượng-Nguơn . . . . . . . (duơn)

NGÂM RẰNG:

Tu sao chơn bước cõi Di-Đà
Tu muốn ngày càng thấy Thích-Ca
Tu dốc trau mình yên cội nước
Tu cho rạng đức mới dân nhà
Tu mong trọn vẹn lòng ngay thảo
Tu lánh tà tây thói quỷ ma
Tu quyết một niềm nơi Tánh Mạng
Tu theo đường thẳng thể Thầy ta.

******************

THEO THẦY HỌC ĐẠO, THEO THẦY CẦU DANH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 2 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Nầy các con nghe Thầy hỏi: 

1.-  Mỗi con nào quyết theo Thầy
        Theo Thầy học Đạo, theo Thầy cầu danh
          Xét đi xét lại cho rành
  Cầu danh học Đạo cứu mình hay hư?

2.- x     Chỗ học Đạo thì ưa vui vẻ
        Chỗ cầu danh thì kẻ tôn sùng
            Hai điều nầy khó ở chung
Kẻ chơn, người ngụy có tùng thuận đâu.

   3.-     Đạo tại vậy mà lâu mà trễ
            Người không quen nên hệ xiết bao
        Tranh giành tu niệm lao xao
    Cầu danh học Đạo đua nhau chống kình.

     4.- Người học Đạo thì tin theo Lý
          Đứa cầu danh hiệp ý so quyền
            Mỗi ngày hằng mỗi tính riêng
        Lo sao mình đặng mối giềng gồm thâu.

   5.-     Một là muốn kẻ đầu người lụy
            Hai là đem chuyện sỉ nhục người
            Chẳng màng Người tốt Ta tươi
            Cứ lo tìm kiếm móc bươi cho nhiều.

    6.-      Kẻ học Đạo chịu điều cay đắng
            Dầu khó khăn cũng ráng dò lần
              Quyết làm cho trọn tân dân
          Không ham quyền lợi chẳng phân nghèo giàu.

   7.-      Quyết là quyết mình sao đắc-quả
          Lo là lo khỏi đọa luân-hồi
              Tại vầy cực nhọc chẳng thôi
          Là tâm biết một đời vui trọn đời.

    8.- x   Hỏi sơ chỉ cạn ít lời
        Mỗi con nào tính Đạo Đời thì ngăn                                                       
          Rõ rồi khỏi thở khỏi than
  Cầu danh thì phải chịu mang danh nhiều.

9.-        Danh là tật đố với kiêu
        Danh người phá Đạo để nêu lâu dài
      Tu chung một Đạo Cao-Đài
    Cầu danh với học từ rày khác xa.

10.-        Đó là lừa lọc để ra
        Có nơi có chỗ gọi là thưởng răn
          Thưởng cho người mến Đạo hằng
      Hằng lo sửa nết, việc xằng chẳng ưa.

11.-        Răn trừng cho bọn đỏng đưa
Dể ngươi kình chống tội xưa thêm chồng
      Cả hai dồi dập Đại-Đồng
  Hành thân chịu khổ đến cùng đời xem.

12.-      Con nào lòng dạ cẩn nghiêm
        Thấy đâu sợ đó dễ tìm đường ngay
        Đã đành thời cuộc đổi thay 
    Song trong thưởng phạt chẳng ngoài lẽ công. 

13.-     Phần nhiều chưa đặng suốt thông
      Còn mê, còn vọng tiếc công so tài
          Kể công nào chẳng trọn ngày
      Đó là chẳng thiệt với Thầy nơi trong.

14.-      So tài mà Đạo chẳng thông
        Tài khôn tài xảo rủ đông cậy tài
        Vọng tâm Thầy đã răn hoài
      Muội mê rồi trở nói Thầy hại con.

15.-  Tại vầy lòng dạ thon von
    Thảm cho nhơn loại dò đon không nhằm
        Đọa đày thì biết khổ tâm
    Ngặt sao Thầy dạy tu tâm lại hờn.

16.-       Hoặc là tích đức tu nhơn
          Dạy đâu bỏ đó chẳng tuân phần nhiều
        Thương con hết sức dắt dìu
      Lòng ưa ngỗ nghịch Thiên-Điều nào dung.

  17.-  Mỗi con nào xét cho cùng
      Mới hay tội phước tại lòng gây ra
            Khác nào như Phật với Ma
        Tại Tâm chẳng định thành ra hai đường;
            Dặn chung mỗi trẻ cho tường
      Từ đây khuyên bớt tật lường kể công.

******************

PHỤ TỪ TỬ HIẾU

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 5 âm-lịch 1939 (năm Kỷ-Mão)

-------o0o-------

Nầy các con nghe Thầy hỏi:

    1.-    Mỗi con đọc Phụ-Từ Tử-Hiếu
              Nghĩa Phụ-Từ Tử-Hiếu ra sao?
                Mảng đua chen lấn nghèo giàu
    Mà quên đạo nghĩa cùng nhau bất hòa.

    2.-    Cha chẳng rõ Đạo cha cho đúng
Con không rành nhau rún là đâu
            Dại khôn khôn dại làm đầu
      Khó răn khó dạy tại giàu tại lanh.

     3.-     Trong gia đạo chưa rành trật tự
Lại ham lo kình cự tranh tài
          Tại vầy mà lạc mà sai
  Tưởng ăn tưởng mặc qua ngày là vinh.

    4.-     Chữ Tử-Hiếu khó gìn cho thuận
          Cha hiền lành giữ phận thương con
          Khuyên răn dạy dỗ mất còn
      Nghĩa phương Đạo-Lý cho tròn đừng quên.

   5.-  Dạy con biết điều nên lẽ quấy
        Mình buộc mình trước thấy sau chừa
                  Dứt rồi đừng để dây dưa
          Cho con coi đó đặng ngừa giữ thân.

      6.-  Gặp việc phải, phải cần làm phải
            Quấy thì răn sửa lại cho hòa
              Đó là bổn phận làm cha
      Từ-Nghiêm Ái-Dụ trị gia chi quyền.

  7.-      Còn chữ Hiếu Thầy khuyên phải nhớ
        Đạo làm con phải sợ tội Trời
            Cha sanh Mẹ dưỡng nên người
      Đó là tỷ cập như Trời Đất riêng.

   8.-     Dầu Cha Mẹ chẳng hiền đi nữa
        Cũng phải lo bào chữa cho tròn
        Cạn lời can gián là con
      Chẳng nên ngỗ nghịch ỷ khôn không màng.

     9.-    Trọn chữ Hiếu đừng toan tranh đấu
          Bề anh em một máu thịt đồng
            Giàu nghèo đều cũng thương chung
        Hễ con hòa thuận đẹp lòng Mẹ Cha.

    10.-    Rủi nghèo khổ đó là tại số
            Giữ phận nghèo đừng cố giận riêng
              So nhau vì bởi bạc tiền
        Vì quên căn mạng đổi hiền làm ngu. 

    11.-     Dầu sang trọng rún nhau đừng bỏ
            Chỗ tới lui cho có trọn niềm
          Đã rằng cốt nhục anh em
      Đừng so sang trọng quên niềm sơ sanh.

    12.-    Giữ cho trọn tình anh nghĩa chị
        Biết phận em chung thỉ cho hòa
        Ngó nhìn đều một Mẹ Cha
    Giàu sang nghèo khó đó là tạm đây.

   13.- Biết của tạm kẻ vay người trả
      Thì đừng chia nhĩ ngã sanh rầy
    Hãy nhìn trong một sợi dây
    Khúc lơi khúc nhặt tại tay thợ làm.    

   14.- x Trước Thầy hỏi cả nữ nam
      Mỗi con nào xét hiếu tâm phận mình
        Tu hành quí tại đức tin
      Lời Thầy có dạy có gìn hay không?

  15.-    Có nghe thì có dặn lòng
            Chớ nên xao lãng uổng công cho mình
            Phụ-Từ Tử-Hiếu lưu danh
      Dầu trai dầu gái phải rành là hay.

    16.- Con chung học có một Thầy
        Làm ra chẳng hạp tội nầy tại ai?
            Tam-Tôn Thầy chỉ một bài
          Con nào biết sợ từ nầy mở mang.

    17.-   Đạo nên Đời bớt bạo tàn
        Là trong biết sợ ngoài can gián lần
                Đã nhìn Quân Phụ Sư ân
          Thì lo sửa tập cho gần trọn ba;
        Ước ao con dại cho hòa
      Đừng ham tranh cạnh đó là Đạo Chơn.

Thăng.

******************

CÁI TỤC MÊ TÍN DỊ ĐOAN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 11 âm-lịch 1938 (4 giờ khuya)

-------o0o-------

Nầy các con nam nữ, mỗi đứa có lòng mộ Đạo, quyết chí theo Thầy, xin ráng nghe Thầy dạy đây mà tự xét.

Nầy các con! Kể từ ngày Thầy chuyển ĐƯỢC nó ra cầm mối Đạo là ngày 15 tháng tư đến giờ, thì trong mỗi con cũng có chỗ vui, nhiều đứa được học nhiều bài vở, đứa thì lo Công-quả Công-phu, Thầy xem thấy rõ cũng có chỗ mừng cho các con đó, song ngặt có một điều là chưa được hòa cùng nhau, là còn tánh chê bai kình chống, nói méo nói tròn, khoe hay ỷ giỏi, chẳng trọn hòa nhau là vậy đó.

Đây Thầy nói cho các con rõ: Hễ tin Thầy dạy Đạo, muốn bực hiền lương thì phải kềm thúc tâm phàm, nhịn nhau nhường bước, bớt việc nói hành, vậy mới gọi là trọn phải đó.

Đây Thầy chỉ thêm cái tục mê tín dị đoan, cho những đứa nào còn sa vào đó ráng nghe mà tự tỉnh, phải nhìn thấy CA ĐƯỢC hiệp nhứt, mà chưa rõ hiệp nhứt ra làm sao? Cứ tưởng thầm cho hiệp nhứt đặng hô phong hú võ, chỉ cọp thành rồng, ngó cồn ra biển, nên cứ ngày đêm tư tưởng cho việc đó đắc thành, đặng hưởng nhờ ân huệ, thật cái thiết tưởng của mỗi đứa đó rất sai lầm, nên phải chịu lao tâm mà không nên việc, tại vậy nên ít lo học hỏi, để ý ngó chừng, rồi có đứa đợi lâu ngày ngã lòng thối bước, Thầy quá thương hại cho những đứa đó, mảng mê phép lạ mà chưa rõ thiệt hư, nên phải chịu đành phủi công tu niệm.

Đây Thầy giải nghĩa cho những đứa đó nghe, kể từ xưa đến nay, những bực Thần Tiên mà có tài hay phép lạ, để tiếng lại đời nầy, coi theo truyện thơ mà nhắc nhở, đó là người đã đặng tiêu diêu khoái lạc, khỏi ở dương trần, tới lui thong thả, muốn có thì có, muốn không thì không, đó là đã mãn kiếp rồi, song những vị ấy trước đều tu như ngày nay Thầy dạy các con đây, là phải lập xong danh phận, trên vưng lịnh Thiên-Tài rồi làm ra hạnh đức, lấy hạnh đức đó mà ban bố ra cho đời tỉnh gọi là Nhơn hòa, hễ Nhơn hòa thì thắng bạo, nếu bạo tàn không thắng được thì đức lợi tự nhiên, đó là không dạy tài hay phép lạ, bùa chú dị đoan, mà được an hòa, thì đó gọi là thạnh đức, nếu một kiếp làm như vậy cho được hoàn toàn, rồi qua cho đến Đại-Thành thanh tịnh, thì tâm tánh vẫn hư không, chừng ấy mới có thể làm ra các điều của mỗi con tưởng đó.

Đây Thầy hỏi có đứa nào làm được như mấy lời Thầy nói trước đó chưa, nếu chưa được thì lo tu theo lời Thầy dạy hiện giờ đây, đặng cho an cư lạc nghiệp, cộng hưởng hòa bình, đó là một điều vui chung cho cả Hoàn-cầu Thế-giái, còn việc ao ước như lời Thầy quở răn đó thì bỏ quên đi, những đứa nào không nghe, Thầy quá thương cho có ngày mang hại.

Vậy con biểu Hội-Thánh in ra cho nhiều gởi cho các nơi đặng cứu vớt những người nào biết hối ngộ.

Thăng.

******************

PHẢI CHỊU HẠ MÌNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 7 nhuần âm-lịch (1938)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói cho KHANH nó rõ, nó chớ nên than thở tuổi già tác yếu, nhọc sức lao tâm, mà vội quên mình là tôi Tạo-Hóa, kìa nó thử xem muôn vật ở trong Võ-Trụ nầy, thảy thảy đều cũng giữ theo bổn phận mà làm, làm đó đặng chi? Có phải là làm đặng trả ơn cho Tạo-Hóa không?

Nay Thầy cũng vì luật Công-Bình mà cũng tùy theo thời cuộc, nương máy Tuần-Huờn nên mới để Sa-Giang là yếu trọng, hễ yếu trọng thì phải có người làm chủ cho vững vàng đặng chống ngăn tà mỵ, mà lo dìu dắt chúng sanh đặng một ngày kia trở nên là một nơi Linh-Địa, hễ là Linh-Địa thì phải có Chơn-Truyền, bởi vậy nên Thầy lo sắp đặt tại đó cho hoàn toàn, nên Thầy tính cho Hàng-Long tá lâm truyền Đạo là vậy đó, đã biết ngày nay tuy nhọc việc đó thấy rồi, nhưng nó phải xét, có nhọc mới có danh, có danh rồi nương danh mà lập thế, lập ra cho có thể là do máy tạo thành trung thế tạo, thành là thành qui vị Thiên, muốn làm cho tận thiện thì phải chịu hạ mình, trong cách hạ mình sẵn có Thầy ung đúc, nó biết có Thầy ung đúc thì phải gia tâm, làm được vậy mới gọi là Tam-Tài giao hiệp, thì lo chi mối Đạo không thành? Nên Thầy thường nói, Đạo thành cùng không thành là do nơi các con muốn cùng không muốn là vậy đó.    

Vậy con biểu CA gởi cho nó đi.

Thăng.

******************

BẤT TRI TẮC VẤN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 11 âm-lịch năm 1939 (4 giờ khuya)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải cho KÍNH nó nghe, trong 4 điều nó xin hỏi Thầy đó gọi là “Bất Tri Tắc Vấn” thì đã phải, song Thầy giải ra cho rành thì buộc nó phải làm cho y theo đó mới gọi là chẳng uổng cái lời của nó hỏi cùng là công Thầy chỉ ra, vì chữ “Bất tri tắc vấn cập tri hồ, tri hồ hành hồ, tri hành hiệp nhứt” đó là lời Thầy nhắc cho nó hay, sau đây Thầy giải nghĩa ra cho nó rõ trong 4 điều xin hỏi đó.

Câu thứ 1: Thiên mạng vị chi tánh, xuất tánh chi vị Đạo, đó là tánh mạng song tu, nghĩa là tánh của Trời phú cho mỗi người ban sơ là sự sáng, nên mới biết học biết hành, song có học mà hành chưa đúng theo chỗ học đó, nên nhà Phật gọi là “Tu-Hành”, Nho gọi là “Học-Hành”, Đạo gọi là “Lý-Hành” thì trong đó thảy đều noi về một chỗ.

Còn Thầy dạy “Tánh mạng song tu” thì phải nhớ lời nói sao thì buộc phải làm y, cả hai đều gọi là tu cho trọn, nên chẳng dám nói dối cùng là không dám nói cho quá nhiều lời, thì e cho làm không trọn, hễ làm trọn thì tánh mạng thành, tánh là của Trời ban, mạng là vưng lời làm cho trọn, đó là tùng mạng thuận Thiên, làm cho đặng gọi là hòa lý.

Câu thứ 2: “Hồn nương với Xác”, chỉ tắt và rẽ cho dễ hiểu: Hồn là hơi thở, Xác là cái thân đây, hoặc Hồn là máu, còn Xác là thịt xương, cả hai đều có riêng nhau đặng lo làm phận sự. Còn về phần hành Đạo cho đúng Chơn-Lý chỉ ra cơ thể thì Hồn là Hiệp-Thiên-Đài, Xác là Cửu-Trùng-Đài, thì cũng phải nương nhau đặng dò theo cơ Tạo-Hóa.

Câu thứ 3: “Thầy đâu con đó”, nghĩa là: Tâm thường nhớ lời Thầy dặn bề cư xử như thể lòng Trời, đó là Thầy dạy đâu con làm theo đó, nên gọi là theo Thầy.

Câu thứ 4: “Con đâu Thầy đó”, nghĩa là cái Xác nầy là Xác của con nương nhờ cha mẹ của phàm mà tạo thành cơ thể,  còn trong thì có một điểm Linh-Quang gọi là Hồn hễ cái Xác thân nầy, mỗi việc đều Định-Tâm mà xét, đó là chỗ hỏi Thầy, nên gọi là con làm tới đâu, hỏi Thầy tới đó, là chỗ hỏi Lương-Tâm, định nhằm một lý, là buộc cho phải trọn lòng thương, mới gọi là Trời chung trong Một là vậy đó, làm được như các lời nói trên đây gọi là “Tu Tâm dưỡng Tánh”. 

******************

THẦY CÓ 4 CÁI TÒA-THÁNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 7 nhuần âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải gởi bài của ĐIỀN đó cho CA nó coi nó sửa lại chút ít, đặng nó in ra cho Đạo rõ, vì từ khi Thầy ra vấn đề nầy đến giờ, chưa có ai tìm cho ra.

Nay vì ĐIỀN nó cũng có dày công học Đạo nên nó mới tìm ra.

Vậy con biểu CA nó in rồi trả lại cho ĐIỀN một bổn, còn bao nhiêu phát cho Đạo học đặng mà thức tỉnh.

Thăng. 

Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn
Mở lòng Bác-Ái thương con với cùng
Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi
Xin thương con dại ngu si phàm trần.


       Giáo-Hữu Thượng-Điền-Thanh ở làng Hòa-Định

Con cúi lạy Thầy rộng lượng cho con học, con xin trả bài học Tâm của con dưới đây, hầu trong có Thầy . . . . .

Trong Chuyển-Mê số 9 trương 34 Thầy có nói:

Thầy không phải có một cái Tòa-Thánh...  
Thầy có đến bốn cái Tòa-Thánh,
Ba cái vô hình và một cái hữu hình,
Là 4 cái Tòa-Thánh của Thầy, các con ráng tìm mà hiểu…

- Con cúi đầu bạch:

* Tòa-Thánh thứ nhứt: một cái Tòa-Thánh của Thầy

Bạch-Ngọc-Kinh Điển Linh Thầy rọi
              Hiệp-Thiên-Đài ánh vọi Thần-Phan.

Là chỗ Thầy ngự mà phán xét cả thế gian, tội phước thưởng phạt. 

* Tòa-Thánh thứ hai: Tòa-Thánh tại Tâm của người… để cho êm, cho thanh, cho tịnh, cho trong, cho sáng mà học Đạo-Lý tự nhiên của Thầy họa ra đó, thì mới biết có Thầy nơi Tâm của người.

     Thánh-Ngôn Thầy có nói:

              Cao-Đài vốn ở lòng con đó
            Bỏ tánh Tham Si sẽ gặp Thầy…

Nên trong tâm của mỗi người muốn tính làm bài vở chi, tâm muốn hay là tay viết ra Thầy đều biết hết, nên cái tâm của người đó thuộc về khí Tiên-Thiên nơi Trời.

* Tòa Thánh thứ ba: “Vô-Vi Hiệp-Thiên-Đài” là chỗ thanh tịnh Thầy giao cho Chưởng-Quản, chỗ Thầy để trao các Thánh-Ngôn và ban hành các Thánh-Huấn, đặng đem qua Cửu-Trùng-Đài mà truyền bá Đạo-Lý của Thầy, đặng cho biết nguồn cội của Chơn-Lý.

* Tòa-Thánh thứ tư: Tòa-Thánh Trung-Ương sửa lại là Định-Tường, vì là hữu hình, Thầy để hiệu Định-Tường là nơi Thầy định quyết một chỗ để phán xét tường tận cho chúng sanh ngó thấy rõ sự thưởng phạt của Trời tại thế gian.

******************

RÁNG HẾT LÒNG VỚI ĐẠO

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 1 tháng 1 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Thầy mừng các con nam nữ, cũng vì lòng Đạo-Đức mà chẳng kể chơi xuân theo tục, vậy từ đây Thầy khuyên các con hãy ráng làm cho thêm tỏ rõ các điều cách cựu duy tân, đặng tránh cho qua lần Đại-Kiếp.

Nầy các con ôi! Thầy hết lòng thương mà dìu dắt chắt chiu khuyên nhủ, đặng các con vui lòng bước lần theo con đường Chơn-Lý, mà hiện nay thấy rõ cũng có phần nhiều tuân theo lời dặn, song lòng còn ngơ ngáo, chưa bước thẳng cho đồng, tại vậy nên phải có hồi lặn mọc, là trong lúc Thầy ra lịnh dạy làm Hạ-Hiên Bát-Quát đây. Nầy các con, chớ nên yếu dạ mà tưởng rằng của đó là của riêng, thì khó gần Chơn-Lý, trong cuộc nầy Thầy không cho ép, đó là vì Đạo thì để cho tự xử lấy mình nếu mỗi con mà để trọn đức tin, của đời người tạm, còn Chơn-Lý là vạn cổ lưu danh, thì có đâu là nặng, tại vì trong chỗ có tu mà chưa trọn niệm, tại vậy Tâm Tánh rẽ chia, thì ngày nào cho hòa hiệp? Nếu không hòa hiệp thì Đạo sao cho đặng mở mang?

Đây Thầy nói cạn cho các con nghe, rủi mà các con ở nhằm chỗ vô duyên vô phước, nay chiến mai tranh, thì các con mới liệu làm sao? Đó là Thầy thấy rõ lòng dạ của phần đông mỗi đứa than thở, nên Thầy nói trước cho hay, còn việc tu niệm thì các con xét lấy.

ĐƯỢC, con đem đọc tại Bửu-Điện nghe.

Thăng. 

******************

HỌC ĐẠO-TRÀNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 2 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Nầy các con nam nữ, những đứa nào có học Đạo-Tràng, ráng nghe Thầy phân rành các lẽ, đặng hồi tâm suy xét mà tự cứu lấy mình nghe các con.

Các con ôi! cái tục phàm nó đã nhiễm vào óc của mỗi con đã lâu rồi, cái vàm danh khóa lợi nó ràng buộc các con cũng là có dấu tích rồi, tại vậy nên các con nhiều đứa không quyết học hành theo Đạo, đặng lo dưỡng tánh tu tâm, đứa thì tưởng theo việc đời, học đặng làm quan, làm công nghệ kiếm lương bổng nuôi thân, nuôi gia quyến, đứa thì mơ màng, ngày đêm học đặng cho tới chỗ Thầy đặng ngồi gần Bạch-Ngọc, có đủ chư Thần Tiên ngồi chầu chực, vui vẻ vô cùng, có đứa muốn học đặng Thầy truyền phép lạ đặng làm cho người đời kính phục, trông cho như hồi lúc Da-Tô hay là Thái-Thượng, thiệt các con mỗi đứa nào có lòng trông tưởng theo lời Thầy nói trên đó cũng là phải đi, là cái phải của mỗi đứa tiếc công đặng lường Trời mà quên mình chưa vững đó .

Đây Thầy cũng phân hết lẽ cho các con nghe chung, dầu cho cách học theo đời, đặng cầu công danh phú quí đi nữa, thì trong đó cũng phải có chút lương tâm mới được, nếu ai mà thiếu sót, thì dầu có công lao cho mấy cũng khó trông cho đặng hoàn toàn, còn muốn đến gần Thầy thì cũng không khó, là tại chỗ nghe lời Thầy mà làm theo cho y thì có ngày sẽ đặng, còn đứa ao ước phép lạ như Da-Tô hay là Thái-Thượng thì phải xét lại trong thời cuộc đổi dời xây chuyển, rồi sẽ thở than, nghĩ vì trong lúc Da-Tô giáng thế, hay là Thái-Thượng hóa kiếp Lão-Đam, cả hai đời đó đều còn quê tiện hơn thời cuộc hiện giờ đây, nên Thầy mới cho làm phép lạ đặng chỗ nầy đi qua chỗ kia cho mau lẹ, chớ hiện giờ đây đã đủ các thứ vận tải giúp vùa cho mỗi con đường đi nước bước, lui tới lại qua cũng đều mau lẹ, ngặt có một điều là các con phần đông không biết thương nhau, nương lấy cái hay đó mà toan mưu giết lẫn, sẵn của mà chẳng lo tu, ỷ có tài mà không thương kẻ dốt, tại vậy nên Thầy lo thúc kềm tâm tánh hằng ngày là nơi Đạo-Tràng dạy dỗ đặng cho các con đứa nào nhiễm đặng mà quên lãng cái tục phàm đặng tránh khỏi bước đường tội lỗi hiện giờ đây, các con phải hồi tâm cho sớm đặng tự cứu lấy mình, chớ nên quá vọng ước mơ mà làm cho đến đỗi Thầy đau lòng thì các con khó mà thoát ra cho khỏi khổ.

Vậy Thầy giáng đàn giờ nầy đặng phân rành hư thiệt chỉ nẻo đem đường tự ý mỗi con muốn cứu mình thì nghe theo, muốn hại mình thì không kể.

ĐƯỢC, con giao lại cho CA in ra đọc tại Đạo-Tràng và gởi cho các nơi đọc cho Đạo nghe mà tự xét.

******************

KIẾP MẬU-DẦN ĐẠI-THÀNH ĐẠI-KIẾP

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 12 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Kể từ ngày Thầy đem con ra hành Đạo đến giờ thì đã đặng một năm, đó là ngày lãnh trao Chơn-Lý, Thầy thường nói với mỗi con, trong kiếp Mậu-Dần khó khăn nhiều nỗi, song con chưa hiểu kiếp Mậu-Dần là bao lâu? cũng còn nhiều đứa chưa hiểu như con là khác.      

Đây Thầy chỉ cho con nghe, từ lúc Thầy khai Đạo tại Tây-Ninh, rồi chuyển đến Kiên-Giang, đó là Tiểu-Kiếp Trạch-Thành, rồi từ Nhâm-Thân lập Thánh-Tòa, CA lên cầm quyền Chưởng-Quản với PHÙNG, đó là lập Trung như tuần Đại-Kiếp là một cơ bí mật, bực Hiền khó mà quyết đoán, đặng đem qua Mậu-Dần là Đại-Thành Đại-Kiếp, vì từ năm Mậu-Dần đây kể tới năm Đinh-Hợi, đó là gối đầu chữ Mậu, ấy là một kiếp Mậu-Dần là vậy, gọi là Thập-Can trong đó có Thiên-Can Địa-Sát ở ẩn theo nhiều đặng khuấy Đời phá Đạo; hồi đó Thầy sai PHÙNG ra lãnh trách nhậm, Thầy có dặn nó như vầy mà nó không nghe, cứ việc hiu hiu tự đắc, nên Thầy giảm lộc cho nó hưởng có ba năm mà không trọn, ấy cũng là một nỗi éo le cho sanh chúng, kẻ kết thảm người ngậm hờn, mà chưa hay chuyển kiếp.  Nay đã đúng thời kỳ Thầy phải bổn thân dạy Đạo, nên chỉ rành cho con rõ.      

Vậy từ đây, con phải giữ y theo lời Thầy, đừng có than phiền chi nữa, việc đến còn nhiều áo não, con đã thấy rồi dầu cho đến thế nào cũng có Thầy che chở, đó là một kiếp lập xong danh phận cho phối thuận Tam-Tài, vững an nhơn vật thì có phải dễ chi đâu? Trong một nước Nam mà đã 13 năm rồi còn chưa đặng vẻ vang một chỗ, huống hồ gì nói chuyện cao xa, đó là tại phần đông cũng có chỗ tu, mà chưa rõ sao là tu quyền, sao là tu thế, sao là tu giỡn, sao là tu chơi? Đã biết vậy mà không chịu tìm Chơn-Lý mà học cho rành, đặng thoát thân ra khỏi tục.         

Thầy thiệt cũng quá buồn cho bọn nghịch Thiên mà lại khoe tài ỷ giỏi, có thân mà chẳng biết lo thân, cứ tư tưởng những điều quấy mỵ, nay trông tháng nầy, mai đợi ngày kia, rồi thỏn mỏn bỏ tu hành, cũng trở về nơi tục. Ôi thôi! nói sao cho hết, than thở không cùng, ấy là tại cái ý riêng của bọn nó làm thì bọn nó chịu. Vậy thì con cũng nên khỏa lấp trong các việc ưu sầu về việc gia thê đái tử, lần lần lo Đạo cho xong, hễ Đạo xong thì việc chi cũng rành đặng, đó là Thầy vì quá thương mà chỉ trước dặn sau, đặng con lo làm cho trọn, việc chi trong đó có Thầy chỉ cho, khó là tại nơi lòng quyết cùng không quyết.

Một ngày qua, một tháng lụn, hễ quyết chí tu hành thì Đạo-Đức cao siêu tinh thần phát triển, việc ấy con cũng đã hiểu rồi thì có chi đâu mà phòng than thở.

Vậy con giao lại cho CA đặng đọc tại Đạo-Tràng ngày 30 nầy cho Đạo nghe, hoặc ấn hành vào Đuốc-Chơn-Lý ngày Xuân tới đây, cùng là gởi cho các Thánh-Thất rõ sau khỏi trách Thầy sao không nói trước.

******************

DẤU THỎ ĐƯỜNG DÊ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 6 âm-lịch 1943 (7 giờ tối)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nó lại cho CA nó hay, trong lời nó hỏi con “Dấu thỏ với đường dê” đó, thiệt là buổi hiện thời khó đem ra mà nói cho cạn.            

Vậy Thầy chỉ cho nó coi mà biết, là qua năm Mậu-Dần rồi tới năm Kỷ-Mão, Thầy cho bài học ngày Xuân là: Năm nay đã mãn Mậu-Dần, thì đó là làm dấu trong năm đó gọi là dấu Thỏ, đường Đạo đi cho tới năm Quí-Vì là đường Dê, trong năm Quí-Vì nhiều nỗi khó khăn, nếu ai muốn khỏi lạc dấu tu hành, thì cứ bài Thầy cho năm Kỷ-Mão, cứ theo dấu đó ghi lòng đừng cho sái, thì năm Quí-Vì sẽ được vui về phần Đạo-Lý, Thầy nói vậy thì nó cứ đó độ ra rồi hiểu chuyện sắp sang về tới.

Vậy con giao lại nó coi rồi in ra dán Đông-Lang, Tây-Lang, đặng Đạo chép ra mà học. Còn Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất đọc Đạo nghe cho rõ.

******************

ĂN CHAY ĂN MẶN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 7 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Nay mấy đứa nó luận giải thanh trược mà chỉ về chay mặn, theo món ăn đó con liệu sao?

- Bạch: việc đó con chưa dám để tâm vào, cúi xin Thầy dạy.

Nầy con, con không để tâm vào đó thì phải, vì nó là món ăn thuộc về vật chất, ai dùng cách nào cũng được. Nhưng mà khác hẳn là phân biệt, hễ người thường trụ tại chùa hay là Tòa-Thánh thì phải dùng chay là phải, còn phần riêng của mỗi đứa thì phải coi theo chứng bịnh của mình mà điều dưỡng, chớ nên quá ép mà làm cho các món đó nó phạm đến ngũ tạng rồi thành ra chứng bịnh lao thân. Đã biết vậy mà người muốn tu hành thì phải năng dùng đồ chay mới có thể tu hành được, ấy là mượn cái món ăn đó nó nhắc nhở cho biết trong mỗi ngày mà kềm thúc tánh phàm, hai nữa khỏi dùng rượu thịt thì tránh khỏi sự rầy rà mà hóa ra tranh đấu.

Từ nay sắp lên, chẳng nên nói sự ăn chay ăn mặn mà gọi là thanh trược, rồi hóa ra vì món ăn mà công kích chê bai, đó là vì đua chen so sánh sự ăn mà sanh lòng ác cảm. Đạo của Thầy dạy là: Tùy thời biến diệc, tùy ngộ nhi an, tùy cơ ứng biến, biến như vô vọng, biến thử thành an, an nhi năng tịnh, tịnh dục vạn loại quần sanh, đắc thỉ chơn truyền, cứu nguy tế khổn, độ chúng qui hồi, do kỳ trung nhi hành kỳ ngoại, cảm ư tịnh nhi ứng ư thanh, dụng hành hữu trược, trược tẩy huờn thanh, thanh qui ư vị, do vị di quyền, do quyền nhi hóa, do hóa nhi thành, thành tựu lưỡng toàn, chi nhi bất tuyệt, hữu sanh hữu diệt, hữu trược hữu thanh, thanh trược bất tranh, thành do ư thiệt, lập công tiêu nghiệt, phi chấp thức nhi thành thử thị vạn an chi bí dã, nhĩ khả tri hồ.

Con giao lại cho chúng nó coi đi.

Thăng.

******************

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 11 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Hiện nay trong phần đông có nhiều đứa cho ăn chay là phải, cũng có đứa cho ăn mặn là trúng, vậy con luận lẽ nào cho phân biệt, thì con cứ việc bạch ngay cho Thầy nghe, con trả lời đi …

- Bạch: theo lẽ con biết thì việc chay mặn đó là để phân biệt Đạo với Đời khác nhau, còn sự phải cùng không ấy là do theo lý mà quyết định.

Nầy con, nói đó là theo chỗ biết của con, chớ lấy cho thiệt lý thì không phải dùng chay mặn mà phân biệt Đạo Đời. Con xét đó coi, cũng có nhiều đứa chưa vào Đạo nào hết, mà cũng lo tập ăn chay đó, rồi con liệu sao? Con chưa rõ điều ấy rất nên khó khăn hơn hết, nên Thầy không biểu con sửa Kỷ-Luật chi cho mất ngày giờ.

Đây Thầy chỉ rành cho con rõ, cái việc ăn chay mà lo tu niệm là lẽ cố nhiên, còn đứa giả dối mà tập ăn chay, đặng bày điều gạt gẫm phần đó lại nhiều hơn cái phần ăn chay mà tu niệm. Vì tại đó nên Đời với Đạo khó mà phân biệt cho rành, tại vậy nên Thầy phải hạ mình cho đến đỗi đứng ra làm Giám-Đốc mà chỉ dạy Đạo-Tràng đặng cho Đời mau nghe thức tỉnh, như ai quyết tu thì phải học, còn không học thì thấy đó mà phân biệt. Trái lại nhiều đứa có học, có ăn chay mà không chịu làm là khác nữa, tại vậy nên khó mà sửa cho rành. Đã biết vậy chớ luật Thiên-Nhiên cũng là lo sắp đặt dành riêng có chỗ, giả thiệt có phần, mà bọn đó không rõ, nên mới dể ngươi như thế.

Đây Thầy nói qua việc chay mặn cho con nghe: từ xưa nay, hễ có Đạo dạy tu hành thì cái sự kiêng ăn, cấm sát sanh thảy đều là một bài học đứng đầu trong các việc, song không có bó buộc, ít nhiều tùy theo sức mà làm trọn, còn kỷ luật trong khoản ăn chay đó, Chưởng-Giáo cũng nói như khoản nầy, song KIÊN với PHÙNG nó muốn thêu dệt cho nhiều đặng làm cho người rộn trí, hai lẽ nan phân, đặng nó binh vực cái xác phàm của nó. Tại vậy nên từ ngày ban hành Kỷ-Luật đến sau, hai đứa nó phải giảm tinh thần mà nó không biết, đó là Thầy phạt hai đứa nó đó.

Nay tới thời kỳ con ra gánh vác, Thầy cũng có nhiều khi nhắc nhở, con cũng vì quá sợ sự mang tiếng mà bỏ qua, tại con không nghe lời Thầy nên trễ lắm làm cho nhiều đứa đổ thừa cho Kỷ-luật dạy ăn mặn.

Nay con đã biết lỗi, vậy con phải nói cho CA nó hay, phải dán Bố-Cáo tại Đông-lang, Tây-lang. Kể từ ngày nay sắp lên, không ai được phép nói Kỷ-luật của Thầy dạy ăn mặn nữa, khoản đó phải bỏ trôi, chớ nên đem ra mà diễn giải; vì việc đi tu, ăn chay là lẽ thường, khỏi lo nhắc nhở. Còn mấy chỗ éo le trong đó Thầy cũng có dạy con rồi, như gặp dịp nào nói đặng thì con đem ra nói cho rành, chớ không nên giải chi nhiều vô ích.

Con biểu CA gởi bổn nầy cho các chủ Thánh-Thất truyền bá ra cho Đạo. 

Thăng.

******************

TU HÀNH ĐẶNG TỰ CỨU LẤY MÌNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 9 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Nầy các con nam nữ, dầu Đạo dầu Đời, ráng nghe Thầy hỏi đây mà tự xét, trong đó đứa nào xét đặng, nghĩ nhằm làm cho trúng thì đứa đó tự cứu lấy mình. Nghe Thầy hỏi đây không có điều chi lạ, song chẳng rõ các con có nhớ không? Kể từ Vô-Thỉ đến giờ, Thầy cho Tam-Tông, Tứ-Thánh, Tam-Trấn, chư vị Thánh Thần giáng thế truyền Đạo cứu Đời cũng là nhiều kiếp, sách ghi chép để lại chẳng biết mấy pho mà kể. Trong đó có lẽ mỗi đứa hiểu đặng ít nhiều, hoặc là các lời sám-ngữ, mấy tiếng tiên-tri, kể ra cũng là nhiều lắm. Mà hiện nay Thầy hỏi lại các con, mỗi đứa muốn tu hành đặng tự cứu lấy mình thì rất phải, song hỏi lại người cứu đó là ai? Người đó ở đâu, tên gì? Các con có biết không? Nếu biết sao không tìm người đó mà nương dựa? Nếu không thì đi tu đây chi? Tu đặng cầu danh hay thủ lợi, hay là kết đảng, kết phe? Hay là rủ nhau làm cho nhơn tâm bất phục? Tu vậy gọi là cứu mình hay sao? Còn nói rằng không chịu làm quấy, vậy chớ làm phải là làm sao? Ai dạy phải cho mà làm? Cái phải đó ở đâu mà ra? Ai làm ra cái phải đó? Có nhiều đứa cũng biết nói tại tâm, thiệt là đúng lắm, song nói đó cho có chừng, chớ lời nói một nơi còn công việc làm thì một ngả, chẳng khác nào người đui mà không chịu cho người sáng dắt, cứ nghe tiếng nói theo, chắc có ngày cũng sa đường gai nẻo gốc.

Các con nhớ cho kỹ, từ xưa đến nay, những bực giáng sanh cứu thế thảy đều dạy đời có một chữ Tâm là đủ, mà trong đó phải biết rằng muôn ngàn lời nói phải, cả các việc làm lành cũng đều do các lý thiệt tâm đó mà ra, thì buộc mình phải nhìn Tâm đó cho kỹ, coi có sai siểng điều chi không? Mà được phát minh như vậy? Nếu Tâm đó không sai siểng mà đặng phát minh thì phải cứ đó đi theo, gọi là trúng chánh lý độ đời. Còn như Tâm đó không thiệt mà cũng gọi là phát minh thì sự phát minh ấy nó sẽ có ngày trở lại hại mình cho thêm khổ, rồi làm sao mà tự cứu lấy mình. Các con nhiều đứa nghe qua cái tiếng tự cứu lấy mình thì có ý mừng thầm rằng chắc mình đây lo đặng có trường sanh linh dược hay là Thầy cho huyền diệu phép mà nên mới gọi là tự cứu; thiệt là nhiều đứa quá mê nên lầm mà chưa rõ, lại thêm có tánh hiu hiu là khác nữa. Vậy các con ráng nghe cho rành, ráng nhớ cho dai, đừng bỏ qua thêm hại nghe, mấy đứa bị án đó cũng vì tại ỷ mình mà mang tội lỗi đó thấy chưa?

Cái tiếng tự cứu lấy mình là cho biết tự tâm sám hối, rồi phải rõ nhờ đâu mà được tự tâm sám hối đó thì phải do theo chỗ đó mà liên kết cho đồng tâm, đặng coi chừng mà xây theo cho kịp, đừng cho lơ lãng, giờ khắc phải kềm, mỗi đứa đã thấy rõ rồi sao lại còn trông mong điều chi khác nữa. Nếu các con rõ đặng nhớ hoài, thì các con chớ nên lo mưu đánh đổ bức tượng Trái-Tim mà đau lòng Trời, lại có phần chẳng vui cho các con là khác nữa.

Thầy thương để huởn ngày giờ cho các con suy xét, trong ít lâu đây Thầy sẽ cho ĐƯỢC đem bài giải Thiên-Nhãn tại Tây-Ninh hồi trước cho các con coi cho rõ mà tự xét lấy mình. 

Thăng.

******************

CÁI THÓI PHÀM PHU TỤC TÁNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 7 âm-lịch 1939 (7 giờ sáng)

-------o0o-------

Nầy các con cả thảy nghe Thầy hỏi đây rồi tự mình nghĩ lại coi cái thói phàm phu tục tánh của mỗi con nó còn ở nơi mình mỗi con hay là nó đi xa?

Các con ôi! từ xưa đến nay, dầu cho bực Thánh-Hiền Tiên Phật, trước khi cũng có một lòng lo dứt cái thói tục tánh phàm phu, là cái thói ai nói điều lành không biết phục (là LY đó), nghe ai nói mình là quấy hay là sái lỗi, thì không chịu để lòng nghe cho kỹ, nghiệm cho rành (là NƯƠNG đó), chỉ có biết một điều là khôn hơn hết, giỏi hơn nhiều, hiu hiu tự đắc, chẳng nể chẳng kiêng. Thầy hỏi vậy rồi cái lời của Thầy dạy với cái tiếng của mỗi con học đó nó có kết quả vào đâu không? Mỗi khi, hễ các con mở miệng ra thường nói: Biết lẽ phải thì kiêng mới phải, nghe điều hay thì lại mới hay, đó là lời nói từ khi nào cho đến giờ, dầu cho các sám kinh cũng còn dành để, đặng cho người đời hễ nghe hay là đọc, đặng kềm chế cái thói phàm, mà hiện nay trong mỗi con phần nhiều cũng có học, có nghe, có đọc, có biết cũng là nhiều, mà tại sao cái thói phàm phu tục tánh không chịu dứt. Đó là tại sao thì mỗi con tự nghĩ lấy mình, rồi có hổ hay là vui? thì cái sắc mặt của mỗi con nó lộ ra tỏ rõ, đó là Thầy quyết lòng muốn cho mỗi đứa ở thế hạ này được làm hiền ngõ tránh khỏi luân hồi, kiếp sống đây lập thành Quốc-Đạo, khi thác rồi Hồn đặng tiêu diêu, đó là một cái vẻ vui cho Đời cho Đạo.

Vậy mỗi con tự hỏi lại mình muốn bên nào thì nhứt định đi, chớ luật vô tư của quyền Độc-Nhứt thì khó nỗi chế trừ cho những tội nghịch Trời như thế. Đã bấy lâu là phàm phu tục tánh, nay Trời ra khai Đạo, lập thành Chơn-Lý, phá tục sửa phàm, đặng mở mang cho nên Hiền mà lại còn canh cải, thì luật nào mà lại dễ bỏ qua?

Vậy mỗi con dầu Đạo dầu Đời, ở các chi phái nào cũng phải xét suy cho kỹ, đặng lo tự cứu lấy mình, đó là bảo thân chi yếu đó. Chớ rằng Trời cao không thấy, Đất rộng không tường, mà cứ tưởng cho mình là đúng, lại quên rằng Trời Đất là một đấng Cao-Dày, mà thân xác phàm của mình đây là đồ để làm gương cho Đời đặng rõ điều lành điều dữ, báo ứng thưởng răn, kẻ bần người phú, kẻ xảo người lanh, kẻ khôn người dại, cũng thảy đều ở dưới quyền của một Đấng Cao-Xanh lộng lộng đó, mà hiện nay Đấng đó ở tại phàm gian này đặng chi? đặng cho Đời rõ là Trời ra cứu thế, là ra đủ hết các lời châu tiếng ngọc, quở phạt thưởng trừng, đó gọi là ra là vậy đó. Nếu mỗi con biết có Trời ra bài dạy Đạo sửa Đời thì lo thì sợ, thì trong đó sẵn có Thần Lương-Tâm che chở, giúp vùa đặng chỉ ngay con đường hạnh phúc, là chỗ hiệp hòa, còn đứa nào không kể không kiêng thì trong đó cũng có sẵn ác Thần nghiệp chướng chỉ chỗ mê đồ đặng đi vào cho phỉ chí. Tại vì lòng dạ của mỗi con đã được người ta mà chưa muốn trọn, là trong ý tứ không ngừa theo lằn sóng gió, tại vậy nên chưa trọn thiệt người ta là vậy đó. Nếu người ta chưa trọn thiệt thì phải biết lo biết sợ, đặng làm cho đúng thiệt của loài người, vậy mới gọi là tri giác, chớ có đâu chẳng rành lại cãi, chẳng học lại chê, rồi biểu sao cho mình đặng thoát ra cho khỏi cái vòng tục lụy?

Nay vì trong tuần lễ Trung-Nguơn, mỗi đứa cũng có lòng ao ước theo cổ tích gọi là Phật ân xá cứu Đời, tại vậy nên Thầy phải giáng Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi mà cho ra ít lời trần thuyết đặng mỗi con nghe rõ, biết trong đó có Trời hay là có ai, thì tự nơi lòng mỗi con suy xét lấy.

ĐƯỢC, con giao bài nầy lại cho CA đặng nó in ra, để vào kinh, cùng phát ra cho Đạo Đời coi mà tự xét.

******************

TUẦN HUỜN THẾ CUỘC, BIẾN ĐỔI VI NHƠN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 4 tháng 7 âm-lịch 1939 (12 giờ khuya)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: con chưa rõ mấy chữ “Tuần huờn thế cuộc, biến đổi vi nhơn” tại vậy nên con phải lắm lúc vui buồn là vậy đó.

Đây Thầy dạy cho con rõ: Con ôi, ai cũng biết tuần huờn thay đổi, mà thảm thay không chịu tuân mạng Vô-Vi, tại vậy nên phải chịu khổ cho mình, rồi trở lại trách Phật Trời sao không thương, không xét??? Đó là một bọn cãi ngược tham đời, mà không rành Đạo-Lý đó nghe con, chớ chữ tuần-huờn biến đổi xưa nay thường có, mà trong thế cuộc tại vì kẻ tỉnh người mê, nên mới có câu “vi nhơn nan” là vậy đó. Vì kẻ tỉnh được mộng trần thì mau sửa đổi, người còn mê trở lại than phiền, thì cả hai người đó cũng là người hết, mà có chỗ khác nhau, là khác cái nhơn tâm đổi lại Đạo, còn người thì không chịu đổi, cứ lo giồi sửa nhơn tâm, đặng cho thành quỷ ý rốt cuộc rồi không thành tựu chi cả trở lại kêu la nói rằng hết sức làm người mà không được thỏa lòng toại chí.

Ôi thôi! cái than, cái thở, cái khóc, cái la đó thiệt ai thấy cũng thương, mà ngặt cho luật tuần huờn không tư vị đặng, tại vậy nên đành chịu điêu tàn, thảm thê chán ngán, đó là vì đâu? Có phải là vì bẻ nạng chống Trời không? Hiện nay đây thấy rõ mà lòng người cũng còn thói dể ngươi, lại dám hẹn chừng cho qua buổi, tưởng cho rằng lời nói đó không ai cãi với mình rồi cho là đủ, tại đó mà nó dẫn thêm nhiều đứa đi vào cửa ngục quá đông mà trở lại vui thầm cho là tự toại hơn kẻ tu hành là vậy đó.

Vậy con chớ nên buồn, đã biết rằng ai thấy cũng thương, song lại ỷ sức phàm, cãi Trời thì phải chịu, cái thương của con cũng phải, nhưng mà phải bớt cái buồn đặng để tâm trọn hòa mà xuôi theo cơ vận chuyển, trên Thầy dưới bạn, hai lẽ cân đồng, lấy chỗ không không mà làm ra chỗ có là chỗ có nhơn từ, đời yêu theo Đạo-Đức, là nhờ trong mỗi đứa thấy chỗ không mà có, nên biết sợ Thầy không dám cãi, biết thương con không để ý chê cười. Cái đời mà trở nên đời Đạo-Đức là đời đó con hiểu chưa? Còn đời không nên Đạo-Đức là tại chỗ khi thầm mà tổn đức đó, khó bớt cái phàm tâm là tại nhiễm lâu đời, nay đã đành khó dứt, nên Thầy thường nói gọi là yếu trọng chẳng rời là vậy đó.

Vậy con giao lại cho CA đặng in ra phát cho Đạo học, còn ngày Đạo-Tràng hay có nhóm điều chi, thì nó cũng nên đọc tại đó nghe cho rõ. 

Thăng.

******************

XẢ PHÚ CẦU BẦN, XẢ THÂN CẦU ĐẠO

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 11 tháng 7 nhuần âm-lịch 1939 (7 giờ sáng) 

-------o0o-------

Nầy các con nam nữ, mỗi đứa nào thường hay nói cái tiếng “xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo” nói đó thì nhiều mà Thầy coi lại ít có đứa nào hiểu cho hết lý trong đó đặng đem ra mà thiệt hành cho đúng, đặng làm gương cho người khác coi chừng, mà giữ gìn chung trong chỗ tội lỗi, chỉ có học nói đặng chê bai, kích bác, ngăn cản đường tu, cho mình là đúng, đặng kiếm thế cầu danh; đó là học nói cho có nói, tại vậy mà thành thử ra Nho hữu dị đoan là vậy.

Đây Thầy chỉ rành cho mỗi đứa rõ, chữ “xả phú cầu bần” nghĩa là xả các điều vi phú bất nhơn, dầu cho có giàu sang đến bực nào cũng không khoe, không ỷ, hằng sợ chữ bất nhơn, đặng cho mình tránh khỏi điều trược phú; đó là bực giàu mà lòng dạ còn nhớ thương hạng nghèo; cũng tỷ như hồi sanh ra ai cũng là thân không cả thảy, lớn khôn nhờ có phước dư ông bà để lại, đặng hưởng giàu sang, chớ lòng vẫn biết cho mình là con chung của Tạo-Hoá, hằng lo học hỏi Đạo-Lý lễ nghi đặng làm người cho tươi tốt, đó là chỗ cầu bần là vậy.

Còn câu “xả thân cầu Đạo” là chỉ về hạng vua quan danh cao phẩm trọng, vì nước vì dân làm cho tròn phận sự, rồi cũng tìm phương ẩn tích, dưỡng tánh tu tâm đó là cầu Đạo, đó là xả thân, là xả hết các điều thân thể trong buổi cao sang, đặng lo tầm mối Đạo mà tránh cho khỏi mê đồ, nếu còn tham luyến tục danh thì phải chịu đắm sa vào biển khổ; ấy là người có chí thoát tục tầm Tiên là vậy, nên gọi là xả thân cầu Đạo. 

Đó là lời Thầy chỉ rành cho mỗi đứa thấy rõ rồi tự hỏi lấy mình coi có làm đặng vậy hay chưa rồi sẽ nói, chớ thầm tưởng cho là nói, nói đó gọi hay, rồi chẳng hổ với Thần Lương-Tâm thì gọi là nói bướng.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát ra cho Đạo coi mà học, cùng gởi cho các chủ Thánh-Thất đặng đọc cho Đạo nghe đặng rõ điều hư thiệt.

******************

BẤT HIẾU HỮU TAM, VÔ HẬU KẾ ĐẠI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 2 tháng 3 âm-lịch 1944 (4 giờ chiều) 

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho XUÂN QUYỂN nó hay, là câu nó xin hỏi Thầy đó, cũng là nhiều chỗ giải ra nhiều cách. Như hồi Đạo-Chích là một người ăn trộm mãn đời, có sanh được một đứa con tên là Đạo-Sanh, đứa con nầy nó lại không ưa nghề trộm cướp, lại có chí tu hành, theo phường Tả-Đạo, bỏ nhà cửa, vợ con, đặng thành Tiên cho sớm, tránh khỏi nợ trần, đó là tham Đạo. Mỗi khi Đạo-Chích xúi đi ăn trộm về nuôi mình, thì đứa con đó không chịu vưng lời, nên Đạo-Chích viện câu của Thầy Mạnh-Tử nói đó mà làm tội cho con; sau đứa con đó bỏ Đạo-Chích mà theo Tả-Đạo, rồi lại không chịu cưới vợ, thành ra ba cái tội:

Một là không vưng lời cha mẹ, là xúi đi ăn trộm đó, với tội bỏ cha mẹ là hai, tội không có con nối đời về sau là ba. Đạo-Chích mượn tiếng nói của Thầy Mạnh-Tử, mà không rành lý Chơn-Truyền, đem ra hô hào bắt tội con; rồi cũng nhiều hạng người nghe theo lại cho là phải, chớ lời Thầy Mạnh-Tử nói như vầy: “bất hiếu hữu tam, vô hậu kế đại”, nghĩa là Thầy Mạnh-Tử để lời than là biết cái phận làm người đứng trong Tam-Tài thì phải cho trọn Thảo với Trời Đất đặng nối Đạo-mầu cho đời được thái bình, vì người thấy rõ Đạo-mầu tới người biết đó, thì ngoài người ra không còn được người nào biết nữa, thì chắc cả thế gian phải chịu tội chẳng trọn Thảo với Trời Đất. Rồi từ đó về sau Thầy Mạnh-Tử qua đời, Đạo-mầu thỏn mỏn, ai nói sao cũng được, phe đảng mạnh là hơn. Tại vậy nên nhiều người quá mê đi tìm thuốc uống cho có con, hoặc là vợ lớn không con kiếm vợ bé cho có con, lần lần thành ra tà dâm nịch ái, là nhiều khi không phải thiệt con của mình, mà cũng đem vào đặng nối dòng; rồi vì đó mà hai giống cho hư là do tại đó, chớ có con cùng không là tại phần của mỗi người, đem vào tội bất hiếu sao được? Còn một lẽ nói cho nhằm Lý là như cha mẹ hiền từ mà con không nghe lời, đó là tội cãi cha mẹ, nghe lời vợ hoặc là ăn chơi mà bỏ cha mẹ, không nuôi dưỡng, không giữ gìn nghề nghiệp phải của cha mẹ đặng nối điều lành, trở lòng nghe theo điều quấy, thì cũng là ba tội bất hiếu đó, mà phải cho nhằm Đạo-Lý kia, chớ Thầy Mạnh-Tử than trước đó là cái hiếu làm người đối với Trời Đất cho xứng đáng Tam-Tài, chớ nào phải là việc nhỏ đâu? Thầy nói đó rồi xét coi trong thiên hạ hễ bất hiếu với Trời-Đất, làm sái hạng Tam-Tài, thì có đâu là bình yên vui vẻ đặng? Vì đó nên Thầy Mạnh-Tử mới than, vì Người cũng là bực Thánh nên Người mới thấy xa như vậy.

Đây Thầy cũng cho ra ít đoạn văn vần đọc nghe rồi xét. 

THI

1.- Nầy trong Đời Đạo xét vầy
Xét coi mình có thân nầy để chi?
Có thân thì có nhơn nghì
Là thân người phải xét suy vận thời.

2.- Phải nào thân đó để chơi
Ngày đêm giồi tập lõa lơi cang cường
Ỷ mình nhiều của phô trương
Ỷ mình khôn quỷ tính lường gạt ngu.

3.- Gọi là đời sống sánh đua
Mà không dè vướng tội đưa tới cùng
Tiếng thường nhơn loại nói chung
Gạn ra phần đúng thiệt dùng mấy ai.

4.- Cứ mê lời phỉnh đặt bày
Còn trong Đạo Chánh lấp tai chê đành
Cho nên lời phải khó rành
Viện điều phi lý giựt giành cầu cao.

5.- Tới nay thấy rõ Đạo-mầu
Còn chưa chịu xét người đâu trọn người
Người trong cuộc thế Đất Trời
Người quên dòm lại tấc hơi vắn dài.

6.- Mảng ham màu sắc bề ngoài
Trung trung hiếu hiếu đặt bày quá đông
Vì chưng lòng chẳng thẹn lòng
Nói ra thì nói lời không xét lời.

7.- Biết sao thế hạ con người
Nói ra nào kể Đạo Trời là chi?
Cũng vì người quá tự khi
Cũng vì không học luật qui Chơn-truyền.

8.- Nghĩ xưa là bực Thánh Hiền
Còn lo bất hiếu sự nguyên bổn thành
Chép ghi lời nói để dành
Người sau ít học đâu rành nghĩa thâm.

9.- Tưởng cho nói bướng là nhằm
Rồi đua nhau chịu nhiều năm lỗi lầm
Gạn lời cần hỏi lại tâm
Tội chi bất hiếu đó làm người nên?

10.- Mẹ Cha cúc dục lo đền
Trời cao Đất rộng đừng quên tấc lòng
Buổi đời thường xét đục trong
Tấm thân đừng vấy bụi hồng mới cao.

11.- Hiếu Tâm nào luận nghèo giàu
Xử bề cho vẹn, hạng nào cũng vui
Nghĩ thầm phàm tục khó nguôi
Dốt không chịu học trải mùi tại kiêu;
Cho nên nhiều vướng tội nhiều
Ngày nay Thầy chỉ dò theo thấy rành.

******************

ĂN MẶN NÓI NGAY, ĂN CHAY NÓI VẠY

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 6 âm-lịch 1942 (3 giờ chiều) 

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho LUẬN nó hay rằng: cái tiếng của người thường hay nói: “ăn mặn nói ngay, ăn chay nói vạy”, đó là người không ưa ăn chay rồi học lóm mà nói ra đặng người ăn chay nhẹ tánh nghe vậy rồi không dám ăn chay, đặng ăn mặn cho đông người, là có giành giựt cái tiếng nói ngay đó, chớ hỏi những người đó tại sao mà có tiếng nói vậy thì chắc ít ai hiểu rành.

Vậy đây Thầy cũng vui lòng chỉ cho LUẬN nó rõ, cái tiếng nói đó là hồi nhà Lê trị nước hay tập săn bắn, một ngày nọ có hai vị công tử là con nhà quan đi săn, gặp một con thỏ có chữa, lại có ý mừng, muốn bắt sống đặng đem về mổ lấy thỏ con ở trong thai đặng chưng ăn cho bổ, nên áp rượt con thỏ, con thỏ chạy quẹo qua gặp một cái chùa Phật rồi chạy tuốt vào trong chùa, hai vị công tử rủi bị té, chạy không kịp. Trong chùa, mấy vị sãi thấy con thỏ có thai mà chạy trốn lại có tiếng người ta rượt, nên cũng để cho con thỏ trốn đó, trong lúc đó lại có một người ở ngoài vào chơi cũng thấy vậy; mấy người sãi nầy quyết cứu con thỏ cho sống, nên chừng hai vị công tử vào chùa hỏi mấy người sãi có thấy con thỏ chạy vào đó không? Thì mấy người sãi trả lời rằng không thấy, rồi hai vị công tử ra về, có ý không vui, nói chuyện với nhau tiếc vì con thỏ có chữa phải bắt đặng ăn bổ khỏe lắm; thì trong lúc đó người vào chùa chơi thấy con thỏ trốn đó, rồi cũng đi ra về, khi nghe hai vị công tử nói vậy, lại có ý muốn ăn chung cho bổ nên nói nhỏ với hai vị công tử rằng: nếu hai ông cho tôi ăn với thì tôi chỉ giùm cho; hai vị công tử chịu thì người đó mới bảo rằng: con thỏ đó nó trốn sau vách chùa, tại mấy người sãi không muốn cho hai ông bắt nên nói dối. Hai vị công tử nghe rồi trở vô, ra sau vách chùa thấy quả thiệt con thỏ nằm đó, nên áp lại bắt trói rồi hô lên rằng: “người ăn mặn nói ngay, người ăn chay nói vạy”, là tại duyên cớ đó rồi đồn lây ra hoài, mạnh ai nấy nói, vì dựa thế con quan, nói nhiều hơn nữa. Đó là vì sự thương mà phải mang tiếng đời chê vạy, chớ nào phải người ăn chay mà nói vạy hết bao giờ? Còn người ăn mặn là nói ngay hết hay sao? Nếu nói càng như vậy, thì tại thế đây mấy người bị hành phạt, kẻ tội nầy người tội nọ, đó cũng là tại ăn chay hết hay sao?

Sự tích đó lâu đời, Thầy chỉ ra cho hiểu đặng LUẬN nó khi nào gặp ai nói vậy, hỏi thử cho rành coi có ai biết được như lời Thầy nói đó không? Còn việc tu hành thì phải cho bền tâm vững chí, hơi nào mà nê cố sự ghét thương, Thầy chỉ đó hiểu rành là tại do vì vậy.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho LUẬN.

******************

HÀNH CHÁNH ĐẠO, DƯƠNG DANH Ư HẬU THẾ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 13 tháng 9 âm-lịch 1941 (1 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe theo lời Thầy giải nghĩa mấy chữ trong bài Giác-Mê-Ca của TRỪ đặng viết ra gởi trả lại cho mấy đứa ở Ngọc-Phát ráng coi mà độ xét.

- Bạch: con vâng theo lời Thầy.


1.- Hành chánh Đạo dương danh ư hậu thế
Tám chữ nầy không dễ ráng tu
Trước là thân thể phát phu
Thọ chi Phụ Mẫu hiền ngu cũng người.

2.- Người lo xử Đạo người cho đúng
Đúng là do sở dụng theo thời
Đặng nương đó lập ra Đời
Đời nên người thiện nhờ nơi biết hành.

3.- Hành là chánh đạo sanh hòa hảo
Hảo Nam-Bang nền Đạo rất mầu
Một lòng cho vững dạ lâu
Là lâu bền trọn, nhớ câu mạng Trời.

4.- Dương danh thiện Đạo Đời tín ngưỡng
Ư hậu là thế nhượng thuần khiêm
Gọi là trong vững ngoài êm
Hành chơn chánh luật Đạo nghiêm là thành.

5.- Dương danh Đạo học hành cho đúng
Đặng tùy cơ ứng dụng không lầm
Lưu truyền dầu mấy ngàn năm
Cũng do hành chánh Đạo-Tâm vô tà.

6.- Ư hậu thế người ta nhìn đó
Nhìn đó noi lần bỏ tục phàm
Hiện giờ dầu nữ dầu nam
Nhớ câu hành chánh Đạo hăm hở mừng.

7.- Mừng vui tại vì vưng Thiên-mạng
Thiên-mạng là sửa đặng bình an
Chớ nên giành lấn tu càn
Là tu càng bạ theo đoàn lũ mê.

8.- x Đây bài Thầy giải Giác-Mê
Nội trong tám chữ gồm nghe rõ ràng
Có thân có thể không màng
Phát phu không trọn tội càng lớn lao.

9.- Muốn hành chánh Đạo về sau
Trước đây cần tập giồi trau nết hiền
Kim tùy cổ hạnh nào riêng
Tại lòng mê muội cứ quyền lợi tham.

10.- Cho nên phàm quá tệ phàm
Tục thêm tồi tục tu lầm nỗi tu
Buổi nầy Thầy dạy phá ngu
Thì do Chơn-Lý bề nhu nhược bền.

11.- Sau lần thân trọn rành nên
Nhờ tuân Đạo Chánh Lý quên tự cường
Trước sau nhìn nhận một đường
Đồng vui vẻ phận Thiệt Thường Tin hay.

12.- Phận tu nào phải một ngày
Một ngày ngày một nhớ hoài sự chơn
Một lần thân một ngày hơn
Một gìn lo vẹn một cơn lánh nàn.

13.- Kêu là hành chánh Đạo an
Dễ chi mà gọi nói ngang đặng nào?
Biết cần biết sợ thì cao
Dể ngươi thì thấp hạng nào cũng đây.

14.- Một câu hành chánh Đạo nầy
Nhiều tay có đọc còn hay chẳng nhiều
Đọc nhiều đặng trổ mòi kiêu
Khoe mình hành chánh bấy nhiêu gọi rồi.

15.- Đó là biết đọc vậy thôi
Chỗ làm không trọn nên sùi sục hư
Bởi vì không nhớ chí ư
Là nơi trọn lý chí ư thiện thành.

16.- Thánh ghi Hành-Chánh Đạo rành
Là chơn chánh biện điều thanh trược đời
Đặng lo Hành-Chánh sửa Đời
Người thanh bỏ trược nhìn nơi hiểu rành.

17.- Hiểu rành Hành-Chánh Đạo sanh
Là sanh các lý dữ lành được thông
Mỗi con nào sẵn một lòng
Hành theo chánh Đạo thì trong nhớ lời.

18.- Nhớ lời dạy bớt ăn chơi
Ăn chơi bớt đặng thì người rảnh rang
Ngó coi dồn dập tai nàn
Cũng vì trước tại làm ngang cãi Trời.

19.- Phải chi Hành-Chánh thuận thời
Đạo Trung-Hòa trọn bề chơi bỏ lần
Lâu rồi khử cựu hóa tân
Thì đâu đến nỗi nợ trần kéo lôi.

20.- Mỗi con Đời thấy Đạo rồi
Ráng nghe lời trọn cơ Trời vận lâm
Câu Hành-Chánh Đạo diệu thâm
Từ xưa ai trọn được cầm vững lâu.

21.- Cầm trong Lý chánh nhiệm mầu
Vững lâu bền trọn gồm thâu đức hiền
Phận tu nào được phỉ nguyền
Thì không ngoài lẽ Chơn-Truyền độ xa.

22.- Xa là trong Lý nghiệm ra
Độ Đời coi Đạo người ta buổi nầy
Tam Kỳ gồm trọn là đây
Hành y chánh Đạo hội nầy biết chưa???

Thăng.

******************

MỘ ĐẠO VONG BẦN, HƯƠNG ĐĂNG BẤT TUYỆT

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 26 tháng 12 âm-lịch 1947 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

Trong 8 chữ “Mộ Đạo vong bần, hương đăng bất tuyệt”, nghĩa là người biết Đạo-mầu thì ít nhớ sự nghèo cho lắm, hay nhớ sự lễ nghi Đạo-đức, nên chẳng dứt hương đèn. Nếu còn nhớ sự nghèo cho quá, thì trong đó có ý so sánh với sự giàu, hai lẽ có thấp cao, thì ắt phải sanh lòng gian trá, đặng thâu trữ cho nhiều, nên đành bỏ dứt hương đèn, cho rằng là lãng phí; vì thấy mỗi khi dùng thì hao tốn điều huê lợi, chưa có thỏa lòng trong lúc đó. Tại vậy nên người biết mùi Đạo, mến Đức Hiền thì ít hay nhớ sự nghèo cho lắm.

Trong 8 chữ nầy, người thì thích nghĩa vầy, kẻ thì ưa nghĩa khác, rồi làm cho đố kỵ cùng nhau cũng tại bởi không rành lý thiệt.

Vậy ngày nầy là ngày lập Xuân năm Mậu-Tý, Thầy tỏ ra một lời đây đặng mỗi con nào có chí học hành đặng rõ thấu tinh thần 8 chữ nói trên, đặng vững lòng lo phận.

Kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết đến mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, nắng trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ mới có thể lập ngôi cho mình được.

Rày mến Đạo nguyền vui với đạo
Dứt những điều khờ khạo gọi khôn.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Đừng vụng tưởng cơ bần là nhục
Cơ bần là chánh gốc mỗi con.

Trong 3 đoạn nầy Thầy chỉ ra đây thì mỗi con phải ráng định tâm mà xét (Xét thì rõ con đường Chơn-Lý… Đ.C.L 15 vé 420) cho rành, đừng bỏ qua rồi sa ngã vào nẻo Bàn-Môn cho rằng: Hễ mộ Đạo thì phải phế việc làm ăn, không cần gia đạo, mà làm cho mang tiếng dị đoan là vậy đó nghe mỗi con.

******************

HAI CÂU TRONG SÁCH MINH-TÂM

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 11 âm-lịch 1940 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho HANH nó nghe: hai câu chữ nó hỏi con đó là ở trong sách Minh-Tâm, sách tuy có đó, song chỗ sai siểng ít có ai tường, tại vậy nên mạnh ai nấy giải, TRƯỢNG nó cũng chưa rành, còn con thì cũng chưa thấu. Vậy Thầy chỉ rành ra đây đặng cho HANH nó học, đặng khỏi hồ nghi sao là trúng, sao là không trúng.

Câu thứ nhứt: “Nam đại bất thú như liệt mã vô cương” chớ không phải bất hôn, vì chữ Hôn với chữ Thú có thể giống nhau nên sách Tàu in lộn. Còn chữ Liệt và chữ nầy (. . .) nghĩa là con ngựa tơ đương sức mạnh, chớ không chữ Liệt là nhỏ, là yếu.

Câu nầy nghĩa là: con trai lớn khôn mà không chịu cưới vợ, để kén sui chọn gia, làm cho trái lòng duyên nợ của đứa con đó, thì nó phải nghinh ngang, không có dây cương khớp vàm chi hết, Nho kêu là ý mã là vậy.

Còn câu: “Nữ đại bất giá như tư viên phạm thủ”, chớ không phải tư diêm, chữ tư viên này có nghĩa là con khỉ hay vượn, chứ không phải chữ diêm là muối, vì viên với diêm hai tiếng kẹ nhau nên đành chịu lộn.

Câu nầy nghĩa là: có sự tích xưa nhà họ Châu đời Hớn giàu sang muốn cho sống lâu đặng hưởng của, nên hỏi thầy lương-y đặng tìm thuốc mà uống, cho đặng sống lâu mạnh giỏi, thì thầy lương nói gạt rằng: muốn vậy thì phải nuôi một con khỉ đực và một con khỉ cái, nhốt trong lồng, song phải để riêng đừng cho gần nhau, cứ vậy nuôi hoài, chừng nào con khỉ cái đó có ra một vật như một con khỉ đực thì lấy đó mà dùng gọi là hầu-táo-tử, vì thuốc đó quí lắm, ít ai làm đặng.

Chủ nhà nghe lời, nuôi lâu ngày, hai con khỉ có ý ngó nhau động lòng, đến nửa đêm con khỉ cái kê đầu đụng làm cho hư lồng nhảy ra, thì bị lác một đám lông trên đầu rồi hoảng chạy mất, đó gọi là tâm viên. Chừng chủ nhà hay đặng thì thấy có một dúm lông còn đó, mới hay con khỉ đi mất, mà sợ mất cái vật báu đó đi nên hỏi thăm tìm kiếm, thì người ta bắt được thấy có vít trên đầu, tưởng khỉ rừng bị thương, nên đành ăn thịt; chừng chủ nhà đi hỏi thì chuyện ăn thịt cũng đã rồi, nhưng mà có tiếng nói lại là con khỉ có dấu lác đầu.

Vì cớ đó nên sách kinh thường hay dặn dò phải ngăn ngừa về Tâm-viên Ý-mã là vậy đó. Rồi sau các nhà gia phép hay lấy cớ đó, hễ có con gái mà lăng loàn, cha mẹ hay chồng bắt được thì cắt tóc thả đi, là lấy cái chỗ Tâm-viên mà trừng trị, nên Khổng-Phu-Tử Ngài để hai câu nầy về khoản Trị-Gia đặng cho đời sau thấy rõ, vì sách vở in lâu nên phải sái. Nay Thầy chỉ ra đây nếu ai tin vậy đặng ngăn ngừa lo liệu thì tin, bằng tin theo sách mà giải nghĩa xiên quàng thì chịu lấy.

******************

ĐƯỜNG CHƠN-LÝ NHÀ ĐẠO VÔ-VI,

BÌNH-QUÂN LUẬT ĐOÁN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 7 âm-lịch 1939 (8 giờ tối)

-------o0o-------

Nầy các con dầu Đạo, dầu Đời sang hèn, ngu trí, cao thấp, trẻ già, gái trai cả thảy, ráng nghe lời Thầy nói đây mà tự xét lại mình coi cái thể làm người nó ra sao? Nên hay hư? Phải hay quấy? Đủ hay thiếu? Nhục hay vinh? Thì trong lời hỏi đó nó cũng không ở đâu xa, nó cũng ở gần bên mỗi đứa, mà tại sao các con không thấy đặng? Đó là tại hủ tục, cái khoe danh, cái ỷ tài, cái quên mạng; trong mấy cái đó nó làm một cái màn đời che lấp hết tinh thần Đạo-Lý, tại vậy nên cả thảy ở dưới trần đây đều là người mà người ta không trọn là vậy đó; bởi tại vậy đó nên ngày nay mới thấy rõ vậy đó thấy chưa?

Nầy các con, mỗi đứa có thấy hay là chưa? Thấy thì phải hiểu cho rành trong chỗ chưa thấy hay là thấy chưa rồi sẽ nói, đừng có nói bướng cho là thấy rồi thành ra tiếng nói vô độ là vậy.

Đây Thầy chỉ rành cái chỗ thấy chưa, chưa thấy cho mỗi đứa nghe mà tự xét coi cái hay của mỗi đứa ở đâu? Cái giỏi ở đâu? Cái dốt ở đâu? Cái ỷ ở đâu? Thì cũng là trong chỗ thấy chưa, chưa thấy đó.

Các con ôi! Các con phần nhiều mỗi đứa thiệt là khôn hơn hết, Trời không kiêng, Đất không kể, Phật không sợ, luật phép không sờn, mà ngặt có một điều là: cái tiếng Thầy nói thấy chưa với chưa thấy đó, mà không biết Thầy nói sao đó, có đứa cho là lời kiếm chuyện, tại vậy nên lầm. Cái lời Thầy nói thấy chưa đó là phần đông thấy đó mà chưa rõ tại sao mà có ra đó. Đó là thấy đó mà chưa tường, hiểu chưa? Còn câu chưa thấy đó là các con tự bấy lâu nay chưa thấy như vậy đó, nên xúm nhau nhắc nhở tìm kiếm hỏi thăm, gọi là thích chí, đó là câu chưa thấy là vậy đó. Tại vậy nên cái khổ với cái vui nó cũng ở lẩn quẩn theo trong chỗ đó, là tại trong mỗi đứa chưa rõ thấy chưa, chưa thấy đó; như đứa nào thấy đó mà hiểu tại sao ra đó, là đứa đó hiểu được mối manh, thì đứa đó được vui trong chỗ đó; còn đứa chưa rõ đó là tại đâu mà không lo tu, lo học, cứ việc bỏ qua, thì phải chịu vào chỗ khổ, chỗ buồn là tại nơi quá ỷ; còn thảm thay cho đứa vẫn sanh trong Trời Đất mà chưa thấy vậy là chi, lại tìm kiếm hỏi thăm đặng lo phương lập thế làm cho mình sống riêng một chỗ, giàu riêng một mình, đó là một đứa quá tham quá dại, mà trong trí não tưởng vậy là khôn, bởi đó dập dồn tai họa rồi cũng trở lại trách Trời, mà Trời dạy, Trời khuyên không kể.

Thầy hỏi đây là cốt yếu nhắc chừng cho mỗi đứa nào có chút duyên tu đặng nghe mà tỉnh ngộ, còn đứa vô duyên thì đã đành cho vậy. Thầy vì quá thương cho sanh chúng không nỡ để cho tận tuyệt, nên hết lòng lo lập Đạo tỉnh Đời như giấc mộng trần mê muội, mà hiện nay ngó lại phần đông mê cũng còn muội không dứt, là tại vì bọn đó quá ưa cúng tế, tham luyến khẩn cầu, sợ bỏ đi thì chịu nghèo chịu cực, lại một nỗi sợ cho ma quỷ không có ăn mà trở lại hại mình. Tại vậy nên thấy Thầy cho ra LUẬT BÌNH-QUÂN coi rồi cố giận, tuy ngoài miệng dạ dạ thưa thưa, chớ trong lòng cho ĐƯỢC là đặt điều nói bậy, tại cố cái lòng như thế mà quên Lý của Trời, lại thêm mang tội khi người, càng thêm khổ cho mình nữa. Ôi! đã mê chưa tỉnh, đã dốt chưa rành, lại dám thầm chê trộm trách, tại vậy mà khó trọn cái thể người ta là vậy đó, cả đời quanh quẩn, tính dại lo khôn, rồi cũng chạy không khỏi cái vòng khôn dại, cả năm cả tháng lo tính tuổi trần của thế hạ cho nhiều, rồi rốt cuộc cũng là vô dụng, thì ngó lại coi thiếu nó cũng còn đây. Thầy hỏi vậy, chớ có công lo, công tính dại khôn lường gạt cho giàu cho lanh, rồi sao không chịu khó xét lại tại sao mà còn mê còn dốt? Còn khổ, còn nghèo, đó là tại đâu? Sao không xét cho tột lý, rồi hỏi lại cái công lo, công tính lường gạt đó hiện giờ ở đâu mà không thấy điều kết quả? Vậy thì mỗi đứa có lòng như vậy đó thì chịu khó xét đi, đừng có để lo chuyện dông dài vô ích.

Đây Thầy chỉ đường sống sự vui cho các con đi cho dễ, ở cho yên là: “Đường Chơn-Lý, Nhà Đạo Vô-Vi, Bình-Quân Luật đoán”, trong ba đó đứa nào tin trọn làm theo, chừa bớt cái mê cái vọng, cái quấy, cái tham nói trước đó đi, thì mới tới ba chỗ nầy được, tới được ba chỗ đó rồi thì bình yên vô sự, vui vẻ lạ thường. Đó là một chỗ thái hòa lạc thú, trong cả thế gian có ba chỗ đó là hơn hết.

ĐƯỢC, bài nầy giao lại cho CA đặng in ra đọc tại Đạo-Tràng, rồi phát ra cho Đạo, cùng gởi cho các chỗ có LUẬT BÌNH-QUÂN đó coi mà tự xét, theo lẽ thì THIẾT nó lãnh trọn Bố-Thí phần nầy, song Thầy thấy nó có chỗ buồn nên Thầy không ép.

******************

CHỈ ĐƯỜNG THOÁT TỤC, ĐẠI-ĐỒNG PHÁN ĐOÁN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 7 âm-lịch 1940 (6 giờ sáng)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: con phải dẹp hết các bài vị của con thờ bấy lâu đó, vì ngày nay là ngày con lãnh trọn quyền Thầy sai ra làm phận sự giúp Đạo sửa Đời, cứu nguy phá tục, thì trong quyền đó sẵn có một Thầy là Độc-Tôn chi mạng. Nếu con còn để thờ phượng như bấy lâu thì sái với Chơn-Lý, vì không có một vị nào mà dám ngồi ngang đó mà dự chứng chung lễ với Thầy; còn như có muốn thờ cho trọn lòng sở mộ thì viết: chư Phật chư Tiên, chư Thiên chư Thánh, như tại Tòa-Thánh vậy. Đó là Thầy để cho mỗi đứa lấy đó mà suy xét, tỷ lấy mình coi được như bực chư Phật, chư Tiên, chư Thiên, chư Thánh đó chưa? Vì mấy bực đó dày công tu luyện, phổ-độ khuyên Đời theo Thầy mà lo hành Đạo-Lý, nên Thầy để nêu danh Thánh-hiệu là chỉ nghĩa hầu Thầy, chớ không phải là chứng lễ, chứng lễ thì có Tứ-Thánh mới được thay quyền theo phận sự. Đó là Thầy dạy con làm trước đặng làm gương cho mỗi đứa đứng vào Chơn-Lý phải coi lấy đó làm y đặng tránh lần điều tục. Đây Thầy giảng ra cho rành đặng con hiểu, sau phát ra cho mỗi đứa coi mà tự xét. Kể từ Thầy lập ra kinh Tu-Chơn Thiệp-Khuyết, Thầy có hứa: “Chờ ngày phán đoán Đại-Đồng thế gian” là ngày con ra lãnh trách nhậm đến giờ đây, trong đó hai chữ Phán-Đoán nhiều đứa chưa rành, song có một mình con có được ơn Thầy ban bố, nên có ảnh hưởng ít nhiều, chớ cũng chưa trọn thấu.

Vậy con nghe Thầy nói đây cho rõ: chữ Phán đó là lời Thầy phán ra cho rành như trong kinh Tu-Chơn đó, từ ngày đó cho đến ngày Đại-Đồng thế gian là ngày Long-Hoa Hội (năm Mậu-Dần 1938, 14 tháng 4) đó coi có đứa nào tin trọn làm theo, hoặc là có nghe, có sợ, có biết, có chừa thì Thầy cũng chiếu theo Luật Bình-Quân mà chế trừ đoán định, định là định coi đứa nào đáng làm lớn trong đó, đứa nào làm nhỏ, đứa nào vừa biết thuận tùng, thì cả thảy đều còn đặng trông nhờ điển ân nhiều ít, là đoán trong lời Thầy phán ra nơi kinh Tu-Chơn đó coi có làm trọn hay là sẽ làm, hoặc không chịu làm, cũng là quyết đoán định phân trong đó.

Hiện nay Luật Bình-Quân ra lần thứ nhứt, chỉ đủ các điều, thì cả thế gian phải biết cho rành coi cái nạn khổ ngày nay thấy đó, tại bởi đâu mà gầy ra? Thì phải ráng xét mình, đặng lo bào chữa, chớ nên mê tục, cứ để lo cầu vái lợi mình, mà không cần tự tỉnh.

Vậy Thầy cũng cho ra một bài gọi là “chỉ đường thoát tục” cho cả thảy nghe chung, sau khỏi điều phiền phức.

CHỈ nẻo nên hư thói tệ phàm
ĐƯỜNG Trời khai hóa tại nơi Nam
THOÁT thân đừng mến cầu danh chạ
TỤC lụy từ nầy bớt chớ ham.

1.- Lời Phán-Đoán Tam-Kỳ buổi chót
Dựng Thượng-Nguơn sắp lập kẻ hiền
Sắp là người khỏi đảo điên
Lập nên chừa tục tự nhiên vui thầm.

2.- Trong lời nói diệu thâm yêm ẩn
Cả thế gian ngơ ngẩn phần nhiều
Một là tại xác phàm kiêu
Hai là vì lợi chịu đeo không rời.

3.- Bởi tại vậy quên Trời cứu thế
Chỗ quên Trời quan hệ xiết bao
Hằng ngày hằng chỉ cao cao
Chỉ Trời biết chỉ tại sao không chừa?

4.- Chỉ cho có lòng ưa tranh đấu
Đặng giành lo rút máu thịt người
Phải chi nhớ trọn con Trời
Có đâu lấn hiếp hại đời dồn hư.

5.- Thầy cầm luật Vô-Tư phán xét
Cả thế gian ít biết nên lầm
Tại vầy chuyển Đạo nhiều năm
Chuyển cho Đời rõ đặng tầm đi theo.

6.- Đạo chuyển lập Trời Nghiêu Đất Thuấn
Đời tỉnh say lo đứng ngó chừng
Ngó coi thấy đặng chỗ mừng
Chừng noi theo thế theo thần muốn riêng.

7.- Chỗ mừng nối thiện duyên không biết
Chỗ mừng làm đúng thiệt không màng
Cứ tìm mừng tục vẻ vang
Mừng sao mình đặng cao sang hiếp hèn.

8.- Chừng được vậy là khen là tặng
Mà quên mình còn nặng tội tình
Thói phàm hể ỷ gọi vinh
Hết vinh tới nhục tại mình ỷ lanh.

9.- Vì tại đó người sanh ra quỷ
Luật Trời lo sửa trị cho hòa
Để lời Đạo-Lý thiết tha
Lòng tư chẳng dứt cho là đồ chơi.

10.- Tại vì chỗ lả lơi quên Lý
Đó cũng là tại ỷ phần khôn
Ngó theo xác thịt quên Hồn
Cho nên tội lỗi ghi dồn nhiều năm.

11.- x Cơ quan Đạo chuyển khó tầm
Đời mê vật chất lũi lầm đường nguy
Chẳng thông an biến thời kỳ
Chẳng tin báo ứng kể gì Đạo-Tâm.

12.- Đến nay là buổi gạn lần
Thầy ra luật cả để tầm để suy
Con nào hiểu đặng làm đi
Làm rồi thấy rõ sự nguy ra tường.

13.- Con nào còn dạ lương khương
Đừng trông đừng đợi nẻo đường về Cha
Con nào tự cượng bỏ qua
Ráng nhìn cho kỹ Ngọc-Tòa án ghi.

14.- Phải rành hai chữ Từ-Bi
Đừng đem viện lẽ mình khi lấy mình
Nói ra cho rõ đặng gìn
Gìn theo qui cũ chánh minh Đạo Trời.

15.- Thảm sầu thấy rõ các nơi
Thảm sầu thì ngán, sợ Trời thì không
Quyết lòng tốn của hao công
Đem ra giành giựt bề trong chẳng rành.

16.- Việc chi trước phải xử mình
Rồi sau sẽ quyết luận bình không sai
Dạy chung THOÁT TỤC một bài
Cả nam cùng nữ từ nay phải tường.

17.- Đặng thông thấy rõ bước đường
Lần theo cho kịp là phương diệu thần
Thoát rồi thấy rõ sự tân
Là Tân-dân Đạo hưởng phần thảnh thơi.

18.- Một ngôi Độc-Nhứt là Trời
Thờ đây là chỗ trọng lời chánh chơn
Thương Đời cứu độ là Nhơn
Để nêu Thiên-Nhãn tâm huờn Thiên-cơ;
Tuần huờn Đạo-Lý chuyển cơ
Đó là một chước lưu thơ dạy người.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng in ra cho nhiều, phát cho Đạo học và gởi cho các chỗ có Luật Bình-Quân, rồi sau đem vào Luật Bình-Quân thứ nhì.

******************

NHỊ-THẬP-BÁT TÚ,

MƯỜI HAI TRỰC NHỰT-THỰC,

NGUYỆT-THỰC

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 11 âm-lịch 1939 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho TÂN nó nghe: theo lời nó hỏi đây Thầy không muốn chỉ, vì nó có học nhiều, mà không lo sửa nết, là nó quyết học đặng cầu danh, tại đó nên Thầy không muốn chỉ, ngặt vì cơ Đạo đương lúc tấn hành, nên buộc lòng Thầy phải nói ra cho hết lẽ, đặng cho cả thảy học chung.

Vậy từ đây nó phải ráng mà kiên tâm cho lắm, còn mấy khoản nó hỏi đó Thầy nói cho nó nghe:

Khoản thứ 1.- Là 28 vì Sao có các loài thú danh ẩn vào trong đó, nên gọi là Tú, nghĩa là ở đậu; bởi vì các thú đó có lòng tu, nên tinh thần được Thầy cho phụ giúp chung vào trong 28 vì Sao đó, đặng lo hành phận sự với nhau, cũng gọi là công-quả. Trong 28 vì Sao chớ kỳ trung có Ngũ-hành, Ngũ-phương, Thái-Âm, Thái-Dương cũng gồm chung vào đó, đặng lấy đó chia ra gọi là vạn thiên Tinh Tú là vậy đó.

Như phương Đông thì có 4 vì Sao thuộc Mộc: như Giác-Mộc-Giao, Đẩu-Mộc-Giải, Khuê-Mộc-Lang, Tỉnh-Mộc-Cang; đó là 4 vì Sao ở hướng Đông.

Còn nơi phương Tây thì có: Cang-Kim-Long, Ngưu-Kim-Ngưu, Lâu-Kim-Cẩu, Quỉ-Kim-Dương; đó là 4 vì Sao ở phương Tây.

Còn phương Nam thì có: Vĩ-Hỏa-Hổ, Thất-Hỏa-Trư, Chỉ-Hỏa-Hầu, Dực-Hỏa-Xà; đó là 4 vì Sao trấn phương Nam.

Còn như phương Bắc thì có: Cơ-Thủy-Báo, Bích-Thủy-Du, Sâm-Thủy-Viên, Chẩn-Thủy-Dẫn, đó là 4 vì Sao trấn phương Bắc.

Còn như Trung-Ương thì có: Đê-Thổ-Lạc, Nữ-Thổ-Bức, Vị-Thổ-Trỉ, Liễu-Thổ-Chướng; đó là 4 vị trấn tại Trung-Ương.

Còn Thái-Dương thì có: Phòng-Nhựt-Thố, Hư-Nhựt-Thử, Mão-Nhựt-Kê, Tinh-Nhựt-Mã; đó là 4 vì Sao thuộc về Thái-Dương.

Bốn vì Sao nầy Thầy để cho là ngày Chúa-Nhựt, là vì trong lúc Thầy cho con Một giáng phàm làm Jésus thì có bốn vì Sao nầy theo phụ giúp tự thỉ chí chung, nên Thầy cho Hứa-Sinh-Dương ghi vào lịch. Hễ ngày Chúa-Nhựt thì có bốn vì Sao đó, không có vị nầy thì có vị khác, cũng trong bốn đó chớ không lộn vị ngoài.

Còn như Thái-Âm thì có: Nguy-Nguyệt-Yến, Tất-Nguyệt-Điểu, Trương-Nguyệt-Lộc, Tâm-Nguyệt-Hồ; đó là bốn vì Sao phụ giúp về Thái-Âm, nên kêu là Nhị-Thập-Bát Tú. Vì trong đó có đủ Ngũ-hành, Ngũ-phương, Âm Dương, Người Thú đều có ở chung trong đó; song đó là thầy dùng đặng sai khiến theo phụ sự Thiên-Đình. Còn sách cũng có ghi rành rẽ, tại đời sau chế biến, bày ra ngày nầy Sao tốt, ngày kia Sao xấu mà thành ra các cuộc dị đoan, nên Thầy không muốn cho biết tới đó nữa, để lo tu niệm chừng nào ai vào được chỗ nào thì chừng đó sẽ biết.

Hiện giờ Thầy cũng rộng lòng cho mỗi đứa có công tu hoặc thú cầm mà có lòng mộ Đạo, thảy điều được hưởng vào đây.

Còn 9 vì Sao nó hỏi đó là tại bọn văn-tài đặt điều cho có chuyện, chớ cũng trong 28 vì Sao nói trên đó. Còn 12 trực trong sách ghi đó là 12 vị Nhựt-Thần để coi theo mỗi ngày cũng 12 con giáp, song đó là Tinh-Thần của số 12, Thầy lập ra cho có ngăn có lớp, nên gọi là Trực, vì chữ Trực là ngay nên để cho xem xét mỗi ngày cho đúng.

Còn khoản số 4 nó hỏi về Nhựt-Thực, Nguyệt-Thực, đó là cái điềm tai biến của Thầy ra cho nhơn dân thấy đó đặng lo sửa lòng sám hối. Hễ năm nào có Nhựt-Thực tại chỗ nào thì chỗ đó có tai biến lớn, còn Nguyệt-Thực thì tai biến nhỏ.

Còn khoản thứ 8 nó hỏi về công vụ đi vào Bát-Quái thì Thầy đã có dạy cho KHANH rồi, nó phải tìm mà học. Còn các khoản khác đó là chuyện người đời đặt ra cho có vĩ chớ không thuộc về phận sự Thiêng-Liêng nên Thầy không giải.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để vào Luật Bình-Quân thứ nhì, còn một bổn thì trả lại cho TÂN.

******************

MƯỜI HAI CON GIÁP

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 11 âm-lịch 1939 (1 giờ khuya)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho ĐỂ nó nghe, vì trong 12 con giáp đó là khi Thầy mới gầy ra cơ Đạo thì có 12 ngôi sao đó là giúp Thầy lập xong danh phận, 12 vì Sao đó cũng có ẩn trong Nhị-Thập-Bát Tú, tại vậy nên Thầy để cho 12 chi đặng cho đời kêu gọi cho có danh dưới thế. 

Còn sự tuổi tác là chỉ để làm dấu cho biết chừng kẻ lớn, chớ nào phải ăn nhập vào tên mấy con thú đó sao? Tuổi nào phải cho có đủ Can Chi, đặng phân rành trước sau, nhỏ lớn. Còn tên Tý, Sửu… đó là Thầy phải đặt để cho có chừng đặng gọi là năm tháng.

Vậy con giao lại cho CA nó coi rồi trả lại cho ĐỂ.

Thăng.

******************

BÀI DẠY TIẾP THÊM VỀ 12 CON GIÁP

VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 14 tháng 11 âm-lịch 1944 (1 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho NHỨT nó nghe vì bài của nó hỏi tại sao mà Tý Sửu Dần Mẹo v.v… mà gọi là 12 con giáp, lại có 12 con thú ẩn trong, khoản đó Thầy có giải rồi nhiều cách, tại nó không chịu tìm mà học. Đây Thầy nói sơ cho nó biết, tiếng kêu là 12 con giáp đó là không phải, vì đó là 12 chi, còn con giáp là 60 năm mới giáp lại Giáp-Tý; còn 12 chi nầy gọi là Thập-Nhị Địa-Chi thuộc về Đất, Thập-Nhị Thiên-Can là Giáp Ất Bính Đinh v.v… là thuộc về Trời, trong đó có tên mấy con thú theo số 12 đó là trước hết hồi Nhứt-Kỳ Phổ-Độ có 12 con thú đó chịu tu cho nên mới đem tên vào đó rồi lịch lại biên người cho đủ tuổi tên Trời Đất cùng loài vật, nghĩa là biết Đạo, biết Đời, biết Người, rõ Vật lo tu đó là hiệp về nhứt thể đồng xuân nên mới có tiếng là Thiên Địa vạn vật là vậy.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho NHỨT.

******************

ĐÀN LIÊN-HOA

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 2 âm-lịch 1943 (2 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho THU nó hay cái Đàn Liên-Hoa Đại-hội tại Sa-Giang năm Nhâm-Thân đến giờ là vì Thầy chiếu theo Thiên-điều mỗi lần khai Đạo, chuyển Đạo đều có lập Đàn ấy đặng sắp dạy cho mỗi đứa rõ Đạo Trời, không phải là chuyện trò chơi, muốn hưởng cho được cảnh Liên-Hoa thì phải ráng làm theo lời dạy trong Đàn đó.

Còn hai chữ Liên-Hoa về Đạo Phật, hay gọi là Liên-Hoa hóa thân nhiều đứa tưởng lầm là tưởng hễ để bông sen đó đọc kinh rồi bông sen có hình hóa ra Tiên Phật; cái lầm đó đã lâu rồi, vì học chưa nhằm lý, chớ bốn chữ Liên-Hoa hóa thân là vầy: là Đức Phật chỉ bông sen ở bùn mà chẳng dính hơi bùn, còn thân sống của mỗi người đây ai cũng Trần, vậy phải lấy đó đặng đem Đạo-Đức hóa lập nơi mình làm cho được vậy mới gọi là người linh hơn muôn vật, là tự nghĩ bông sen đó sao thì trong các lời dạy trong Đàn Liên-Hoa thảy đều có đủ.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho THU. Theo lẽ phải gởi cho các chủ Thánh-Thất mỗi người một bổn đặng đọc cho Đạo nghe cùng là chép ra mà học, để lâu ngày không nhắc rồi nhiều đứa bỏ qua.

******************

THẦY GIẢI THẬP ĐIỆN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 14 tháng 7 âm-lịch 1939 (5 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho HƯNG nó hay, theo lời nó hỏi đó Thầy cũng đáng thương cho nó là có công học hỏi cho rành rẽ việc trước sau, song trong đó có khoản nó hỏi về kiếp trước nó có đầu thai vào tứ sanh hay không? Thì Thầy không thể nói ra cho hết, vậy nó quyết theo Chơn-Lý cho trọn một lòng thì sau được rõ.

Còn khoản nó hỏi Thập-Điện có hay không có, đó là thời kỳ Đạo Phật khai ra thì có sẵn 10 Vua vào tu đắc quả, nên Đức Phật cho là Thập-Điện, Phật cho phép thay quyền trừng trị những kẻ khi thời ngược thế.

Còn luật đầu thai chuyển kiếp là luật của Thầy cầm, đời sau vịn theo đó mà tỏa ra có hình có chỗ đầu thai đó là tại mấy đứa muốn khoe tài đặng làm ra, một là độ chúng, hai là chác sự cầu danh, tại vầy nên không thành Đạo.

Còn đoạn Mục-Liên đi về Tây-Phương, đó là lời nói cho dễ nghe chớ Tây-phương là nơi Ấn-Độ, đó là chỗ Đức Thích-Ca sanh thành, sau Đạo-Phật chuyển về Trung-Quốc, ngó qua Ấn-Độ là nhằm phía Tây, nên chỉ chỗ Phật sanh thành tại đó, nên gọi Phật ở Tây-Phương chớ tại đó là xứ của Tất-Đạt-Đa, còn Phật là nói Tâm Tánh.

Còn vụ Mục-Liên chịu tội cho mẹ đó là lẽ thiệt, nó muốn cho rõ thấu có không thì phải tu cho thiệt, hoặc là hỏi Hàng-Long Chơn-Tánh nói cho.

Còn việc hành tội, thưởng phước chi chi cũng đều ở tại trước mắt đây, song đó là chuyện huyền vi, người chưa trọn đức tin khó bề thấy được.

Còn Thập-Điện đời trước đó cũng tỷ như hiện giờ Chơn-Lý đây có 36 vị Thiên-Tôn đặng Thầy lập ra 36 lớp dạy dỗ.

Vậy mỗi đứa ráng tu cho trọn, đừng có dạ sụt sè, rồi sau đây ai được tới đâu Thầy sẽ cho tới đó, chớ hiện giờ còn ở nơi chủ Tam-Hồn là Hàng-Long Chơn-Tánh đó.

Còn bài thi Thanh-Thanh Nhựt-Nguyệt thì có biểu HẠNH chép ra cho nó coi nó biết trong đó, là lời Thầy nói trước, còn phường mặt trái phản Thầy là phường mượn danh Đạo đặng cầu danh thủ lợi, đã hồng thệ rồi mà lại dám khi Thầy ấy là phản đó.

Còn bài tỉnh ngộ xá thân tại phạm môn là Thầy nói đứa nào được tỉnh ngộ thì phải coi theo cái gương của Vua Phạm-Vương khi trước xá thân đó mà tỉnh ngộ, chữ PHẠM (…) nầy chớ không phải chữ phạm là họ Phạm-Công-Tắc đó đâu, phải xét lại lời của TẮC nó nói đó là sai với Chơn-Lý xa lắm. Đã xá thân rồi mà còn phạm môn phạm nghiệp, phạm từ phạm nông gì nữa, đó là TẮC nó gạt mấy đứa mê đặng lập quyền thủ lợi.

Vậy Thầy khuyên HƯNG phải đem đoạn nầy nói cho bọn Tây-Ninh nghe mà tự tỉnh.

Còn việc nó nhập môn tại An-Hội, ngày nay nó thấy rõ lòng của TƯƠNG không đúng thiệt thì trở về Chơn-Lý ấy là nó thoát khỏi mê phàm, Thầy cũng mừng cho nó đó. Còn việc Chức-sắc ở chi phái khác trấn thần đó là dùng theo cựu tục, chớ Chơn-Lý thì Thầy không có dạy phép phù chi hết. 

Còn các lời nó ước nguyện đó Thầy cũng đáng thương, song Thầy đã nói Thầy ngự tại đây, như trọn tin thì đến đây học Đạo rồi hành Đạo cho vững cho bền mới có thể thiệt hành mới được.

Vậy nó phải coi lấy gương của CA với con đây thì nó biết Đạo Thầy là Chơn-Lý thể nào thì nó đã biết, đó là vì Thầy quá thương giải rành cho nó rõ, đặng nó nói lại cho đứa khác nghe cũng là bổ ích cho nhau trong chỗ đó.

Vậy con giao lại cho nó coi thì nó biết. 

Thăng.

******************

PHẬT VÀNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 16 tháng 11 âm-lịch 1940 (6 giờ sáng)

ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: hiện nay trong thế gian Hàn hoặc Chùa, hoặc Thất, hoặc Am, hễ có lên cốt Phật thì dùng vàng lá mà phết lên cho tốt rồi gọi là Phật đặng xúm nhau vái lạy khẩn cầu. Còn nơi nào không có như vậy thì gọi đó là không Phật nên không đến tu hành, vậy con biết tại sao mà phải làm hình phật phết vàng vậy không?

- Bạch: con không rõ.

Nầy con, đó là cũng một tiếng nói của nhà Vua là Vua Thái-Tôn đời Đường. Khi Phật Quan-Âm cho lời vi ngữ đặng cho Tam-Tạng thỉnh kinh thì trong đó có lời dặn rằng nếu ai dám đến Tây-Phương mà thỉnh kinh đem về giải độ cô hồn làm cho thành việc thì người đó là Phật Vàng, rồi trong đó Vua Thái-Tôn đọc cho cả người có mặt tại đó nghe tự đó truyền ra mà không xét lý, cứ hô lên một tiếng hễ Phật thì vàng là chính lời Vua phán nên từ đó tới sau hễ lên cốt Phật thì cứ phết vàng gọi là trúng cách, chớ kỳ trung lời vi ngữ của Quan-Âm là nghĩa lý cao sâu ít người rõ đặng, là trong đó như vậy. Kinh thì ở tại xứ Thiên-Trúc, đường đi xa ma quỷ thì nhiều, nên ai dám chịu lãnh mạng ra đi, tử sanh chẳng quản, lao khổ không phiền, sắc tài chẳng đắm, gặp dữ cũng hiền, làm ơn chẳng kể, kết cuộc rồi lòng dạ vẫn như như, thì người đó tợ vàng vào lửa, thì trong đó gọi là Phật Vàng là do cái lý đó. Chớ hình dung của người thành Phật cũng tỷ như ngày nay Thầy sai mỗi đứa ra hành phận sự đây cũng ăn cũng mặc theo cách tu hành chớ nào phải phết vàng gọi là Phật hay sao. Đó là tại nơi lòng mỗi đứa muốn ham làm Phật mà không chịu học, chịu hành, giồi tâm sửa tánh, thì chẳng khác nào kẻ thế gian muốn nên phú quí công hầu mà không chịu học, dầu cho có mượn tiếng dựa hơi giựt giành chen lấn đi nữa thì cũng không có kết cuộc vào đâu; còn đứa đi tu mà không tầm lý xét mình, tùy cơ vận chuyển dầu cho có cất chùa đúc Phật rồi cũng thành ra một chỗ mê mù, rồi trở lại trách sao tu hành mà không thấy hiền. Đó là Thầy giải nghĩa Phật Vàng là vậy cho nghe đặng liệu theo lời Thầy mà xét lại cái buổi đời ngày nay, Thầy lập Tam-Tiểu Thời-Kỳ, nối lại Thượng-Nguơn thì cái khó khăn đó chẳng khác nào như hồi Tam-Tạng đi thỉnh kinh như trước.

Còn nay Thầy giáng thế tại đây thì chẳng khác nào Tây-Phương hồi đó, nếu ai chịu nổi cái sự khó khăn day trở đừng có ngã lòng thì trong đó cũng là có chí tu hành theo Thầy tới Đạo, kinh sám Thầy ban cho cứ lo học hành, đừng sanh giải đãi lần lựa ngày qua cơ Trời sắp đặt, chớ luyến giàu nghèo, đừng than thở phận, thì trong đó điều đặng hưởng nhờ hạnh phúc Vô-Vi, là lòng ai nấy biết.

Vậy con coi rồi giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày 26 lễ Tu-My cho trong Đạo nghe chung, rồi cũng phát ra cho Đạo coi mà học, còn Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh Thất mỗi người một bổn đặng Đạo chép ra mà học.

******************

TAM-HỒN THẤT-PHÁCH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 3 âm-lịch 1943 (12 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho NHÀN nó hay, mấy lời nó xin hỏi Thầy đó Thầy đã có dạy lâu rồi, tại nó không chịu tùng Chơn-Lý nên khó biết.

Đây Thầy chỉ sơ lại cho nó rõ:

Tam hồn là:

1.- Là Linh-Hồn về phần Thiêng-Liêng.
2.- Là Anh-Hồn là về phần Tiên-Thiên Hậu-Thiên giao cấu.
3.- Là Thần-Hồn thuộc về ăn uống vật thực, cỏ cây, khôn dại không chừng, hồi còn trong bụng mẹ đó là thập ngoạt hoài thai, tiếp nhờ khí âm khí dương, đủ hình hài rồi đến ngày sanh, đó gọi là Thần-Hồn. Khi Thần-Hồn mới vừa ra khỏi bụng mẹ, chừng đó Linh-Hồn mới cho Anh-Hồn nhập vào, mới có tiếng khóc khổ a! khổ a! là đó. Như người còn sống hay ưa ăn đồ máu thịt, chẳng kể tu hành, thì người đó nặng về Thần-Hồn, đến ngày gần chết hễ tội nhiều quá thì Anh-Hồn đi trước, rồi từ đó đến ngày cùng thì người như điên như dại, là tại Thần-Hồn cải canh, không nghe lời Anh-Hồn, nên phải chịu hành nhãn tiền cho mỗi người đều thấy.

Còn Thất-Phách là bảy cái Chơn Như: Chơn-Tâm, Chơn-Tánh, Chơn-Thể v.v…

Trong 7 điều nầy buộc người làm cho đúng thiệt, còn người hay làm chuyện giả dối, chừng chết tiếng cho là vía dại. Đó là Thầy chỉ sơ vậy thôi, muốn học cho rành phải về Chơn-Lý cho trọn chí thành, mới có Thần ứng Tâm, chớ Đạo-Lý không thế gì hỏi thăm mà thấu đặng?

Còn Đạo-Hiệu là hiệu của Đạo, chớ nó xin cho nó sao được, trừ ra đứa nào qui tùng Chơn-Lý có công, Thầy cho vào Thập-Bát La-Hán đặng hành Đạo đó thôi, chớ không phải hiệu của phàm mà đặt điều khoe tặng.

******************

TRỜI ĐÁNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 9 âm-lịch 1942 (2 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho LAI nó hay: nó đừng tin theo lời những đứa cho là không có Trời, rồi gọi là sét đụng mà chết, chớ không phải Trời đánh, rồi tin theo đó mà không kể luật Trời, mà ỷ mình làm ra tội lỗi, nếu như Trời không đánh, chớ ai đánh mà chết đó, dầu cho sét đánh thì sét đó cũng của Trời. Hỏi vậy dưới thế gian có ai làm ra được vậy không? Mà nói rằng không phải Trời đánh? Bất luận là tội gì? Hễ phạm vào trong khoản đó thì phải chịu ngay, dầu cho chết rồi cũng đánh cái mồ. Đó là tại vì xác phàm đoản thọ, còn luật ghi đó còn y, nên phải đánh đặng cho nhiều người thấy rõ.

******************

ĐẠO CAO NHỨT XÍCH,

MA CAO NHỨT TRƯỢNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 6 âm-lịch 1943 (7 giờ sáng)

-------o0o-------

Nầy mỗi con, Thầy thường nghe mỗi con nhiều khi đi đứng nằm ngồi trong lúc gặp nhau hễ có nói tới điều chi Đạo-Lý thì hay đem lời “Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng” đặng lấy đó mà che lấp tội lỗi của mình, là cái tội lỗi cho loài ma là cao hơn Đạo-Đức. Không phải vậy đâu? Đây Thầy nói cho mỗi con rõ, câu đó là vầy: Đạo cao thì học có mực thước, rồi dùng đó lấy tài, tập nết kiêu căng, cho mình là Đạo cao đặng khi người thấp, rồi trong đó kết thành ma chướng cho mình, Đạo-Đức chẳng bao nhiêu, còn bề cư xử đối đãi nhiều chuyện phiền phức, nhiều thói tự cao, đó là tại mình vọng tâm mà thành ra chuyện đó, nên kêu là ma cao nhứt trượng, tỷ như học thì ít mà nói mép thì nhiều, chớ một lòng Đạo-Đức cho ròng, dứt hẳn phàm tâm, kỉnh thành cho trọn, trên biết sợ Trời, dưới hết lòng thương người quá dốt, mừng cho người được mở mang, gia đình giáo dục, có vẻ nghiêm từ, thị thính động ngôn, giữ tròn chánh lý. Nếu được vậy cho trót đời của mình thì ma nào lại hơn Đạo-Đức cho được?

Còn câu Thầy nói: Đạo càng cao, quỷ ngạo càng nhiều, nghĩa là: lũ quỷ ngạo thì nó nhiều hơn người học Đạo cao, là nó nhiều chớ không phải nó cao hơn. Vì tại nó nhiều đó, nên con nào Đạo cao bền vững thì chúng nó phải phục tùng. Từ xưa nay, hễ tu hành thì phải có vậy, rồi sau lũ đó, nếu biết mình mà sám hối thì cũng là có chỗ lập công, còn những đứa quá cường thì phải đi vào nơi tiêu diệt.

Ngày nầy là ngày lễ Trung-Nguơn Thầy để ra các lời minh biện cho mỗi đứa nghe rành biết vậy ráng tu, đừng khoe mình giỏi, đừng bỏ chuyện lành, ai ngạo báng mặc ai, mình nhớ mình một lòng theo Trời Phật thì Trời Phật bao giờ cũng không phụ bạc người lành, còn ai làm chẳng lành thì có phần riêng đó. 

Thầy ước trong các con nhớ trọn lời Thầy, dầu nữ dầu nam, đừng có viện câu ma cao nhứt trượng, thành ra mình cho mình người Đạo-Đức thấp hơn ma, rồi lấy đó làm đầu khuyên bảo cùng nhau, mình đã chẳng biết tin lẽ phải cho mình thì có dễ chi mà xa lần điều quấy.

Vậy mỗi con ráng chép ra mà học đặng xét mình kềm vững đức tin, đừng có để bơ thờ rồi uổng công gặp Thầy mà không rành lý nghe mỗi con.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày lễ Trung-Nguơn nghe chung, cùng là dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng trong Đạo chép ra mà học. Còn Thiên-Sư gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi chỗ một bổn.

******************

TỤC MÙNG 5 THÁNG 5

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 4 tháng 1 âm-lịch 1944 (9 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con biểu CA nó in Thánh-Giáo nầy dán tại Đông-Lang, Tây-Lang cùng là đọc cho Đạo nghe chung, còn các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng về phần Thiên-Sư phải gởi trong đó. Thầy nhứt định từ đây sắp lên, những người biết Đạo Chơn-Lý mà qui tùng, thì phải dứt hẳn cái tục gọi là mùng 5 tháng 5 cũng như ngày tết. Thầy đã nói nhiều rồi, ngày đó là ngày lễ điếu Khuất-Nguyên ngày trước, rồi sau nhiều người lại đem vào khoản hôn-nhơn đặng bày ra nhiều lễ, vì đó mà kết chuyện lâu đời, không nhằm chi cả. Ngày nay là đúng Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thầy ra lời dặn trước, như ai chịu tin theo, gọi là người biết Trời bỏ tục, nếu người tùng Chơn-Lý mà còn nê cố bấy lâu thì người ấy gọi là chưa thiệt.

Các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng đọc cho Đạo nghe rồi buộc chép để dành đặng có việc sui-gia khỏi điều bàn cãi, tại đây cũng phải vậy.

******************

CÚNG DƯNG CĂN, TRÙNG-BỐ, TRƯƠNG-NHỨT-TÚC

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 5 âm-lịch năm 1939

-------o0o-------

TÂN, nghe thầy dạy:

Theo lời con hỏi Thầy đó thì cũng phải, song Thầy quá buồn cho con, sao con hay bươi móc kiếm tìm, học nội tánh tâm không vững.

Vậy đây Thầy nói sơ cho con rõ: cái tục CÚNG DƯNG CĂN đó là hồi đời Phong-Thần, trong lúc chị em Quỳnh-Tiêu, Bích-Tiêu, Vân-Tiêu phải chịu lãnh về phần đó; hễ con ai mới sanh thì phải ứng mộng cho biết, đặng chỉ rành căn số phải tu, trong một hình mà ba cái mặt, là trong ba đứa đó gom lại một Hồn, ngặt phải chia ba cho người đời rõ ba đứa đó nghịch mạng Trời mà chịu đọa, nên phải lo ứng mộng độ người đặng chuộc tội mình khi trước, lần lần nhiều kẻ mượn danh mà bày ra bóng chàng thêu dệt; tại vậy nên Thầy không cho ứng mộng nữa, nên mới lập Đạo ra đây đặng mấy đứa đó phụ bút cứu đời, hoặc xưng bà kia bà nọ, Thầy cũng vui cho, miễn sao cho đời tu là đủ.

Còn việc TRÙNG-BỐ đó là tại nơi lòng của bọn phụ nữ ở phàm gian hay bày ra huê tình phong nguyệt, gây cuộc gió mưa, lời thề tiếng hẹn, dám liều mình sanh tử với nhau; tại đó mà hồn ma chịu đọa, rồi vương vấn nợ tình là tại nơi tư tưởng, bởi đó nên Tam-Giáo thường hay cấm sự tà dâm là vậy.

Còn TRƯƠNG-NHỨT-TÚC là tích trong đời nhà Châu, có một tên Trương-văn-Hộ sanh ra được 9 người con, duy có một mình Trương-Nhứt-Túc là thông minh hơn hết, đó là cái tên đời sau kêu gọi chớ tên tộc là Trương-Đại-Hùng. Khi Đại-Hùng khôn lớn thì trong anh em sợ cho nó phải hơn mình nên dùng thế lập người đón đường đánh cho chết, chẳng dè người đi đánh đó có lòng thương nên đánh dưới chưn làm cho gãy hết một giò, rồi tri hô lên thì đem về nhà rước lương y điều trị, buộc phải cắt giò gãy đó đi mới trị đặng. Từ đó tới sau, hễ đi thì chống gậy nhảy một giò, không có vợ con chi hết, đến sau rõ đặng cái thù nầy thì tuổi đã mãn số; tại vậy nên luật Vô-Tư phải cho về trả báo cho mấy đứa làm ác đó, đặng trả thù xưa. Từ đó di truyền gọi là Trương-Nhứt-Túc, là báo hại có một dòng họ đó thôi; rồi đời sau hay dùng chú đó đặng gạt đời mà chưa hay là quả báo. Tại vậy nên Tam-Giáo thường hay ngăn cấm sự ghen ghét nhau là vậy đó.

Hiện nay Chơn-Lý phô bày nên Thầy chỉ rõ cho mỗi đứa nghe chung mà tự tỉnh. Thầy cho tiếp chúng nó một bài thơ để đọc cho dễ nghe gọi là phá tục.

THI

1.- Phá tục thi bài một đoạn
Mỗi con nghe đặng sửa lần
Đạo Trời cải cựu duy tân
Là đem lý thiệt dẹp lần đồ hư.

2.- Mỗi con chớ nhàn cư húng hính
Mà lại theo mê tín quên Trời
Cõi trần cả thảy nhiều nơi
Có Châu Nam-Thiệm ưa lời rủ ren.

3.- Nghe tiếng bợ tặng khen thì muốn
Lời chánh chơn nói đến thì buồn
Tại vầy nên lạc vào truông
Là ưa lời phỉnh của công không màng.

4.- Trong các việc dị đoan tà mỵ
Cúng quảy dưng đơm quỷ tế thần
Chẳng rành hai chữ Oai Ân
Thần minh chánh trực thưởng răn không vì.

5.- Dưng lễ vật nhiều khi thầm vái
Cầu chứng minh đổi hại ra hiền
Một phần cầu nguyện tư riêng
Giàu sang mạnh giỏi ước duyên vợ chồng.

6.- Trong chỗ đó phần đông còn luyến
Nên quỷ ma bày chuyện gạt người
Linh đình hát xướng giỡn chơi
Dựng căn đổi đốt vẽ vời đặt tên.

7.- Các con nỡ vội quên Chơn-Thể
Đem mình ra quỳ tế mỵ tà
Thân hình mình vóc tóc da
Trong còn một điểm gọi là Linh-Quang.

8.- Chỗ quí trọng chẳng màng chẳng kể
Quỳ lạy dưng tế lễ lạy càn
Trước thì rượu thịt nghinh ngang
Người sau, thú trước chẳng màng trọng khinh.

9.- Đó là tại quá tin về lợi
Mà quên nhìn cái hại gần đây
Xúm nhau thêu dệt đặt bày
Đổ cho Thần Thánh tội nầy ai mang.

10.- Tưởng cúng tế là sang là quí
Tội sát sanh vô lý ai trừ
Tại vầy mà tội còn dư
Đầu thai chuyển kiếp người như thú đền.

11.- Luật hành phạt nêu tên rành rẽ
Các truyện thơ chép để răn đời
Học hành thấy vậy dể ngươi
Dưỡng nhơn dùng vật viện lời trớ trêu.

12.- x Tưởng ăn quên kể Thiên-Điều
Vì tham quên mạng ít nhiều vái van
Rủi lầm bịnh hoạn nhiệt hàn
Bày ra cầu khẩn cho an thế liền.

13.- Lấy thì vàng bạc giấy tiền
Vịt gà heo cúng mạng mình đổi đây
Chẳng suy chẳng xét lẽ nầy
Tử sanh hữu mạng Cao-Dày định phân.

14.- Gây ra tội lỗi muôn phần
Trước làm sau học lẫy lừng chẳng kiêng
Sao không xét lại Thánh Hiền
Văn thinh bất nhẫn, kiến hình động bi.

15.- Bào trù quân tử viễn chi
Huống chi Thần Thánh lại đi đường nào?
Thầy nhìn chán ngán xiết bao
Bỏ qua Đạo-Đức chen vào Bàn-Môn.

16.- Tháng ngày tính dại lo khôn
Mà quên mình lại đem chôn tánh mình
Tánh người vạn vật tối linh
Cúng quỳ dưng tế sao hình thú chong.

17.- Hỏi sao chẳng hổ thẹn lòng
Tử vinh thọ nhục phần đông học nhiều
Tinh thần tại đó giảm tiêu
Giảm tiêu ám muội thân liền khổ thân.

18.- Mỗi con khuyên ráng ân cần
Lo tu cho trọn sự mừng thấy đây
Anh em hòa thuận vui vầy
Chẳng tranh danh lợi, chẳng bày chuyện mê.

19.- Kiếp đời sống ở thác về
Về cho tới Đạo, khỏi bề trầm luân
Lạy ma tế quỷ khuyên đừng
Để công học Đạo tránh phần họa tai.

20.- Đất Trời một bọc nào hai
Có ai cãi đặng hầu nài vái van
Thầy khêu Đuốc Huệ chỉ đàng
Cứ đi theo đó là an phận mình.

21.- Việc gì hễ thiệt thì Linh
Giả mang tài tục, phải nhìn cho ngay
Dặn chung cả thảy một bài
Chớ ham dục vọng có ngày phải nguy.

22.- Vì thương mối Đạo Tam-Kỳ
Cứu nguy tỉnh mộng lời ghi dạy truyền
Nặng nề cho đứa vô duyên
Nghe rồi không nhiễm ý riêng không chừa.

23.- Ước cầu bố sớm cùng trưa
Rủi ro thất bại đổ thừa giận thêm
Con nào Chơn-Lý thuận êm
Nghe rồi tự xét tại chiêm ngưỡng nhằm.

24.- Có nghe có biết hổ thầm
Hổ vì mình chịu nhiều năm đọa đày
Nay nhờ gặp đặng đường ngay
Từ đây cứ thiệt khỏi sai khỏi lầm. 

Thăng.

******************

THÁNG GIÊNG MÙNG 9 VÍA TRỜI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 3 âm-lịch 1939 (8 giờ tối)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho KHANH nó nghe, theo trong bài của nó làm đó, hay dở mặc lòng Thầy không buộc, song có một câu nó nói: “Tháng giêng mùng 9 vía Trời” đó là sái với Chơn-Lý của Thầy là vậy. Vì nó là một đứa đứng ra làm anh tại đó mà nó không chịu tới lui Tòa-Thánh đặng học cho rành Đạo-Lý nên mới nói sai siểng như thế.

Đây Thầy cũng hết lòng chỉ cho nó rõ đặng nó dạy lại đoàn em của nó, ngày đó là ngày của Trương-Đạo-Lăng, trong thời kỳ người làm Thiên-Sư ở tại xứ Trung Hoa. Mỗi năm đến ngày đó thì người ngồi tại Văn-phòng định tâm Hồn xuất đến trước Bửu-Tòa Bạch-Ngọc đặng nghe Thầy phân định các điều thưởng phạt, rồi người tỉnh lại như thường; lần lần  tiếng đó đồn đến Triều-đô, vua Tàu nghe rõ mới đến tận nơi chỗ người làm việc mà hỏi, thì người cũng nói y theo lời phán định, xứ nào bị tai nạn, xứ nào được hưởng phước; nói rồi thì vua biên để lại coi quả vậy không? Khi khởi sự nói ra thì người có buộc Vua nước Tàu phải thề không nên nói lậu, vì việc ấy là Thiên-cơ, bởi cớ nên Vua ấy trọn tin mà không dám cho ai hay rõ các điều lợi hại đó. Đến năm sau Vua ấy hạ lịnh cho các quan ghi ngày đó vào lịch gọi là ngày Thánh-Hội đặng nhớ chừng, rồi lần lần mãn phận sự của Thiên-Sư, Vua ấy băng hà; đời sau thêu dệt sửa lại là ngày Ngọc-Hoàng Thánh Đán, đặng bày ra cúng vía, làm cho người đời tin là ngày vía Ngọc-Hoàng, người thì gọi là vía Trời theo lời nó nói đó, ấy là tại thất Chơn-truyền mà thành ra Trời có ngày sanh nên gọi là có vía.

Vậy từ đây nó phải nói lại cho đàn em nó hay, chớ nên tư tưởng như vậy nữa. Còn bài học của nó đó, con sửa đi có Thầy dạy cho.

******************

THƯỢNG-NGUƠN,

TRUNG-NGUƠN,

HẠ-NGUƠN,

NGÀY SÓC-VỌNG,

NGÀY VÍA THÍCH-CA.

Trích lục:

Đàn đêm 17 rạng 18 tháng 9 năm Nhâm-Thân 1932

-------o0o------- 

PHÙNG, bạch Thầy: sự cúng kiến con coi còn lộn xộn quá, không trúng cách của Thầy dạy đây, vì người ta còn đương mê tín quá, khó bề sửa đổi ngay lại một lần cho được, con xin để thủng thẳng con làm nhưng mà có một việc là mấy ngày Vía, mấy ngày rằm nguơn của lệ chùa Phật đó con tưởng nên bỏ đi là phải hơn, xin Thầy cắt nghĩa dạy con thể nào.

- Ba ngày Nguơn chánh tục lệ gọi rằng Tam-Nguơn đó không nên bỏ, vì đều là ngày của Tam-Giáo Thánh-Nhơn đã làm rồi, nên con phải tùng theo, coi như ngày Kỷ-niệm vậy. Tuy ngày ấy không trúng với ngày lịch hiện giờ song cũng không hại chi, còn mấy ngày vía thì con phải bỏ đi, không nên dùng.

- Bạch: ba ngày Tam-Nguơn ấy kỷ niệm việc chi, xin Thầy cho con biết?

- Trong đời Nghiêu-Thuấn có Đại Hồng-Thủy phá hại, đó là ngày Thầy cho Thiên-tai tiêu diệt lũ quỷ chẳng tuân luật Trời, nên mới tràn qua Trung-Nguyên Đại-Lục; đến khi Đại-Võ đào xong chín ngọn sông rồi, thì nước rút hết ra biển cả; Vua tôi nó có làm lễ tế cáo với Thầy, tỏ dấu cám ơn Trời Đất; đến sau Đại-Võ làm Vua, nó cũng cứ ngày ấy tế Trời hoài, đặng xin cho nước rút đi; cái ngày lễ của nó tế đó, tuy không phải là rằm tháng 10 bây giờ, vì nó có lịch của nó, nhưng mà các đời sau nhứt định cho là ngày 15 tháng 10. Vậy ngày ấy là ngày Đại-ân của Đại-Võ, nên phải dùng ngày kỷ niệm đừng bỏ.

- Bạch Thầy còn hai ngày kia???

- Lúc Châu suy, Bàn-Môn Tả-Đạo rất thạnh và rất lộng, nó cũng là cúng kiến linh đình quá hơn bấy giờ. Con không biết đâu, hễ cứ đầu năm mới thì nó đặt điều cúng đủ các thứ Tiên Thánh cho hết tháng giêng mới rồi, gọi là cúng như vậy đặng cầu Thầy ban phước. Lão-Đam thấy nhơn sanh bỏ phế công việc làm ăn nên định lại một ngày: rằm tháng giêng cho gọn, đặng cứu bớt sự thiệt hại của nhơn sanh đó, con cũng đừng bỏ.

Còn ngày 15 tháng 7 gọi là xá tội Địa-Quan, đó là của Thích-Ca định, nhưng Đạo của xứ Ấn-Độ lúc trước đều tín ngưỡng những Thần của chúng nó lắm, là vì chúng nó luận rằng hễ trên Trời có Thần Thánh thì dưới đất phải có ma quỷ, người ta ở giữa. Hễ ai làm phước được nhiều thì chết hồn về trên Trời được thưởng, còn ai làm tội nhiều, khi chết bị phạt cầm dưới đất đặng chịu khổ hình, chúng nó sợ ma quỷ dưới đất lắm, nên cũng trọng ma quỷ và tin tưởng ma quỷ lắm, chúng nó luận ma quỷ cũng ăn uống xài phí như còn sống vậy, mà chúng nó chắc chắn rằng Ông Bà Cha Mẹ chúng nó bị phạt dưới Địa-Phủ chớ chẳng hề khi nào về cõi Trời được, nên chúng nó bỏ hết sự sản đặng tìm cách khổ thân thay thế sự hình phạt cho Ông Bà Cha Mẹ chúng nó. Đứa nào tìm cách khổ thân thay thế được thì làm, còn đứa nào làm không được sự khổ thân thì bỏ của ra mà chuộc tội. Thích-Ca thấy chúng nó quá mê tín vô ích nên định lại một năm thì làm một lần, một lần làm có một tháng là tháng bảy mà thôi; hễ cuối tháng bảy thì cúng tất nhằm tháng trăng sáng, nghĩa là ngày rằm đó. Ấy cũng là một cái phương pháp cứu vớt sự mê tín của chúng sanh đặng cho chúng nó mừng rằng Ông Bà Cha Mẹ chúng nó được nhờ ơn Đức Phật dạy trúng ngày nên được siêu thăng về cõi Trời, như vậy chúng nó mới có ngày giờ đặng về theo mà học đường Chơn-Lý. Vậy thì con cũng chẳng nên bỏ mà làm chi, Thầy xét lại ba ngày ấy nhằm ngày rằm, cũng không thất công cho nhơn sanh về sự hiệp lại đặng tỏ tình thân ái, kết cuộc đoàn thể và trao đổi ý kiến với nhau mà học Đạo.

- Bạch: nếu vậy Thầy cũng dùng theo Nhị-Kỳ mà dạy chúng tôi phải cúng Sóc-Vọng nữa sao?

- Thầy nào dạy con cúng Sóc-Vọng là nghĩa gì? Thầy bảo các con phải nhóm nhau một tháng hai kỳ nhằm ngày Sóc-Vọng đặng trao đổi ý kiến với nhau mà học Đạo cho rõ Chơn-Lý là gì, kết dây thân ái với nhau cho thành đoàn thể. Còn sự đọc kinh là một sự cầu nguyện cũng không nên bỏ, nó rất bổ ích cho tinh thần và dễ bề cho các con tìm xét tội lỗi của mình mà ăn năn.

- Bạch: sao Thầy không định ngày khác, lại định ngày Sóc-Vọng cho giống với ngày của bọn sãi ở chùa nó lập lệ đã lâu rồi, nếu vậy e là tùng ngày của nó chăng?

- Phải định hai ngày ấy, vì nhơn sanh tín ngưỡng hai ngày ấy là ngày của Phật định, mà Thầy đây cũng là Phật, làm như vậy đặng cho nhơn sanh biết Đạo-Lý của sãi chùa là làm sai theo Chơn-Lý, thì nó mới chịu quay về mà theo Phật là Thầy đây.

- Bạch Thầy, còn ngày mùng 9 tháng giêng, tục lệ rằng là ngày Vía của Thầy đó, thì Thầy nhứt định làm sao? 

- Con có rõ ngày ấy là của ai định hay không? Ấy là ngày của bọn Bàn-Môn nó định đặng gạt sanh chúng đó thôi, mà là ngày của bọn nó định trong đời Tống, chớ chẳng lâu lắc chi, con hãy bỏ đi đừng dùng đến, vì Thầy là người mở Trời, dựng Đất, sanh Người, chớ nào có ai sanh được Thầy đâu mà có ngày vía.

- Bạch Thầy, Thầy là người dựng Tam-Kỳ Đại-Đạo, vậy con xin Thầy cho một ngày nào đặng chúng con làm Kỷ-Niệm để đền đáp ơn Thầy chớ chẳng lẽ để dùng ngày của Nhị-Kỳ hoài, e không phù hợp với Chơn-Lý.

- Thầy đã cắt nghĩa cho con hiểu một lần rồi sao con còn hỏi nữa? Từ khi Thầy chuyển bút về Kiên-Giang đặng gìn giữ mối Đạo cho các con, cho đến ngày các con Minh-Chơn-Lý, thì chưa ai rõ nguồn cội Chơn-Lý là nơi Kiên-Giang; vì vậy nên Thầy phải lập An-Thiên Đại-Hội nơi Kiên-Giang đặng cho các con biết. Chớ chi các con Kiên-Giang đừng mê sa lời quyến rũ thì có đâu Thầy lập Tòa-Thánh nơi Trung-Ương mà làm lễ cuộc Tu-My nơi đó. Vậy thì hai ngày An-Thiên và Tu-My đó là hai ngày kỷ niệm của Đại-Đạo.

- Bạch Thầy, còn ngày Minh-Chơn-Lý thì bỏ hay sao?

- Ngày ấy là ngày của các con định mà Minh-Chơn-Lý chớ chẳng phải là ngày của Thầy định cho các con làm, nhưng mà đã có định rồi, vậy Thầy cũng nhìn nhận cho là một ngày kỷ niệm thứ ba nữa, Thầy còn định thêm ngày khác nữa, song Thầy chưa nói ra, e các con còn sẽ bị lầm nữa, sau Thầy sẽ chỉ.

- Bạch Thầy, ngày vía mùng 8 tháng tư của Đức Thích-Ca, Thầy nhứt định thế nào?

- Một tháng của Trung-Nguyên là hai tháng của Ấn-Độ, lúc Thích-Ca còn đương khai Đạo nơi ấy, là vì tục Ấn-Độ từ mùng 1 tới rằm gọi là tháng trăng sáng, còn từ 16 tới 30 gọi là tháng trăng tối; Đạo Phật từ Thích-Ca tịch diệt rồi đến Hậu-Lương mới bành trướng qua Trung-Nguyên thì đủ gần 1.500 năm. Thầy hỏi con còn có ai mà có tài liệu gì chắc đặng khảo cứu cho ắt cái ngày Thích-Ca giáng thế.

Ấy chẳng qua cũng là một ngày phóng ước của kẻ đời sau lập ra đặng gọi là nhớ ngày mà đền đáp công ơn đó thôi; Lại mỗi khi nào có Thầy ngự đến đâu thì đều có Tứ-Thánh đến đó, vậy thì con đừng dùng ngày ấy nữa, đặng chỉ rõ sự huyễn hoặc phi lý của kẻ sau không đáng là người định kỷ niệm cho một bực nào là bực người khai mở nguồn Đạo.

******************

NGÀY THÁNG TỐT XẤU, SAO CHỔI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 4 âm-lịch 1940 (5 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho NGỌ nó hay theo lời nó hỏi xin chỉ về ngày tháng tốt xấu thì Thầy có nói cho HƯƠNG rồi, còn sự định ngày đó thì cứ mỗi tháng nó cứ ngày nào thuộc về thứ hai hay là 9-19-29 làm cũng được, đó là Thầy phán định cho chung, đứa nào cũng vậy, đặng khỏi coi ngày như bấy lâu.

Còn tiếng nói Sao-Chổi đó là tại chữ Nho để gọi là Huệ-Tinh, chữ Huệ nghĩa là Sao-Chổi, đó là của các vị Đại-Thánh thường chiếm Thiên-văn mà để về chữ đó, tại vậy nên đời cứ đó kêu hoài, rồi lại chỉ ra lợi hại mà trong chỗ nói không rành.

Còn cái lằn trắng ở nơi không mà có, đó gọi là hồng chữ Nho nghĩa là mống, hễ trắng kêu là mống bạc, song ít ai nhìn trúng, cứ thấy tương tợ rồi đặt tên, lâu ngày thành ra nói huyễn, đó là Thầy chỉ sơ cho nó biết, chớ Thiên-văn không dễ gì xem, ít tu có đâu thấy đặng.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó coi rồi để vào Luật Bình-Quân đặng phát cho trong Đạo coi cho rõ, còn bài của Thầy dạy HƯƠNG đó thì con biểu mấy đứa dưới Bàn Nguơn-Thần chép ra cho NGỌ nó coi cho dễ hiểu.

******************

COI TUỔI,

NGÀY NGUYỆT-KỴ,

BÁ SỰ KỴ,

NGÀY SÁT CHỦ,

THỌ TỬ VÃNG-VONG,

TỨ LY TỨ TUYỆT,

THƯỢNG-LƯƠNG,

NHẬP-TRẠCH,

KHAI-TRƯƠNG,

XÂY HUYỆT MÃ,

CẤT NHÀ v.v…

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 8 âm-lịch 1939 (9 giờ tối)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói cho HƯƠNG nó nghe, theo lời nó xin hỏi Thầy về việc dùng lịch Tàu đó là chỉ có dùng đặng cho biết tháng thiếu tháng đủ, rõ trong mùa tiết, thay đổi cho có chừng, hoặc là ngày giờ sớm tối, dài vắn theo mùa, đó là lẽ thiệt. Vì trước khi Thầy gieo mối Đạo tại Trung-Nguyên nên nước Tàu được biết trước cái điều nói trên đó, còn nước Nam với nước Tàu thuộc về một trái Địa-Cầu nên phải dùng chung một lịch; nếu không có lịch thì người đời phải chịu dốt, biết tới đâu cho cùng. Tại vậy nên Thầy lập Bát-Quái-Đài đặng để chỉ chừng cho mỗi đứa ráng học đặng mở mang theo Trời Đất, gồm lần trong khí Âm Dương, rồi sẽ thấy đặng các điều trong lịch đó, mà Thầy xem lại mỗi đứa thấy đó tưởng thầm cho là làm để khoe tài nên coi rồi bỏ qua không cố, đó là Thầy chỉ sơ nhắc chừng theo thời cuộc.

Còn đây Thầy chỉ qua việc coi tuổi cho HƯƠNG nó rõ, vì theo luật kết nghĩa vợ chồng Thầy đã chỉ rành trong Thiên-quí, trai thì phải để cho đúng 24 tuổi, gái thì đúng 21, đó là đúng tuổi thành thân. Cái tục coi tuổi theo sách Tàu là phi lý, sách có dạy coi tuổi chớ lịch không dạy coi, hai lẽ khác nhau. Nguyên sách đó là tại mấy hạng văn tài lấy trong Ngũ-hành đặng đem ra làm sách, chế cải nhiều điều, là những đứa đi thi lỡ vận, nên buộc lòng phải làm nghề đó mà nuôi thân, nên nhà Vua không cấm; chớ theo luật Trời thì không có coi tuổi tác chi hết, hễ tình hạp duyên ưa thì trình lễ đặng cáo trình Hôn-Phối.

Còn theo lời nó hỏi về ngày nào chẳng nên dùng như 5, 14, 23 đó là ngày trong lịch gọi là Nguyệt Kỵ.

Còn ngày Tam-Nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27.

Còn Bá sự kỵ là ngày của Bành-Tổ, trong đó là tại hồi mấy người làm lịch hay là làm sách. Mỗi tháng hễ tới ba ngày 5, 14, 23 thì hay có việc trắc trở nên ghi vào sách hay là lịch, kêu là Nguyệt-Kỵ.

Còn ngày Tam-Nương đó là hồi thời nhà Châu có một người nhà giàu tên là Tô-Thuận sanh đặng ba đứa con gái thảy đều có tư dung mỹ lệ, ở vậy không chồng cho đến chừng 30 tuổi mới chết, trong đó thảy đều có lòng mộ Đạo nên khi mãn kiếp trần thì hay giáng hạ, có khi nhập xác cho người phàm có khi chiếu hào quang đặng làm cho người đời rõ vậy mà lo tu cũng là phổ-độ, mỗi tháng thường hay nhập xác hoặc là chiếu hào quang trong mấy ngày nói trên đó, dầu cho ai có việc làm nhà hoặc là được lịnh đi nhằm ngày đó cũng phải ghé lại nhà đó đặng nghe, nếu ai có dạ không tin hay là cãi mà lo làm nhà không chịu đến nghe thì sẽ có điều tai họa, tại đó nên nhà Vua cho phép ghi vào lịch đặng nhớ chừng, là thời kỳ trong lúc đó, chớ không phải nói theo hiện thời.

Còn Bá sự kỵ đó là Bành-Tổ sống tám trăm năm nên để ý trong trăm việc của người làm hễ tới ngày đó thì hay có điều uất trắc nên người ghi để lại gọi là trăm việc là mỗi việc của người tính ra mà làm mỗi việc một trăm lần cũng đều hớt hỏng, nên để tên là Bá sự kỵ, đó là phận sự của người không được vui lòng, chớ không phải tại ngày giờ mà sanh ra điều đó.

Còn ngày Sát-Chủ hoặc là Thọ tử vãng vong cùng là ngày có để tên chư vị hung thần như Thiên-Cang Thiên-Cẩu v.v… đó là ngày của chư Thần đó vâng lịnh Thầy đến bắt mấy tên có tội, như người cầm binh rủi mới ra trận bị gặp lịnh đòi, hoặc là người đương làm nhà hay đám cưới, rủi cho tên đó phạm tội bị chết tại ngày giờ trong việc đó, thì chỉ có một mình Hứa-Sinh-Dương kêu là Hứa-Chung-Quân hay là Lý-Thuần-Phong, Trần-Tử, Khôn-Định, mấy vị tu hành tới Đạo nên được thấy rõ các việc nói trên đây rồi ghi vào sách Đạo đặng để răn dạy người đời, lần lần bọn cải canh thêm bớt để lại cho là ngày cấm kỵ.

Còn ngày Tứ-ly Tứ-tuyệt đó là theo luật trong mỗi năm đều có tám ngày đó như: Xuân-phân, Hạ-chí, Thu-phân, Đông-chí, bốn ngày đó thì có ngày tứ cung đứng một ngày.

Còn như lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, thì có ngày tứ-tuyệt đứng trước ngày đó một ngày ấy là 8 ngày định chừng giao lãnh theo phận sự Vô-Vi, chớ không phải là cấm kỵ chi hết.

Còn ngày Thượng-Lương, Nhập-Trạch, Khai-Trương đó là ngày của bọn làm sách chế ra chớ không có lý nào hết, hễ làm nhà thì phải có Thượng-Lương, làm rồi thì vào ở. Còn sự buôn bán thì theo nghề làm ăn nuôi sống, như nhà hư mà đợi ngày thì chừng nào có nhà mà ở, rồi thân người đó phải ở đâu? còn buôn bán đợi coi ngày rồi lấy huê lợi ai cho mà dùng trong mấy ngày đó? Còn như làm nhà rồi không cho vào ở, hỏi vậy chứ làm ra chi?

Còn người bỏ xác thì cứ việc lo tẩn liệm cho yên chớ không có chọn ngày giờ chi hết, vì cái xác chết nó không có biết chi tới việc đời nữa, nếu người chết hay là cưới gả mà có quan hệ tới việc chết sống thì số mạng Thiên-Điều ở đâu? Phải nhớ chữ: sanh tử do Thiên, thì chỉ biết sợ Trời lo tu hành là đủ.

Còn sự xây huyệt mả, chỉ hướng trở cửa, cất nhà đó là một điều của loài người hay tính tham mà không xét lý, nếu như tên thầy chỉ cho mình đó hỏi vậy chứ tên đó có làm cho ông bà cha mẹ hay gia sự của tên đó có được như lời nói đó không? Nếu không chắc thì sao lại chỉ cho người mà gọi là Địa-Lý, gọi là Dương-Trạch? vì sách Địa-Lý và Dương-Trạch đó là sách của mấy vị tu hành đắc quả làm ra, đặng dẫn thông tướng đất tướng người, tướng nhà tướng cửa, sơn hà thảo mộc, đặng rõ thấu cơ vận hội đổi dời, thì cũng là do nơi Thiên-ý, song mấy vị ấy Tâm Tánh hiệp với Thiên-cơ, nên mỗi ngày thường hay coi chừng các khí tượng của Võ-trụ mà để chừng nơi sách đặng làm Kỷ-niệm coi trong Trời Đất mỗi năm cơ biến đổi hay là thưởng phạt, hoặc là hưng vong trị loạn, thêm bớt số vận theo thời vì sách đó ít ai hiểu thấu, nên người đời sau mượn tên sách đó làm ra, tại vậy nên xa lần điều thiệt, là chỉ tại cái lòng tham nên khó gần Thánh-ý, đó là Thầy chỉ cạn cho HƯƠNG nó nghe, kể từ ngày nay sắp lên, hể nó muốn làm việc chi thì tự hỏi nơi Tâm đừng có vọng cầu vô ích.

Vậy con giao lại cho CA đặng in ra đọc tại Đạo-Tràng Đạo nghe chung, và gởi cho các chủ Thánh-Thất chép ra cho Đạo học, rồi ngày sau CA phải giao bài nầy cho Thiên-Sư in vào Luật Bình-Quân, còn HƯƠNG thì cho phần nó một bổn đặng đọc tại Đạo-Tràng đó nghe chung.

Đây Thầy cũng cho thêm một bài thơ đọc tiếp cho mọi người được rõ:

THI

1.- Nầy khuyên cả thảy trong đời
Phải tua nhớ lại mạng Trời đừng quên
Vận thời có lúc hư nên
Đó là vay trả thưởng đền tại đây.

2.- Tại trong đó chẳng biết Thầy
Thầy nơi chỗ định chỉ bày nhiều khi
Tại ham đời tục níu trì
Mà không nhớ lại trong khi định thầm.

3.- Mỗi điều thường có diệu thâm
Vì mê quên xét bởi tham không ngừa
Thấy người chúc nguyện thì ưa
Biết ưa chúc nguyện mình chưa biết mình.

4.- Mảng ham lời tặng dỗ dành
Tìm phương hướng lợi chịu đành tốn hao
Sao không xét cạn lẽ nào
Người thông Trời Đất thấp cao vận thời.

5.- Hỏi sao người chẳng lập người
Để chi phải chịu kiếp đời khổ thân
Hỏi ra thấy rõ xa gần
Ngụy chơn là tại đó lần trổ ra.

6.- Thác rồi hình thể thúi tha
Ích chi mà lại bày ra coi ngày???
Tuần huờn cổ vãng kim lai
Có sanh có tử chẳng nài bói khoa.

7.- Ở đời kêu gọi người ta
Thì lo cho có cửa nhà gọi thân
Chung nhau hôm sớm cho gần
Gọi là thân luyến hương lân cậy nhờ.

8.- Thuận xuôi theo bến theo bờ
Đường đi giọt nước sạch dơ tại mình
Cửa day nhà lợp thuận tình
Nhơn an vật thụ tánh tình trọn vui.

9.- Ra vào đường sá tới lui
Phải đâu chịu đó người xuôi với người
Vật chi cũng có đổi dời
Mỗi người mỗi ý chỗ nơi cho hòa.

10.- Một đời một cách bày ra
Đời người sanh tử đó là khác nhau
Phải nương phải cậy một màu
Là trong đừng có ỷ giàu ỷ lanh.

11.- Sống đây thấy mặt tranh giành
Thác rồi khuất mặt tiếng lành có không?
Mỗi ai xét đó động lòng
Động lòng thì nhớ Trời trong dạy mình.

12.- Nhớ hoài cảm giác trọn tin
Tin làm sự phải gọi mình biết thương
Đó là thấy rõ Thiên-Đường
Khỏi lo coi bói tìm phương hướng nào.

13.- Ở đời mà chẳng biết nhau
Dầu cho cầu chúc thế nào cũng hư
Muốn nên từ thiện thiện từ
Thì lo học hỏi các lời Phật-Tiên.

14.- Học thông hỏi rõ dữ hiền
Hiền ưa dữ tránh thấy liền chuyện vui
Mỗi điều phải biết thuận xuôi
Thuận ư Thiên lý rõ mùi thế gian.

15.- Ích chi ao ước hoang đàng
Phận lo thủ phận khỏi đàng rủi may
Của trần chung cả ai ai
Kẻ nhiều người ít đổi xây chuyển đồng.

16.- Kìa như người có tay không
Phát ra giàu lớn ước mong chỗ nào
Xây vần kẻ trước người sau
Buổi đầu phú quí, lúc sau bần cùng.

17.- Nên rằng của tạm để chung
Mà trong có chỗ cần dùng sớt chia
Tại lòng người chẳng xét suy
Hễ nhơn tâm vọng thì nguy thấy gần.

18.- Giàu sang tại đó đổi lần
Đời vì nhơn dục quên phần chánh chơn
Khó nghèo lòng dạ có nhơn
Là nhơn tâm tỉnh thoát cơn cõi trần.

19.- Chữ nguy chữ vọng hay gần
Gần tay sang trọng quá mừng quên thân
Đến cơn lộc hết tới bần
Thì ai xây hướng chọn phần được không?

20.- Cho bài để đọc tỉnh thông
Tỉnh tuồng mê tục thông trong Lý Trời
Từ nay cơ Đạo sửa Đời
Mỗi ai muốn trọn phận người thì tuân. 

Thăng.

******************

THOÁT TỤC

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 8 âm-lịch 1938 (12 giờ khuya)

-------o0o-------

Thầy chào các con, các con nghe Thầy dặn đây mà xét …

1.- Trời mở Đạo dạy người thoát tục
Thoát tục là đục lóng ra trong
Đục trong nó ở nơi lòng
Các con ráng lóng cho xong mỗi ngày.

2.- Có nhiều tục xưa nay hằng có
Có chỗ nhằm có chỗ dị đoan
Tục mê phù pháp giấy vàng
Tục ham danh lợi buộc ràng tấm thân.

3.- Tục ham nói, ham ăn, ham giỡn
Tục biết hư không tởn không chừa
Tục này thấy quấy lại ưa
Tục ham lừa đảo dây dưa qua ngày.

4.- Tục ưa muốn dưng chay cúng mặn
Tục không rành số mạng tại đâu?
Tục ham dùng mỵ khẩn cầu
Bóng chàng đồng cốt rỗi tâu thỉnh mời.

5.- Tục không biết luật Trời phép nước
Dám dể ngươi bày chước nói càn
Đặt điều theo lớp dị đoan
Bày ra mối lạ chết oan dân hiền.

6.- Còn một nỗi đảo điên trật tự
Nội gia đình ngôi thứ chưa rành
Vợ chồng, cha mẹ, em anh
Chỗ nơi ngồi đứng sắp thành định xong.

7.- Trong trật tự răn lòng sửa nết
Đặng người coi mới hết tục tà
Ở chung đồng một trong nhà
Mà nghiêm trật tự cho hòa mới hay.

8.- Phải cho rõ người sao là vợ
Sao là chồng, sao tớ, sao thầy
Cha thờ mẹ kỉnh mới hay
Nếu lầm điên đảo hại lây gia đàng.

9.- Còn nỗi tục ăn ngang nói dọc
Ỷ nhiều tiền không học cũng khôn
Tục này bắt chước là đông
Đông rồi xem lại hại dòng giống hư.

10.- Còn thói tục nhàn cư bất thiện
Hay đặt điều làm biếng dưỡng thân
Ở ăn nào biết kiệm cần
Miễn sao xài phí châu thân mỗi ngày.

11.- Còn nỗi tục thày lay chuyện lạ
Dám gạt người chuyện giả nói chơn
Rủ ren nầy uyển nọ đờn
Gạt cho người đến chịu cơn hiểm nghèo.

12.- Tục nầy thế tràng gieo khắp cả
Đã bấy lâu Thầy đã dặn dò
Con nào hơ hỏng chẳng lo
Thì vương vào đó bụi tro lấp mình.

13.- Còn nỗi tục không gìn qui luật
Nói đọc kinh niệm Phật đó rồi
Lâu ngày thành chuyện thả trôi
Nên kêu rằng tục lôi thôi là vầy.

14.- Còn nhiều tục khen hay chê dở
Rồi hỏi ra bằng cớ không rành
Ấy là tục xấu cành nanh
Tục nầy Đời Đạo tranh giành dở dang.

15.- Tục kể chắc giàu sang là phải
Chê người hèn quấy dại cùng ngu
Đó là tại chỗ thiếu tu
Nên Thầy mở Đạo phá mù là đây.

16.- Tục chẳng rõ rành chay, rành mặn
Cứ nói đùa cho đặng phần hơn
Cả hai gầy chuyện trách hờn
Vì chay vì mặn thành chơn có tỳ.

17.- Tục không rõ tiên tri họa phước
Cứ lầm chen lấn lướt cho bằng
Tại vầy mà lố mà lăng
Lâu ngày hư hoại ai bằng với ai.

18.- Còn nỗi tục rày khôn mai dại
Tráo trở qua dòm lại không nhằm
Đó là gọi sái lương tâm
Tục bày ra hại sai lầm dại khôn.

19.- Tục chẳng biết thương hồn thương xác
Tưởng cho là khoái lạc vậy thôi
Đó là cái tục vì vui
Đành quên buồn thảm ngậm ngùi về sau.

20.- Còn thứ tục ốm đau van vái
Cầu quỷ ma cúng lạy tưng bừng
Quên rằng Tạo-Hoá cầm cân
Thưởng đền vay trả nghiệp căn chẳng lầm.

21.- Tục ưa nói lời dâm tiếng dục
Mở miệng coi dường ngục nhốt người
Làm tuồng hoa nguyệt lả lơi
Con nào muốn khỏi nghe Trời dạy khuyên.

22.- Trước khuyên giữ chơn truyền chánh lý
Sau đừng ưa đố kỵ hêu đòi
Dặn lòng sau trước xét soi
Ráng lo gìn phận trọn tươi tốt hoài.

23.- Lời khuyên cả gái trai hành Đạo
Thoát tục đây rồi thạo bước đường
Chớ đừng rày tiếc mai thương
Còn trong khoản tục thì vương lưới tà.

24.- Dầu cho trẻ cho già cũng vậy
Quyết theo Thầy, Thầy dạy phải tuân
Chớ đừng trước mặt chịu vưng
Ra về thì cãi tội ưng chớ phiền … 

Thăng.

HỰU: - Kính Bạch Đại-Đức rõ, vì bài nầy Thầy cho đã lâu mà tôi kiếm không đặng, ngày 25 Thầy dạy phải kiếm ra rồi chép lại đặng trao cho Đại-Đức in ra cho nhiều, phần Thiên-Sư gởi cho các chủ Thánh-Thất chép ra cho Đạo coi cho rõ. Còn tại Thánh-Tòa đây thì Ngọc-Đầu-Sư đứng ra phát và dặn Đạo phải coi theo đó mà làm cho đúng, chớ Luật Bình-Quân nói nhiều họ không biết.

Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài
NGỌC-CHƠN-LONG

******************

TẾT NHÀ,

TẾ THẦN,

ĐƯA ÔNG TÁO,

GIỖ KỴ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 8 âm-lịch 1939 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho KHUÊ nó nghe, theo 9 khoản nó xin hỏi đó, Thầy cũng không chấp, song trong đó có khoản thứ 7 Thầy đã nói trong Luật Bình-Quân về khoản TÂN nó hỏi Trùng-Bố đó.

Còn khoản số 3 Thầy đã có dạy trong ngày Xuân về lễ Khai-Niên, không còn gọi là Tết nhà.

Khoản số 4 Thầy đã có nói cho LƯƠNG trong Luật Bình-Quân rồi, thì nó phải coi lại đó mà xét lẽ.

Còn khoản số 1 nó hỏi đây, đó là về phần trong lòng còn mê theo cổ tục, mà không rõ cách thờ Thần, tế Thần ra sao, nên hay bày ra tế lễ, tại vậy nên buổi đầu Thầy có cho chư vị Thần ấy giáng cơ đặng dạy cho các làng rõ biết các điều lầm, song phần đời quá nặng đành chịu bỏ qua.

Đây Thầy chỉ cách nhà Vua hồi trước dạy làng tế Thần là phải mặc áo rộng rồi hương đèn làm lễ, có đủ mặt dân làng cả thảy tựu lại đặng hầu nghe Hương-Chức chánh tế đọc bài công nghiệp của các vị Thần đó, rồi lấy đó đem ra dạy dân đặng cho dân rõ mà lo bổn phận, từ khi chơn-truyền thất bại, các Vua khác lên ngôi, không kể đến đó nữa, tại vậy nên làng bày ra cúng tế linh đình, cầu vái thủ lợi, tại vậy nên chư Thần không còn ai ở đó nữa, đến thời kỳ nầy Thầy gạn lại như ai theo Chơn-Lý thì cứ lạy có một Trời là đủ, còn ai không tuân thì cứ theo mà cúng lạy trong đó thì chịu lấy.

Còn ngày 23 tết đó là cổ tích để lại chớ không phải bày dạy đưa rước chi hết, còn kinh Táo-Quân là dịch ra đặng khuyên đời sửa lỗi, song trong đó bày ra nhiều chuyện bó buộc không nhằm, tại vậy nên Thầy không cho dùng nữa.

Còn khoản số 5 số 6 đó là về phần cúng đất hoặc là Chúa-Ngu đó là phi lý, vì Thầy đã ra kinh lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn là đủ.

Còn ngày cúng Ông Bà thì chỉ dùng hương đăng hoa quả để tại bàn thờ đặng lạy tại đó mà thôi, còn như dùng ra cho có nhiều món đồ chay đãi khách thì dọn nơi ván hay là bàn chi đó vái chung cũng được, song không được lạy chỗ đó, ấy là Thầy còn cho một chút đỉnh đặng cho vui, chớ theo lẽ thì không có dọn ra nhiều món chi nấu nướng mà gọi là cúng, như có mời anh em thì kêu là đãi tiệc, không có cúng đất đai chi hết …

Còn khoản số 8 đó Thầy có dạy cho HƯƠNG rồi nó phải coi theo đó mà xét.

Còn về vụ mở cửa mả là tục di truyền vì khi trước nhiều người chôn rồi không kịp làm cho kỹ nên phải rào lại đặng ngừa sự vệ sinh, đủ ba ngày lo dẹp việc nhà rồi đến đó dỡ rào đặng đắp thêm cho kỹ rồi kêu là mở cửa mả, tục nầy không nên dùng nữa, đó là Thầy chỉ rành cho nó rõ từ đoạn, nó cứ vậy lo làm, còn ai không tuân thì ngày sau sẽ thấy.

Vậy bài nầy CA in ra phát cho Đạo học, còn một bổn thì trả lại cho KHUÊ, sau đem Luật Bình-Quân theo lời dặn trước.

Thăng.

(L.S.KHUÊ ở Thanh-Vĩnh-Đông)

******************

CÓ BỊNH SỢ TRÙ ẾM,

NGÀY VÍA,

NIẾT-BÀN,

CÚNG SAO HẠN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 9 âm-lịch 1939 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho HƯNG nó nghe, theo lời nó xin hỏi Thầy chỉ cho nó học đặng theo Thầy cho khỏi tai nàn đó. Vậy Thầy cũng dạy chung trong cả thảy chúng sanh đều phải thuận tùng Chơn-Lý, nghe rõ làm y, hằng ngày hằng có dạy chẳng sót một lời, tại nó không để tâm vào, cứ ngó theo phàm tục, mơ tưởng Tây-Ninh mà lại xin Thầy bảo hộ. Thầy đã nói Thầy không nỡ bỏ con nào, tại ỷ tài mà bỏ Thầy thì chịu lấy, nay nó đã thấy rõ các điều, thì buộc phải an lòng lo Đạo, như kiếp nầy chẳng trọn thì còn kiếp sau, Thầy không quên một điều chi hết.

Còn lời nó hỏi về bịnh của mẹ nó đó, một là sợ ai ếm, hai là vái cầu thả cá, ngày vía Niết-Bàn, thì cả hai đều là vô lý. Trong đó Thầy nói cho nó rõ, nó muốn cho mẹ nó được nhẹ nhàng thân xác khỏi tội hành thân, thì phận làm con phải nghiêng mình chịu lãnh, đặng lo tu niệm lập công trừ lần cho tội hết, đó là Hiếu cảm ư Thiên.

Còn ngày vía Niết-Bàn đó là lịch Tàu ghi cho có chừng đặng nhớ là ngày Đức Thích-Ca hội đủ đệ tử mà chọn lựa vào sổ Niết-Bàn, chớ nào phải là ngày để cho kẻ thế gian trừ tội.

Còn sự thả cá phóng sanh, Thầy đã thường răn chẳng nên vọng cầu, vọng niệm; miễn sao cho gặp phải thì làm, làm rồi đừng nhớ, làm được vậy mới gọi là vô tâm vi thiện, dầu cho đến đỗi nào lòng vẫn cũng vui, chớ có đâu ao ước cho đặng vui hoài, gặp buồn thối chí, thì làm sao cho đặng trong Vũ-trụ nầy mà làm ra một người Đại-lực.

Còn các việc cúng sao cúng hạn đó, là tại người đời không rõ trong chỗ hạn định ngày giờ, tùy theo năm tháng, đều có nặng nhẹ khác nhau, ít ai rõ đặng, chớ nào phải lấy theo Ngọc-Hạp, do sách Thông-Thơ, rồi đặt điều tế lễ, mà gọi là giải bịnh tiêu tai, trong đó cũng tỷ dường như may rủi, song vì bọn Bàn-môn, thấy kẻ tu còn mê nên cứ đó thêu thùa thêm mới.

Còn sự ăn chay thờ Thầy cho trọn điều tín ngưỡng, Thầy đã dạy rồi, tại không chịu học, để hỏi dông dài mà làm cho hao ngày giờ lo tính.

Còn hai chữ Đạo Lý thì nó phải biểu HẠNH chép bài Thầy dạy TÂN về hai chữ Đạo-Lý thì nó coi nó rõ.

Còn như việc của LAI đó nó hỏi chi cho nhọc lòng Thầy, nó phải lo phận nó cho tròn rồi sẽ thấy những điều hưởng ứng.

Còn tại Tây-Ninh Thầy đã nói tại chỗ đó không còn chút gì tu niệm là tại nơi lòng của bọn đó quá mê, nên Thầy phải lập Tòa-Thánh Định-Tường đặng cứu vớt lần lần bao nhiêu cũng tốt, nếu nó so sánh Tây-Ninh với Ấn-Độ thì nó phải sai lầm, vì thời cuộc đổi xây, lòng người sanh biến đều có chỗ chẳng đúng, đừng có tưởng như vậy mà hại cho Chơn-thể.

Còn khoản Thầy nói chúng nó cứ tưởng ông bà cha mẹ bị phạt Âm-phủ đó là lời của bọn đó nói Thầy thuật lại cho cả thảy nghe, phải nào Thầy nói, mà HƯNG trở lại hỏi Thầy, song Thầy cũng nói sơ cho nó rõ, cái tiếng Địa-phủ đó là chỉ nghĩa về lời nói không lên đặng Thiên-Đàng nên kêu là Địa-phủ hay là Địa-ngục, Địa-ngục là chỗ để xét tra, Địa-ngục là chỗ để giam cầm tù tội.

Còn lời nó xin Thầy cho nó một bài học Đạo-Tràng cho đúng theo tâm phàm của nó đó đặng nó theo Thầy, đó là lời nói lầm sái, Thầy có dạy đúng là đúng với Chơn-Lý, chớ bao giờ dạy đúng tâm phàm, nếu đúng tâm phàm theo Thầy sao được, tại nó không chịu học hỏi hai chữ Tâm phàm cho rành nghĩa lý, cứ lo hỏi chuyện dông dài rồi hóa ra dục vọng.

Như câu niệm Cao-Đài Tiên-Ông đó là hồi Đệ-Nhứt Tiểu thời kỳ, Thầy chưa nhứt định lập Đạo-Tràng nên cho danh là Tiên-Ông, chớ chưa được xưng tụng chánh danh hiệu Thầy Cao-Đài Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, đó là chỉ nghĩa độ đời.

Còn câu kế đó là về quyền một vị Đại-Thiên-Tôn cũng như Chưởng-Giáo, vị đó có quyền xem xét đặng ban phước ghi tội cho cả loài người là thay thế cho Thầy nên để danh là Thượng-Đế song chưa đúng bực Chí-Tôn.

Còn hiện giờ thì niệm như vầy: Nhứt tâm qui hướng Huyền-Khung Kim-Khuyết Ngọc-Hoàng Đại-Đế Đại-Thiên-Tôn Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, đó là gồm chung tất cả Tam-Kỳ danh hiệu.

Còn việc Thầy dặn làm cho đúng thiệt đó là khó làm, hễ làm cho thiệt đúng, khác xa với phàm, còn phân biệt tà chánh là khác nữa, hễ làm cho thiệt thì đừng mê tục, chẳng sợ ai phiền, mỗi điều nói trước sau khỏi mích lòng, miệng sao lòng vậy, có mặt cũng không chẳng hề sai đổi, đó là đúng thiệt, vậy nó hỏi nó coi được chút nào chưa?

Còn việc Chức-Sắc hoặc người đó nó chẳng hỏi làm chi, vì bọn đó ở về Đệ-Nhứt Tiểu thời kỳ, còn Thầy dạy tới Đệ-Tam đem ra hỏi không ăn thua gì hết, nhưng nó phải biết vậy, Chơn-Lý đây không có vẽ bùa, cũng có đau có mạnh, còn phái đó làm rộn cũng có tử có sanh, lấy đó đoạt thành lý thiệt thì chẳng cần hỏi đâu xa, hễ biết tu là trọn cả.

Còn trong Đạo nó hỏi về cơ bút đó là vì tại các hồn ai được rảnh thì về, ai không rảnh thì thôi, ích chi mà phải hỏi.

Đây Thầy nói tóm tắt cho HƯNG nó biết, hễ muốn tu cho thành thì đừng có vọng, nếu vọng thì phải sai lầm, đó là lời chắc, Thầy khuyên nó phải an lòng, ráng lo học lo hành là đủ.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó coi rồi trả lại cho HƯNG.

(NGÔ-VĂN-HƯNG ở Thành-Triệu, Bến-Tre)

******************

THÔI NÔI,

ĐẦY THÁNG,

ĐỔI ĐỐT

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 13 tháng 12 âm-lịch 1939 (6 giờ sáng)

-------o0o-------

1.- THƯỢNG hành hạ hiệu nghe NGUƠN
PHỐI là cho trọn Đức Nhơn Hạnh Từ
SƯ truyền thọ mạng vô tư
HÀ ngôn như hữu sự như thế trần.

2.- XUÂN sanh Địa đại phải cần
NGUƠN nguơn hóa hóa xa gần tại tâm
HỌC Chơn-Lý nhiệm khỏi lầm
ĐẠO Trời nào có vị phàm bỏ qua.

3.- Tam-Kỳ Đạo-Luật đã ra
Phá-Mê tầm lý đó là sự chơn
Thôi nôi đầy tháng thói thường
Chè xôi vịt lợn một trường nhố nhăng.

4.- Thù ân đáp nghĩa lễ hằng
Mười câu tại nguyện gọi rằng chỗ nên
Nghe rồi phải tập cho quen
Trời cao Đất rộng nghĩa đền ơn lo.

5.- Có nhiều lời nói quanh co
Cũng nên phải biện làm cho thỏa lòng
Mong mong lạy lạy giáp vòng
Chí-Công mạng số cũng đồng tử qui.

6.- Lạy Thầy, Thầy dạy con ghi
Mở mang đời tục phải tùy BÌNH-QUÂN
Việc chơi phi lý khuyên đừng
Bỏ qua đặng giữ trọn phần kỉnh tâm.

7.- Các điều con hỏi đó nhằm
Nhằm theo Thầy dạy sửa lầm ra nên
Tục đời đầy tháng đặt tên
Thôi nôi cùng đốt chớ nên tập làm.

8.- Phải suy phải xét cho nhằm
Hễ sanh thì có tên phàm tuổi năm
Thôi nôi cùng đốt không nhằm
Một năm một tuổi đất phàm mượn thê.

9.- Bóng chàng vỏ địa đừng mê
Đó là giả dối vì nghe đảng đồng
Phải rành không có, có không
Sắc không, không sắc tại lòng chẳng suy.

10.- Rõ rồi điều tục dứt đi
Trước làm sau ngó đồng đi một đường
Hễ làm đừng có lương khương
Tử sanh hữu mạng nhớ thường ngưỡng triêm.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì trả lại cho NGUƠN (Sa-Đéc).

******************

ĂN TẾT,

DỰNG NÊU,

KHAI HẠ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 22 tháng 12 âm-lịch 1939 (8 giờ tối)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho KIẾN nó hay, cái tục dựng nêu trong 7 ngày Tết đó là tục của Quảng-Dung ngày trước, vì Người là học trò của Thái-Thượng. Trong năm đó Thái-Thượng có nói tiên tri với Quảng-Dung rằng: năm tới đây luật Trời có cho Thiên-Cẩu xuống phàm đặng sát hại về tội hung ác, duy có một huyện Hoài-Ân thì khỏi, là huyện đó không phạm vào án đó, phạt các chỗ trong 7 ngày là từ 1 cho tới mùng 7 tháng giêng thì đủ. Quảng-Dung nghe đặng rồi liền lén đến huyện Hoài-Ân mà di ngôn rằng: Năm tới đây có cái nạn chết về phong xù, nếu ai muốn khỏi thì phải lãnh bùa của tôi về đốn tre làm nêu rồi treo lá bùa nầy lên đó thì vô sự, phải để cho đúng 7 ngày sẽ hạ; trong đó Quảng-Dung vẽ năm ngang bốn sổ cho có chừng, chớ không phải bùa nào vậy hết, vẽ rồi phát ra kỳ hạn hễ đúng 7 ngày vô sự thì phải đem lễ vật đền ơn, người phát bùa có nội huyện đó rồi trốn mất; thiệt quả, đến ngày mùng một tháng giêng cho tới mùng 7 thì các nơi đều bị phong xù, hễ phạm nhằm thì ngứa gảy sần mình rồi chết, chết cho đủ 7 ngày thì hết, duy có huyện Hoài-Ân thì vô sự, đủ 7 ngày trong huyện đó tựu đến nhà Quảng-Dung mà đền ơn, thiếu chi là tiền của, chừng Quảng-Dung ra mặt đặng hưởng của người đền ơn, Thái-Thượng hay đặng đòi Quảng-Dung về mà quở trách rồi thâu hết bài vở đuổi đi, chừng đó Đạo-Tiên sẽ bế lần là tại nơi học trò thừa dịp, nên ngày nay còn tích dựng nêu là tại đó.

Còn tích không cho đốn cũi phá rừng đó là tích của Vua Cao-Hán, hồi trước cố ý thương dân, nên ra lịnh cấm trong 7 ngày đó đặng để cho thong thỏa chơi Xuân, gọi là biết ngày ăn tết.

Vậy cái tục lên nêu đó không nên dùng, còn sự làm ăn thì tự mình xét lấy, muốn cho thong thỏa tấm thân thì nghỉ, bằng không thì làm, đó là chỗ hỏi mình coi thiếu đủ thì tự nghỉ chớ không có quan hệ chi hết, song cái tích đó cũng nên giữ gìn là thương cái thân cực khổ mãn năm, mà nghỉ có mấy ngày, lẽ nào lại tiếc.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để vào Luật Bình-Quân thứ nhì, còn một bổn thì trả lại cho KIẾN nó coi đặng nói cho anh em nó rõ.

******************

ĐỪNG AI CÃI BÀN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 5 âm-lịch 1939 (12 giờ trưa)

-------o0o------- 

Giờ trưa điển giáng Thiên-Đài
Dặn đồng con dại đừng ai cãi bàn.

1.- Cãi là cãi nầy an nọ biến
Bàn là bàn theo chuyện dị đoan
Đó là lòng tục còn mang
Nếu mang không bỏ hại tràng tới cho.

2.- Thầy thương dạy thì lo thì xét
Có xét lo mới biết có Trời
Chớ đừng có tập giỡn chơi
Mà quên đời khổ, cả đời chịu nguy.

3.- Thầy từ lập Tam-Kỳ Ân-Xá
Cả thế gian chẳng sá lời truyền
Tại vầy mà kết khổ riêng
Khổ riêng là chỗ mình chuyên sự thù.

4.- Thầy mở Đạo dạy tu là sửa
Sửa cơn thù đặng trở về nhơn
Cho nên khó nhọc chẳng sờn
Vì thương nên mới hạ trần nhủ khuyên.

5.- Mỗi con chớ tưởng hiền là dễ
Chỗ nên hiền dưới thế ít ai
Có khoe có nói mỗi ngày
Buộc vào tâm tánh thì sai lỗi nhiều.

6.- Đã đành vậy còn thêu dệt dối
Bày dị đoan gầy tội ra hoài
Mỗi nơi đều mỗi nói Thầy
Đó là mượn tiếng định bày gạt nhau.

7.- Thầy thấy rõ lòng đau dạ thảm
Đau thảm là ác cảm gì đây?
Cứ tin tà mỵ xưng Thầy
Truyền ra huyễn thuật phô bày tự tôn.

8.- x Mỗi con Chơn-Lý ráng phòng
Phòng nghe quái mỵ giành trong dỗ ngoài
Phe nầy có gái có trai
Xen vào trộn kiếp, kiếp nầy kết oan.

9.- Thầy nhìn thấy vậy thở than
Là thương cho đứa cãi bàn chẳng thông
Mở ra trường Đạo dạy đồng
Ỷ mình không học tại lòng rẽ chia.

10.- Cãi bàn lời nọ tiếng kia
Làm cho lỡ dở thị phi không rời
Đó kêu là khuấy Đạo Đời
Đạo Đời, Đời Đạo đổi dời lại qua.

11.- Đổi xây lành dữ đó là
Dời đi xa chỗ người ra khác người
Lại rồi coi lại tả tơi
Qua năm rồi tháng ngày mơi tới chiều.

12.- Bỏ qua không rõ ấy nhiều
Nhiều trong chỗ đó dập dìu tới lui
Tại lòng không rõ gọi vui
Vui lần lủi vậy đời xuôi trọn đời.

13.- Giờ trưa Thầy giáng để lời
Thì con mỗi đứa nghe rồi nghiệm suy
Nghiệm từ ngày lễ Tu-My
Suy cùng lời nói Thầy ghi vẫn còn.

14.- Năm rồi Kỷ-Mão đó con
Canh-Thìn bước tới nhìn non nước tường
Cho nên đó vậy là thường
Chê rồi quên nghĩ nẻo đường lạc xa.

15.- Thương đồng con cả Giái-ba
Trời nơi chỗ Một hỏi ra không tường
Nên kêu đó lạc nẻo đường
Lạc xa nẻo đó thì vương thảm sầu.

16.- Ỷ tài đá lẹ nhảy cao
Chê lời Đạo thấp ngày hao mỏn lần
Cãi bàn rồi nổi cuộc sân
Đó là dậy lửa đốt thân thể mình.

17.- Quên coi lời Sắc Ngọc-Đình
Quên vầy mới phạm tội dành là đây
Cãi bàn thêm quá động lây
Nên Thầy giáng dạy từ đây khá dằn.

18.- Con nào biết vậy thì an
Con nào không kể dầu than cũng rồi
Dặn chung về Đạo về Đời
Con đồng thế hạ nhớ Trời Một đây.

19.- Nhớ rồi mới rõ mình hay
Là hay tự giác từ nay ngán thầm
Ngán rồi thì mới an tâm
Hễ an tâm đặng chừa ham cãi bàn.

20.- Đặng gìn một lý cho an
Trời trong sự sáng đừng toan cãi Trời
Nói cho tột lý cạn lời
Các con dầu Đạo dầu Đời cũng đây;
Phải kiêng chỗ sáng là Thầy
Thì đâu đến đỗi đọa đày tấm thân.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho đây là Thầy khuyên dỗ chung, song Đời Đạo ít ai thường xét nên khó mà tu hành cho đặng, vậy con phải biểu CA nó nhóm 5 Thiên-Sư lại tỏ theo lời Thầy nói trên đó, như trong đó có ai dám bố thí bài nầy ra ít nhiều hay là xuất của Đạo mà in ra gởi cho các chỗ trong đó nếu ai có đặng thì đọc cho gia đình nghe đặng rõ Trời cứu thế, đó là người biết thương người là vậy. 

Phải in trước ít bổn gởi cho núi Cấm trước đi.

******************

TAM CẢNH ĐÀN LINH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 7 âm-lịch 1940 (11 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói trước đây cho mỗi đứa có mặt làm lễ tại giờ nầy nghe rõ, vì cơ Đạo Thầy chuyển về Thượng-Nguơn là khó, song cái khó đó là cái chỗ lánh nạn hiện thời.

Vậy mỗi đứa nó phải để lòng ghi nhớ tại đây là Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi, là nơi Thầy thường giáng đặng ra lời phán định, chừng nào CA nó làm rồi tại đây với Thánh-Tòa, Phổ-Đà, gọi chung là Tam-Cảnh Đàn-Linh, là ba rồi về Một, cái tiếng đó từ cổ kim ít người hiểu đặng, xưa nhiều người xiêu lạc cũng vì không rõ thấu tiếng nầy, nay chẳng quyết Đạo Thầy cũng là do vậy đó. Vậy từ đây Thầy để lời khuyên nhủ mỗi đứa nào bất luận nam nữ hễ có nghe đặng hiểu đặng cái tiếng nói trên thì ráng mà nhắc nhở với nhau, đừng có tưởng dành riêng một mình mà mang tội là hiểm.

Còn Con với VÂN, THU đó là ba đứa Thầy thường lo ung đúc Tinh-Thần để phòng thay đổi về sau, thì ba con cũng phải ráng nhớ lời Thầy dặn ngày nầy, đừng có bỏ qua rồi hóa điều xao lãng.

Giờ nầy Thầy nói bấy nhiêu lời đó là tỏ lần cái cơ huyền bí cho trong Đàn cả nghe chung, phải ráng để lòng, đừng có vọng tâm mà có tội.

ĐƯỢC con đọc trước giờ hành lễ rồi giao lại cho CA đặng nó in ra cho con với VÂN, THU mỗi đứa một bổn đặng để dành sau sẽ rõ lời Thầy không sai.

******************

CHƯƠNG III

CÁC BÀI DẠY VỀ LỄ-NGHI VÀ TRẬT-TỰ

GIỮ LÒNG THANH TỊNH

TÒA-THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG
HỘI-THÁNH CHƠN-LÝ

BỐ CÁO

Để lời dặn chung Chức-sắc và Đạo-hữu lưỡng phái:

1.- Phải nhớ mình là người Đạo-Đức, phải để lòng cho thanh tịnh, đặng cầu nguyện cho Phong-điều Võ-thuận, Quốc-thới Dân-an, dầu ở nhà hay là đi đường, tới đâu cũng phải nhớ vậy, đặng noi lòng đừng ham bày bác.

2.- Phải nhớ lời Đức-Mẹ dạy trong kinh Tây-Vương vế 14-15:

Tu phải giữ lặng êm là gốc
Tu phải chừa cái nọc nhiều lời
Con ôi! tai họa khắp nơi
Tại người uốn lưỡi khua môi hại mình.

Chữ một dạ kỉnh thành làm trước
Lòng đừng lo họa phước có không
Có không là luật Chí-công
Có không cũng tại nơi lòng các con.

3.- Cúng Đàn khuya rồi đừng vội rủ nhau đi về lúc đêm hôm có nhiều điều không tốt.

4.- Tới nơi Tòa-Thánh, ăn có chỗ, ở có nơi, nói lời Đạo-Đức, đừng bày đặt rủ nhau ra quán lều, cùng là đứng ngồi nghinh ngang, làm mất vẻ trật tự.

5.- Việc chi không phải của mình thì đừng đem ra phô bày gọi là hỏi người cho biết, nếu ai quên vậy thì mang họa có ngày.

Trong 5 điều nầy cũng có dặn nhiều, nay sợ vì trong Đạo hay quên, nên để lời nhắc lại. 

Xin hết lòng lo nhớ đặng tu niệm cho tròn.

Sao lục nguyên văn bố cáo: 

Đề ngày 11 tháng 7 năm 1943 

Của Đức Ngọc-Chơn-Long,
Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài

Ngày 15 tháng 3 âm-lịch 1942

HỘI- THÁNH

******************

BỚT NÓI HÀNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 5 âm-lịch 1940 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

Nầy mỗi con có chí học hành ráng nghe Thầy dặn đây đặng an lòng theo Đạo nghe mỗi con!

THI

Mỗi con thường nói học hành
Học hành thì bớt nói hành chuyện tư.

1.- Trong chỗ học rành hư rành thiệt
Trong chỗ hành phải xét trọn bề
Bớt điều bày bác khen chê
Khi đi tới học, khi về phải tuân.

2.- Tuân là giữ trọn phần yên ổn
Đặng phân rành khỏi lộn gièm pha
Đạo Thầy Chơn-Lý một Cha
Hễ tu thì học trọn hòa thế gian.

3.- Dầu ai có bạo tàn ngang ngửa
Mình trước lo gìn sửa phận mình
Mặc dầu kẻ trọng người khinh
Quyết tu lòng một trọn tin nơi Trời.

4.- Đời hỗn tạp mặc đời tranh đấu
Đạo nhơn từ nương náu phận quê
Đặng cho bề thuận xuôi bề
Đó là theo học, học về chỗ vui.

5.- x Ích gì khôn dại ngược xuôi
Nói lanh tiếng xảo, nói rồi tặng hay
Hễ tu thì niệm mỗi ngày
Ngày coi chuyện đó thấy hoài gắt gay.

6.- Cho nên Thầy chỉ đoạn nầy
Đoạn nầy là đoạn cãi Thầy nói gian
Mỗi con thường học Đạo-Tràng
Thầy khuyên đừng có rộn ràng lố lăng.

7.- Cứ dò bài học cho an
Dò đâu nghiệm đó, Đạo càng sáng thêm
Đặng nương nhau vậy thúc kềm
Ích chi lời nói gây hiềm tỵ nhau.

8.- Nói hành nầy thấp nọ cao
Nói cho quá nói mầy tao xa lần
Mỗi con nghe vậy nhớ chừng
Nhớ chừng Thầy dặn khuyên đừng lả lơi.

9.- Học khoa Chơn-Lý Đạo Trời
Thì thân phải xử vẹn người vẻ ta
Con hành thì tốt đẹp Cha
Cha Trời dạy dỗ lấy Hòa lập thân.

******************

MỘT CÂU THẤT ĐỨC ĐỌA ĐÀY NGÀN NĂM

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 21 tháng 5 âm-lịch 1944 (11 giờ trưa)

-------o0o-------

Thầy thương Thầy dặn hoài hoài
Một câu thất đức đọa đày ngàn năm.

1.- Các con chớ tính thầm canh cải
Mà chưa hay khốn hại theo kề
Đến chừng kết cuộc càng ghê
Thấy càng thêm thảm đâu hề có sai.

2.- Thầy thường dặn hoài hoài là đó
Đó các con nào rõ răn lòng
Tự mình biết sợ là xong
Biết thân người sống ráng phòng dọc ngang.

3.- Thầy đã nói bạo tàn tiêu hủy
Thầy đã than đừng ỷ lại mình
Phải chừa cái tật hớ hinh
Phải kiêng Trời Phật phải gìn lý thâm.

4.- Đừng có vội, vội lầm theo đó
Đừng dể-duôi rồi khó nên người
Việc làm đừng tính giỡn chơi
Việc tu đừng hẹn chiều mơi qua ngày.

5.- Đó Thầy nói lâu ngày rồi đó
Cuộc đời đây nào có sai nào?
Cãi Trời lòng muốn tự cao
Hễ bao nhiêu tự lộn nhào bấy nhiêu.

6.- Con nào biết dò theo Tạo-Hóa
Thì tấm thân thong thả nhẹ nhàng
Gọi là tùy mạng thân an
Các con cần nhớ, chớ toan nghịch Trời.

7.- Tuy đã biết con người cả thảy
Điều khó khăn lợi hại không rành
Mãn đời vì đó cạnh tranh
Vì quên Đạo-Đức ghét ganh dẫy đầy.

8.- Các con ngó hội nầy rồi gẫm
Gẫm tại đâu mà thảm như vầy
Gẫm rồi thì đó mới hay
Là hay thất đức tao mầy đọa chung.

9.- x Con ôi! lớn nhỏ buổi cùng
Ráng nghe Thầy dặn, ráng tùng vận cơ
Ích chi mà luống dật dờ
Người ta mà vậy có nhờ cậy chi?

10.- Kìa loài thảo mộc vô tri
Cũng còn nương vận thời qui sắp thành
Các con lòng dạ bao đành
Người ta mà nỡ hại đành người ta.

11.- Lớp thì đổ tại quỷ ma
Mà quên mình ỷ họa ra khó ngừa
Cuối cùng vậy đó đã chưa
Trời khai Đạo-Lý tưởng như chuyện thường.

12.- Ngày nay rõ sự tuần huờn
Hỏi ai mà sớm biết đường thạnh suy
Hỏi ai bày chuyện tu trì
Hỏi ai mà đoán cuộc Bi Hoan nầy???

13.- Hỏi rồi ai đó mới hay
Mình đây là nghịch, tội lây cho mình
Các con đừng vị nhơn tình
Tình điên đảo hoại không nhìn phải chăng.

14.- Đến chừng thấy sự ăn năn
Vị chi điều quấy tinh thần mỏn hao
Các con lớn nhỏ nghèo giàu
Đừng cho thất đức hạng nào cũng vui.

******************

CẢI TÀ QUI CHÁNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 22 tháng 2 âm-lịch 1944 (6 giờ sáng)

-------o0o-------

Nầy mỗi đứa nghe Thầy hỏi:

1.- Nhiều đứa đọc CẢI TÀ QUI CHÁNH
Đọc nhiều sao sửa hạnh chẳng nhiều
Đứa thì còn luyến tự kiêu
Đứa ham tiền bạc, đứa liều lõa lơi.

2.- Đứa lại đắm vào nơi rượu thịt
Cải tà đâu, chánh định là đâu?
Đọc thường nhiều bữa nhiều câu
Nhiều sa đắm vậy, nhiều lâu tội nhiều.

3.- Con nào tự biết điều mau sửa
Đừng bỏ qua tội chứa chan đầy
Vậy rồi tu niệm chi đây
Vậy rồi Chơn-Lý đắng cay sao đành.

4.- Con nào thiệt tu hành thì quyết
Quyết làm nên cần diệt thói tà
Đặng gìn chánh đáng người ta
Luật qui Trời định đâu là phải chơi.

5.- Thầy hỏi trước gạn lời cho kỹ
Sau thấy rành phi thị từ đây
Từ đây Độc-Nhứt Cao-Đài
Từ đây đừng để tiếng lây ngạo cười.

6.- x Nầy con mỗi đứa nghe rồi
Lớn than cùng nhỏ trọn đời gìn nhau
Thân phàm đây đó mầy tao
Chánh tà tua biết hạng nào nấy lo.

7.- Đặng vui trường Đạo Chơn trò
Trò theo một Lý bề cho phải bề
Chớ rằng đọc đó Thầy nghe
Mình không chịu sửa đâu hề có nên.

******************

CHÚA RA ĐỜI,

GIÁO-TÔNG XUẤT THẾ,

PHẬT-TỔ GIÁNG LÂM,

THÁNH HIỀN RA DẠY DỖ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 23 tháng 4 âm lịch 1941 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Hiện nay trong cả thế gian bất luận là Tôn-giáo nào, hễ có ngồi lại hay là gặp nhau, đi đứng ngoài đường, thì chỉ có trông cho: Chúa ra đời, Giáo-Tông xuất thế, Phật-Tổ giáng lâm, Thánh-Hiền ra dạy dỗ. Nói vậy thì biết nói mà hỏi lại Chúa là ai? Giáo-Tông là ai? Phật-Tổ là ai? Thánh là ai? Thì trong phần ao ước đó nghe rồi cũng còn ngơ ngẩn. Tại vậy nên có lòng khẩn nguyện mà không nhìn trước ngó sau, dầu có gặp cũng như là không gặp, tại vậy mà không quyết lòng tu là vậy đó.

Vậy giờ nầy con ngự tại Hiệp-Thiên-Đài đây, Thầy cho ra một câu nầy viết ra cho CA nó coi rồi in ra gởi cho các nơi nào có tin Đạo ít nhiều coi mà tự xét, còn tại đây thì dán Đông-Lang, Tây-Lang cùng các Văn-phòng cho mỗi người coi rõ, các chủ Thánh-Thất về phần Thiên-Sư phải gởi cũng dặn như vậy.

Viết ra một câu như vầy:

Lấy theo Tâm-Lý hiểu rằng
Thì đâu cũng một lẽ hằng vậy thôi.

Tại Thánh-Tòa đây cùng các nhà tư mỗi đứa đều phải viết câu nầy bằng chữ Nho, dán hàng cột giữa, cùng chỗ nhà có thờ Trời Phật.

******************

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 9 âm-lịch 1941 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

KHUÊ, con nghe Thầy dạy:

Lấy theo Tâm-Lý hiểu rằng
Thì đâu cũng một lẽ hằng vậy thôi.

1.- Đó Thầy nói cho rồi chuyện ước
Là ước mơ cho được gặp Trời
Tâm hòa Lý một gồm nơi
Thì đâu cũng một đây Trời Phật đây.

2.- Hiểu rằng vậy đừng ai viện cãi
Ráng mà suy nghiệm lẽ cho cùng
Lẽ hằng là lẽ dặn chung
Hằng lo, hằng sợ, hằng trung hiếu thành.

3.- Vậy thôi vậy đâu đành gọi sái
Dầu cho ai cũng vậy không ngoài
Nếu ngoài vậy đó thì sai
Thì đâu cũng một lý hay biện nhằm.

4.- Lấy theo Đạo tĩnh tâm tầm lý
Hiểu rằng thông tự trị cũng vầy
Thì đâu cũng một danh Thầy
Cũng hằng xây chuyển cũng gầy cuộc tu.

5.- Mơ ước vọng mà ngu không dứt
Lo kiếm Trời rộn rực rồi thôi
Tĩnh tâm tầm lý không rồi
Trời đây Phật đó viện lời bỏ qua.

6.- Dầu Thiên-Chúa cũng là dạy vậy
Dầu Giáo-Tông cũng cậy tin Trời
Lấy theo Tâm-Lý một lời
Tùng ư chí thiện Ta Người trọn đây.

7.- x Hai câu gồm trọn chỉ bày
Con nào ao ước từ nay ráng dằn
Đặng coi chừng một lẽ hằng
Phải thì theo vậy, vậy rằng hiểu xa.

8.- Ra đời ai cũng người ta
Song đều có khác, khác là tại đây
Khác chưng là thiệt chỉ bày
Khác vì không chuộng giành oai thế thần.

9.- Khác là lời chánh lập thân
Khác hơn là vậy coi lần đó coi
Hiểu rằng thôi phải vậy thôi
Dầu ao, dầu ước đâu rồi tới đâu?

10.- Chỉ tường cặn kẽ vài câu
Con bền Tâm-Đạo lần lâu thấy lần
Bền là tâm tánh tự tân
Đạo đừng mê tục thì thân rảnh rời.

******************

HIỆP THÀNH CƠ THỂ BÁT-QUÁI & PHẬN SỰ CHỦ THÁNH-THẤT CHO NGƯỜI NHẬP MÔN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 9 âm-lịch 1943 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho LIÊN nó hay, theo bản đồ của nó vẽ đó thì ngày trước Thầy có chỉ cho NHƠN vẽ tại ngày 23 tháng 11 tại Tòa-Thánh Trung-Ương, nhằm Lễ Tu-My 1937, nay NGÀN nó có in vào Chi-Hảo đó, là về Tam-Kỳ mà có Tam-Tiểu thời kỳ ẩn trong.

Còn LIÊN nó vẽ thêm Bát-Quái đó là nó cũng có công tìm nhưng mà chưa thấu lý, là vì tại Tây-Ninh Thầy cũng có nói Bát-Quái mà chưa thấy ai làm được cho giống, rồi qua Đệ-Nhị Tiểu thời kỳ Thầy sai PHÙNG làm Hiệp-Thiên-Đài thì lập tại Trung-Ương, cũng chưa rồi Bát-Quái, là vì cơ vận phải đợi cho đến Mậu-Dần Long-Hoa, có Hàng-Long giáng thế mới được. Trong hai năm trước Mậu-Dần là Tý với Sửu, đó là về Thiên-Lý ứng tâm cho phần ai ra làm Hiệp-Thiên-Đài thì nấy biết, đợi cho tới Mậu-Dần là hội nhơn-sanh nên mới thành Bát-Quái. Nên kể từ cung Cấn là Sửu, Dần cho đến cung Khảm là Mậu-Tý thì đủ 10 năm, trong đó Đại-Thành Đại-Kiếp kỳ tám chục sắp ra, bọn Thiên-Cang Địa-Sát còn dạ nghịch Trời lần lần tiêu hết. Đó là Thầy chỉ cái lý hiệp thành cơ thể Bát-Quái là cơ mầu nhiệm của Thầy xưa nay, hễ Đạo tại đâu thì có tại đó.

Còn nó nói mấy lời gọi là Thánh-Giáo tiên tri đó thì nó phải đem về Hiệp-Thiên-Đài đặng Thầy dạy con xét lại rồi mới chắc, chớ nên lượm lặt rồi nói lắm không nên.

Còn phận sự của nó làm chủ Thánh-Thất cho người nhập môn thì cho Thường Thiệt Tin, tới đâu Thầy chỉ cho tới đó, chẳng cần hỏi trước làm chi, miễn nhớ trọn lời Thầy là dặn người nhập môn phải trả bài Thường-Niên tại Phòng-văn Thái-Đầu-Sư, phải ngồi U-Minh, mỗi mỗi việc chi đừng làm sái lời Thầy thì trách nhậm tự nhiên lần vững. Đó là Thầy nói bấy nhiêu, con giao lại cho CA đặng nó in ra trả lại cho LIÊN coi cho rõ.

******************

ĐÈN CHỮ XUÂN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 12 âm-lịch năm 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói cho Hội-Thánh hay: phải lo làm một cái đèn chữ Xuân 4 mặt, 4 màu đỏ, vàng, xanh, trắng; vuông 1 thước tây, mười nét bề lớn 0m12, trong mỗi nét phải có gắn đèn đặng làm cho tỏ rõ, thấy đủ nét Xuân, làm cho kịp đặng đến ngày 29, đúng 6 giờ chiều treo lên, đó là tiếp Xuân khỏi cựu là vậy đó; treo trước Bát-Quái-Đài, trên cao, nét dưới chữ Xuân kế liền mái nhà. Còn cách làm Thầy có chỉ Vô-Vi cho con thấy rồi, vậy con phải giải bài nầy cho Hội-Thánh hay, còn việc làm cùng không là tự quyền mấy đứa nó nhứt định, chớ con không hại chi mà ngại.

Đó là lời Thầy dạy cách thưởng Xuân đặng cầu cho cả thế gian hưởng nhờ sự sáng, nếu Hội-Thánh chịu làm thì tại đây là hạnh phúc đó.

Kể từ ngày treo chữ Xuân đó lên rồi, chúng nó sẽ thấy đặng sự vui trong Tòa-Thánh, còn Tòa-Thánh là một chỗ để cứu sống cho nhơn sanh, thấy màu Xuân tỏ rạng đó là điều quí báu cho cả thảy. Nếu ai chịu thính tùng Chơn-Lý thì có chỗ trông nhờ, bằng nghịch mạng không nghe thì phải chịu tránh ra cho khỏi … song khỏi đó rồi sao? thì tự xét lấy.

Con biểu CA nó in ra gởi các chủ Thánh-Thất thấy đặng truyền bá cho Đạo với Đời hay mà tỉnh ngộ.

******************

RƯỚC XUÂN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 11 âm-lịch 1940 (9 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho Thiên-Sư hay: trong đó mỗi đứa nó phải in lời Thầy dạy đây, hay là chép ra đặng ấn chứng gởi cho các chủ Thánh-Thất đọc cho Đạo nghe chung. Theo lẽ thì tại Thánh-Thất phải truyền ra cho Đạo buộc mỗi người có đứng tên tuổi vào Chơn-Lý đều phải học bài Thầy dạy đây, nam nữ cũng vậy, đặng cho khỏi trách Thầy sao không nhắc, không dạy, là vì năm Canh-Thìn gần mãn thì Tân-Tỵ sắp sang, đó cũng là một cái cơ mầu chuyển xây vận hóa.

Vậy mỗi đứa đã vào Chơn-Lý thờ tượng Trái-Tim thì buộc phải tuân theo Luật Bình-Quân đều nói đủ, cần nhứt là tới ngày tết năm Tân-Tỵ đây cứ tùng theo luật Thầy dạy, cách rước Xuân cùng là Khai-Niên đó gọi là ngày tết, phải bỏ dứt tục phàm, đừng có mê theo mà làm như cũ, nào là dựng nêu, khai hạ, nào là xuất hành, tết nhà, đưa ông táo v.v… trong các điều đó Thầy đã dạy bỏ, đừng có tuân theo, đừng có dể ngươi rồi sa vào Đại-Kiếp Ngũ-Lôi thì chịu lấy. Đó là Thầy vì quá thương mà không nỡ bỏ, nên phải buộc lòng nhắc qua dạy lại, đặng cho mỗi đứa nào có nghe, có đọc mà lòng dạ không tin, thì phải định xét lại năm Canh-Thìn Thầy chỉ Khai-Niên, Thầy tỏ lời than thở đó.

Nay đã gần qua năm cũ, năm mới hầu kề, nếu muốn cho thoát tục khỏi trần thì phải tuân lời Thầy, làm cho tròn vậy thì mới gọi là con Trời thế hạ, Hồng-Lạc Tiên-Rồng, cháu con lần tỉnh.

Cái phần nhắc lại cho trong Chơn-Lý hay đây là về 5 Thiên-Sư xem xét. Còn tại Thánh-Tòa thì về phần CA đọc tại Đạo-Tràng cho nam nữ nghe chung, rồi cũng in ra giao cho Ngọc-Đầu-Sư gởi chuyền cho mấy khóm Đạo-Tràng ở gần Tòa-Thánh, đặng truyền ra cho rõ, nếu trong đó bỏ qua thì tội ai nấy chịu, dầu Thiên-Sư cũng vậy.

Đây Thầy cho ra một bài đặng chúng nó đọc rồi suy nghiệm:

THI

1.- Than rằng Đời Đạo hỡi ai
Có hay là thiệt Trời nay cứu đời
Tại sao người chẳng sợ Trời
Đành mê theo tục lụy đời vậy ôi.

2.- Tỉnh cơn nầy thấy chuyện đời
Rồi sao lại dám gọi Trời xúi hư
Người mê làm mất nhơn từ
Rõ Trời dạy lý, phước dư nhịn nhường.

3.- Mỗi điều cứ biểu Trời thương
Trời thương Trời dạy, cự đương chống Trời
Lắm cơn đày đọa thân người
Chịu rồi trở lại đổ Trời khiến chi?

4.- Đạo Đời đều cũng Hoan Bi
Tại lòng nhơn dục trở nghi cho Trời
Nhơn tâm nào kể vận thời
Dục tình đưa đẩy vào nơi thảm sầu.

5.- Rõ xa thời cuộc đáo đầu
Coi gần lại kỹ người đâu hỡi người
Tưởng thầm cho vậy là chơi
Chơi rồi sanh thiệt tại nơi thói phàm.

6.- Thiệt nầy là thiệt hiểm nham
Không dè hiểm đó lại đam để dành
Lòng nham dạ đấu tung hoành
Rồi gây dài đậm mối manh lạc rồi.

7.- Lạc rồi hết kể chi vui
Lạc rồi lâm lụy đầu đuôi khó tường
Lạc rồi mới rõ Thầy thương
Lạc rồi đâu dễ nhớ đường thiện lương.

8.- Thầy khai đạo quí Định-Tường
Hễ chê thì lạc chớ đường chẳng xa
Canh-Thìn nay đã gần qua
Con nào đắm tục nhớ xa độ gần.

9.- Nhớ coi nầy quỷ nọ Thần
Nhớ coi lời Đạo-Đức tân cứu rành
Duy tân dò lý thiệt hành
Lòng mê thủ cựu vậy đành hết trông.

10.- Luật Trời là gọi Chí-công
Thương đời nên buộc hết lòng dạy khuyên
Hoát khai rộng rãi chơn truyền
Tại người chê vậy, vậy hiền hóa ngu.

11.- Phải đề huề một ý tu
Thì đâu có khổ có rù quến đâu?
Mỗi con Chơn-Lý nhiệm mầu
Nay đành tỉnh trọn một câu nhơn từ.

12.- Nhơn tâm dò lóng ngăn ngừa
Từ-bi Đạo-Lý Thượng-thừa, Hạ, Trung
Cả ba trong đó có dùng
Tùy theo sức một Đạo-Trung duy truyền.

13.- Trải sang lòng dạ đức hiền
Ngày duy-tân tựu bình yên có ngằn
Đó là gọi bổn gọi căn
Con người phải ráng định phăng mới nhằm.

14.- Năm nầy qua trọn một năm
Từ Khai-Niên hiệu diệu thâm đủ lời
Hàng-Long đương vận cứu đời
Thừa Thiên thế lập gầy nơi chỗ lành.

15.- Mỗi con Chơn-Lý nghe rành
Nghe rành ráng sợ kỉnh thành Độc-Tôn
Bớt lần cái tục ỷ khôn
Cái phàm ỷ mạnh phần đông cãi bàn.

16.- Cái mê về sự mơ màng
Cái u về trệ lòng gian dạ tà
Cái cuồng ngông bọn quỷ ma
Cái hư lầm lũi hại Ta giết Người.

17.- Lại thêm còn cái biếng lười
Cái này muôn việc rã rời lụn tiêu
Xét trong mấy cái không nhiều
Ngặt vì con dại đánh liều rủ đông.

18.- Nhiều đông quá vậy đau lòng
Đau lòng Thầy ngự mỏi trông đứa chừa
Chừa là thấy đó chẳng ưa
Là trong mấy cái tục vừa ý riêng.

19.- Từ nầy cho tới Khai-Niên
Là năm Tân-Tỵ ráng yên dặn lòng
Các điều hủ hoại dứt xong
Đừng mơ rằng chắc hại trong tới ngoài?

20.- Trong là lạc lý nhiệm sai
Ngoài ham về tặng rủi may một hồi
Ra lời dặn trước khúc nôi
Con đồng cả thảy ráng noi một đường.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho ra đây đặng đọc cho tới ngày lễ Khai-Niên, hễ đọc nhiều, nghe rõ làm theo, đó là lánh tục.

******************

HỒI HƯỚNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 10 âm-lịch 1939 (1 giờ khuya)

-------o0o-------

Nầy các con nghe Thầy hỏi: kể từ ngày Thầy khai Đạo ra đến giờ, các con mỗi đứa nhớ lại coi Thầy có dạy riêng đứa nào không? Thầy chỉ có hết lòng dạy dỗ chung. Sao nay đã đến buổi Đạo qui thành Chơn-Lý mà trong phần đông lại còn có tánh riêng là tánh thường hay trông cho đứa giàu sang ở thế vào Đạo cho nhiều đặng làm vai cánh. Nếu mỗi con có lòng trông đợi vào tu cho chung hiệp là phải, còn chỗ trông cho có vai cánh đó là chỗ ý tư riêng, là tại nơi lòng có nhiều điều sanh nạnh.

Vậy Thầy nói cho mỗi đứa hay rằng: Thầy không chọn giàu bỏ nghèo, không bỏ giàu mà yêu nghèo khổ. Cái giàu sang với cái nghèo khổ đó là cái vay trả của mỗi đứa ở thế gian nầy, căn trước kiếp sau, thưởng đền qua lại, thì tự nói mỗi đứa biết vậy đều phải lo tu. Tỷ như đứa đương hưởng giàu sang buổi nầy, thì phải nhớ lại trong đó có làm điều gì tội lỗi thì phải lo tu hành bố thí đặng giúp Đạo lập Đời, ngõ hầu nối lấy thiện duyên về tới. Còn đứa đương chịu nghèo khổ cay đắng thì phải biết rằng tại kiếp trước ít tu hành nên ngày nay phải chịu nghèo khổ, thì cũng phải ráng lo làm công quả tùy theo sức của mình, đặng chung nhau vùa giúp, hiệp một đừng chia thì trong đó cả hai đều đặng hưởng nhờ chung một điều vui vẻ. Chớ có đâu, Thầy thấy đứa giàu sang tưởng của ấy là của mình lấy sức phàm làm ra, nên không kể chi là tu niệm; còn đứa nghèo khổ thì chỉ biết mình tới đó, vậy thì tu hay không cũng là bực đó. Nếu cả hai tính vậy, Thầy rất tiếc cho uổng cái kiếp làm người trong thời kỳ gặp Đạo, nên buộc lòng Thầy phải để lời hỏi trước chỉ sau, đặng mỗi đứa nghe chung mà tự xét. Mỗi con phải biết rằng: Trời Đất không có lòng nhĩ ngã, Thần Thánh không có dạ tư riêng, thì mỗi con phải biết trong cách ở đời: của chung người tạm, có tu hành mới rõ đặng Đạo-Lý ít nhiều, chớ vội tưởng bo bo giữ cái xác cái hình đó rồi lại trông cho đời thạnh thế thì cái trông đó rất nên vô ích.

Vậy Thầy cũng vui lòng cho một bài thơ để đọc nghe chung gọi là:

HỒI HƯỚNG

THƠ RẰNG:

Hồi đầu hướng thiện gọi là tu
Tu đặng cùng nhau rõ lạc thù
Thù oán cái Ta Người phải dứt
Dứt rồi tỉnh ngộ thích hiền ngu.

TIẾP THI LUÔN:

1.- Để lời dạy kẻ phàm phu
Giàu sang nghèo khổ phải tu, phải hành
Đặng chung nhau một chí thành
Thành không lấn hiếp cạnh tranh vui vầy.

2.- Kể từ vay trả bấy nay
Kiếp Luân-hồi đọa dầu trai gái đồng
Lần lần lạc Tổ xiêu Tông
Vì quên chỗ thiệt rồi ngông thói tà.

3.- Đạo Trời gầy dựng kỳ ba
Đó là để ĐỘ, để HÒA, để KHUYÊN
ĐỘ nhau cho phỉ chí hiền
HÒA nhau như một mối giềng trọn thâu.

4.- KHUYÊN nhau đừng có cơ cầu
Trong ba điều trọn Đạo-mầu tại Nam
Tại vì nhiều đứa còn ham
Ham vì phe đảng tục phàm khó buông.

5.- Thấy vui mà chẳng thấy buồn
Tại vầy nên lạc vào truông hố nhiều
Thầy răn Thầy dạy đủ điều
Không tuân rồi lại viện điều cải canh.

6.- Giàu nghèo đều cũng Trời sanh
Biết Trời sanh phải biết lành biết nên
Nghèo giàu cũng có tuổi tên
Tuổi tên muốn rạng tại nên tại lành.

7.- Phải chừa nạnh hẹ cành nanh
Đặng lo gánh nặng lập thành từ đây
Biết thân sanh tại chỗ nầy
Chỗ nầy cơ Đạo sắp bày chỉ đây.

8.- Phải dò trong đục trở day
Đặng theo thời cuộc đừng ai cãi bàn
Tính lo vô lý rộn ràng
Làm cho đến đỗi bạo tàn chịu hư.

9.- Đạo Trời là Đạo vô-tư
Giàu sang nghèo khổ lấy NHƯ làm đề
NHƯ TÂM vi thứ trọn bề
Hữu công hữu lực đề huề trọn công.

10.- Sanh sanh hóa hóa tại lòng
Lòng không chia rẽ một lòng một ngôi
Mỗi con lo trọn cho rồi
Lớp sang lớp tới đừng rời rã nhau.

11.- Đó là Thầy sẵn ước ao
Ước ao được vậy đời mau thái bình
Hễ ai mình biết thương mình
Thì nghe lời Đạo trọn tin cho phù.

12.- Chung cùng cho vẹn vẻ tu
Đó là thạnh thế ngàn thu lâu dài
Chỉ cho HỒI HƯỚNG một bài
Mỗi con ráng đọc, đọc hoài thấy vui.

******************

THẬP-NGŨ LINH-ĐĂNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 11 âm-lịch 1939 (12 giờ khuya)

-------o0o-------

Nầy các con nghe Thầy dặn: Các con ôi! các con thiệt cũng có lòng mộ Đạo, nên chẳng nệ đường xa theo phần xác thịt mà trở về chầu lễ Tu-My. Thầy xem trong đó phần đông còn nhiều chỗ sụt sè, là không quyết trọn Tin về Một. Tại vậy nên Thầy phải để lời dạy trước cho mỗi đứa nào lòng dạ lương khương đặng nghe rồi mau rõ.

Nầy mỗi con, Thầy đã nói trước cho mỗi đứa hay rằng: CA nó đã mãn trách nhậm, đặng cho mỗi đứa nào hết lòng vì Đạo thì để trọn Đức-Tin, chung nhau mà lo cho tròn nghĩa vụ, đó là chẳng phụ lời Thầy, vì dạy ra điều phải, sau là phỉ dạ anh em, là trong lúc CA còn tại đây đặng vui lòng, vì ít lo cho ngày sau không người lo Đạo, đó cũng là một cái Một mà làm ra cho có nhiều cái Một, cũng là một cái lòng thành vì Đạo, vì nhơn sanh, chung hòa hiệp tác, thì có chi hơn nữa? Đã biết vậy là phải rồi, song Thầy thấy mỗi con ít có hay nhớ lời Thầy dạy trước ngày lễ này tại Tòa-Thánh phải làm cách nào cho ra ngày lễ Tu-My? Còn tại nhà tư, hoặc các Thánh-Thất cũng ít có để ý vào đó, nên gọi là chưa trọn.

Vậy các con phải nhớ lại coi lời Thầy phán ra còn y không sái, ngặt mỗi con còn dạ bơ thờ, tại vậy nên Thầy buộc lòng nói cho các con rõ: là trong mỗi đứa phần nhiều chưa sắm cho đủ 15 ngọn đèn, còn những đứa có sắm rồi mà không nhớ lời Thầy dạy ngày đó, đêm đó phải đốt cho đủ, có đứa nhớ mà lại vì sự tốn hao nên đành bỏ qua cho rồi việc, thương cho đứa nghèo nàn mà có lòng nhớ lời Thầy, ngặt cho bề thiếu thốn nên dạ chẳng vui. Đó lời Thầy trước dạy sau than, có răn có thưởng, đặng cho mỗi đứa về đây nghe rành các lẽ rồi tự lòng xét lại phải Trời giáng thế lo chung, hay là tay phàm đặt chuyện, thì mỗi đứa tự hỏi cho rành, đặng dễ bề tới lui cho phần xác thịt.

******************

CHƯƠNG IV

HÔN-NHƠN, TANG-LỄ

LƯƠNG DUYÊN DO TÚC ĐẾ, GIAI NGẪU SÁNH ĐÔI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 1 âm-lịch 1939

-------o0o-------

HƯƠNG, con ghe Thầy dạy:

1.- Điệu chồng vợ nhơn duyên là phải
Thiên tạo Nhơn trai gái hai hình
Cũng do oan trái mà thành
Cũng do Túc-Đế buộc tình mến yêu.

2.- Lương tâm thuận độ điều khuyên nhủ
Duyên mặn nồng chồng chủ vợ tôi
Còn câu giai ngẫu sánh đôi
Đó là số diệc chỗ ngôi Khôn Càn.

3.- Chữ Quân-Tử tạo đoan phu phụ
Đạo làm trai phải đủ nhơn nghì?
Rõ điều cách vật trí tri
Phải lo học hỏi trước khi vợ chồng.

4.- Đặng thấu rõ ngoài trong gia phép
Dạy vợ con khuôn khép hoàn toàn
Thánh hiền gọi chữ tạo đoan
Đó là một mối gia đàng cho thông.

5.- Xưa Khổng-Tử dày công dạy dỗ
Tại đời sau chẳng mộ xa lần
Vợ chồng là chỗ tương thân
Bỏ qua khuôn phép hóa lần tà tây.

6.- Giềng Tam Ngũ cả hai điều trọng
Phải cho rành chỗ dụng tùy cơ
Đạo Quân Thần phải trọn nhờ
Cha con tử hiếu, tóc tơ vợ chồng.

7.- Nhơn Nghĩa Lễ Trí đồng ư Tín
Trong Năm-hằng đều chánh tại tâm
Nghĩa Nhơn Lễ Trí chẳng lầm
Tín trung cho phải nhờ tâm lọc lừa.

8.- x Đạo chồng vợ có từ xưa
Nhơn duyên tráo chác vì ưa tục phàm
Sắc tình luyến ái phải cam
Lả lơi hoa nguyệt nữ nam không chừa.

9.- Mở lời đưa đỏng gió mưa
Tâm tà biến động lời xưa quên đành
Âm dương hiệp nhứt tạo thành
Là nhơn duyên thọ trao tình gởi thương.

10.- Lần lần gây sự oan ương
Vì ham sắc dục chịu vương bịnh phàm
Âm dương nhứt nữ nhứt nam
Xác trần mê muội muốn cam cho nhiều.

11.- Tinh thần tại đó giải tiêu
Giảm thương quí thọ hồn đeo A-Tỳ
Rõ ràng lạc cực sanh bi
Cũng vì tại thấy hiểm nguy không sờn.

12.- Nặng nề ràng buộc đòi cơn
Trách ai xui khiến gầy nhơn quả nầy
Dạy cho con rõ một bài
Gặp khi đối đáp sẵn Thầy dạy cho.

13.- Hiểu rồi con phải cần lo
Chánh tâm thận độc chớ cho sai lầm
Mỗi điều cũng ở tại tâm
Khuyên con ráng định thì tầm khỏi sai.

14.- Nhơn duyên nghĩa lý dông dài
Trái oan Thiên tạo chẳng ngoài nợ chung
Xét suy cho cạn cho cùng
Kết nhau làm bạn đặng phòng nắng mưa.

******************

ĐÁM CƯỚI MẶC ÁO RỘNG,

CHE LỌNG,

NÓN CỤ QUAI TƠ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 26 tháng 6 âm-lịch 1943 (4 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho LỢI nó nghe, trong 4 câu nó giải về Nhứt-Thiên, Nhị-Dụng, Tam-Tài trong Đuốc-Chơn-Lý số 32 trương 14 đó là bài Đạo-Lý Thầy chỉ cho NHƠN ngày trước đặng NHƠN nó coi đó mà nghiệm ra coi phải thiệt Thầy ban điển cho con không? Còn nó đánh đổ đó với bài nó làm ngày trước vẽ ra 15 chấm tượng hình tam giác đặng nó lấy đó mà ghi vào tâm trí chớ nên phai lợt rồi kết cuộc nên hư sẽ thấy.

Ngày nay LỢI nó lấy theo sức biết của nó mà giải ra, Thầy cũng mừng cho nó biết Đạo-Lý, dầu thấp dầu cao cũng là có biết, chớ Đạo-Lý là vô cùng, song cũng không ngoài Thiên-Lý.

Còn sự nó xin hỏi Thầy con trai con gái đến ngày cưới sao lại mặc áo rộng, mà lại có che lọng, nàng dâu đội nón cụ quai tơ? Sự tích đó lâu rồi là vì hồi đời Vua Hoằng-Trị thấy trong thế gian không đợi đến cha mẹ định đôi bạn cưới gả, vừa ý thì đi theo với nhau nên nhà Vua ra lịnh từ đó sắp lên, con trai con gái chẳng nên bỏ qua câu: giá thú bất cáo phụ mẫu, nếu phạm vào đó thì trị tội nặng nề. Còn ai giữ trọn cho đến ngoài 20 tuổi, cha mẹ định cho, thì phải đến Nha-môn hay là Triều-đô mà xin trình đặng trong đó cho phép thành thân là lịnh của nhà Vua, nên Vua cho phép mặc áo rộng màu gọi là điều thưởng, còn nàng dâu đội nón cụ quai tơ, có bưng rổ may, chàng rể thì bịt khăn đen bưng quả. Hai món đó điều có lịnh nhà Vua cho phép để vào đó đặng bưng đi, nên phải che lọng là che cái lịnh của Vua nên ngày nay có lễ làm Hôn-Thú với tiền dằn quả hay là rổ may là hiệu lịnh của nhà Vua hồi trước. Nếu con trai, con gái mà giữ trọn tới ngày làm lễ cưới thì được hưởng trong mấy giờ đó đặng thế gian coi đó mà giữ gìn cho trọn niềm sở sanh thì sở định.

Còn con trai cưới vợ, cha mẹ vợ kêu là chàng rể, con gái về nhà chồng, cha mẹ chồng gọi là nàng dâu. Sách Nữ tế Nam hôn (chữ … này nghĩa là dâu nữ tế) hễ có con gái thì phải có rể, có con trai thì phải có dâu là chữ Hôn trên đó, vì hai đứa nầy không phải là con của hai đàng mà nó kêu cha mẹ chồng cùng là cha mẹ vợ, nên sách Châu-Lễ mới để ra hai tiếng rể dâu cho phân biệt.

******************

TRẦU CAU VÀ RƯỢU ĐÈN ĐÁM CƯỚI

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 12 âm-lịch 1943 (6 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho LIỀN nó nghe, cái tục trầu cau rượu đèn là 4 món để dành dùng định lễ thành hôn hay là thành thân cho có chừng gọi là con trai con gái phải giữ cho trọn câu phụ mẫu sở sanh sở định, cho có vẻ rỡ ràng, khỏi mang tiếng của cha mẹ mà tự do thành ra vô lễ, có chỗ gọi là bất cáo nhi thú, hễ có cáo thì phải có lễ, trước trình cho Ông Bà quá vãng hay, sau tỏ cùng bổn tộc, rồi sau lần lần canh cải, người thì đi trầu đội, kẻ thì trầu khiêng, làm búp sen coi cho được, chớ theo phép đôi trầu chén rượu đôi đèn là đủ. Đó là một điều lễ định từ xưa nay, làm người lớn khôn thì phải có vậy, mới là người biết Đạo. Còn ngoài ra nhiều người, kẻ nói tiếng nầy, người chỉ cách kia, đó là tại mấy người học văn chương bày ra đặng khoe mình là biết, chớ lý thật là Thầy chỉ đây không cần nói dông dài cho lắm.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì trả lại cho LIỀN, cùng gởi các nơi ghim theo bài dạy bỏ tục mà gọi là mùng 5 tháng 5 như ngày tết đó đều là bài phá mê tục của đời.

******************

BỐ CÁO HỘI-THÁNH CHƠN-LÝ

TÒA-THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG

Kính,

Lời dặn trước cho chư vị chủ Thánh-Thất và các Chức-sắc nam nữ làm đầu theo khóm Đạo-Tràng đặng rõ:

Từ đây sắp lên, nếu trong Đạo có ai qua đời mà người trong nhà đó không chịu làm theo Đạo thì Thánh-Tượng đó như không chịu thờ, thì phải trả lại cho Hội-Thánh, không ai được làm bướng lấy treo lại cho những người không tùng Chơn-Lý, sợ học bài và ngồi U-Minh mà lại muốn thờ Thiên-Nhãn Trái-Tim, rồi thừa dịp người làm bướng lấy treo qua, người đem về treo cho có chừng, thì xét lại như vậy có cảm ứng chi đâu trái lại bị người đời kiêu ngạo là khác.

Xin Chức-sắc chớ quá vị tình mà quên mình cãi Thầy mà mang tội, như ai có lỡ trước rồi, thì Chức-sắc phải đem Bố-cáo nầy đọc cho người ấy nghe đặng xét mình mà tự hối; nếu không chịu làm y theo lời Bố-cáo nầy thì Chức-sắc biên tên người ấy gởi về Tòa-Thánh đặng cho Hội-Thánh biết người làm bướng như vậy không thể nào nhìn nhận vào Chơn-Lý đặng. Như có bịnh hoạn hay là qua đời thì Chức-sắc và Đạo-hữu không nên thấy treo tượng đó mà xúm lại cầu kinh, thì mình còn thêm tội nữa. Còn như con hay là cháu, vợ chồng chi chi trong nhà qua đời đó mà còn treo tượng Trái-Tim thì buộc phải hành theo Đạo, cúng tứ thời v.v… thì từ đó sắp lên mới gọi là người noi theo dấu Đạo. Nếu người treo tượng cho có chừng thì cũng không trông gì Hội-Thánh nhìn nhận.

Vậy Hội-Thánh ra Bố-cáo nầy cho Chức-sắc hay ráng chăm nom nhắc chừng cho Đạo rõ.

Nay Bố-Cáo

Mỹ-Tho, ngày 4 tháng 4 âm-lịch 1944

Thái-Đầu-Sư: Thái-Kim-Nhựt

Trung-Thiên-Sư: Trung-Thành-Sư

******************

THỜ 15 NGỌN ĐÈN & DẠY VỀ VIỆC HÔN-NHƠN TANG-LỄ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 12 âm-lịch 1944 (4 giờ khuya)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho HÙM nó nghe, trong khoản 15 ngọn đèn Thầy đã có dạy rồi hồi mới lập ra, tại nhiều đứa không muốn tìm cho hết lời Thầy dạy, mỗi việc chi lấy ý riêng, tại đó mà thành ra bàn cãi.

Đây Thầy dạy riêng về phần ở nhà tư hay là ở Thánh-Tòa cùng là Thánh-Thất, hễ có làm lễ chi thì phải đốt cho đủ 15 ngọn đèn, còn cúng tứ-thời theo ngày thường, Thầy không buộc đốt đủ.

Còn sự thờ phượng Tứ-Thánh tại nhà tư Thầy không buộc, còn thời Tý tại nhà tư thì tự ý mỗi đứa muốn cho nội nhà mình thuộc kinh cúng thì cứ đọc kinh Tứ-Thánh đặng cúng cho quen.

Còn sự Hôn-Phối Thầy cũng có dạy rồi cứ đó làm y theo. Còn đôi đèn của Sui trai đem đến Sui gái đó là đôi đèn để dưng trình lễ Từ-Đường chỉ cứ để nơi bàn thờ ông bà. Trong việc đám cưới có khay trầu rượu, khi rước dâu về hay là mới tới nhà Sui gái, trong đó hai đàng đều có bưng ra gọi là rước hộ, đến chừng mãn tiệc bên Sui trai, họ đàng gái sửa soạn ra về thì cũng bưng trầu rượu ra nói gọi là lễ đưa hay là cám ơn chung trong đó, thì hai vợ chồng mới phải có mặt tại đó đặng lạy giã ơn, chớ không có đôi đèn nào gọi là nghinh hôn tống hôn chi hết.

Còn trong vụ đám tang Thầy đã có dạy rồi là có một vị chứng đàn đó quỳ với tang chủ, còn bao nhiêu mặc áo gắn chữ đứng đọc kinh theo thứ tự, đây là làm lễ cúng Thầy, rồi mới đứng dậy đốt hương đặng cầu siêu độ.

Còn mỗi lần làm lễ cúng Thầy thì ngày trước tại nhà tư đánh 12 tiếng chuông, còn Thầy ra luật mới đây là kể từ ngày 15 tháng 12 này phải đọc 4 câu xưng danh hiệu của Đức Chưởng-Giáo rồi sẽ đánh chuông.

Chớ không có kệ khởi Cửu-Thiên khai hóa nào hết, đó là trong lúc làm lễ cúng Thầy, chớ sau cầu việc khác thì khỏi đọc.

Còn sự vợ chồng, kẻ có Đạo người không, trong lúc người vợ hay là chồng có Đạo rủi qua đời, nếu tang chủ chịu bằng lòng làm y theo Đạo luật thì Đạo được phép cầu siêu song phải có đổi tượng Trái-Tim kia mới được, dầu người theo Đạo trọn nhà mà không đổi tượng thì cũng không được phép cầu.

Còn sự giúp việc trong đám tang đó là về phần ở đời tới lui giúp đỡ chia buồn Thầy không cấm.

Còn cha mẹ đã có Đạo, mà con gái đã có chồng rồi mà không có Đạo thì không thể nào yêu cầu Đạo trong việc đó được, duy có nghĩ tình cáo phó giùm cho là đủ, vì đứa đó hồi còn sống không chịu học tu, đến chết cầu siêu sao được.

Còn trong việc đi điếu đám tang Thầy không cho lạy, điều đó đã lâu rồi, duy có trong dòng họ thì được phép lạy, mà đừng có để đầu heo tại trước đầu Săng, đó là Thầy cũng rộng chế cho chớ cũng không nên làm quá lẽ. Còn những người có Đạo mà không cần, thì ngày chết tự ý muốn làm sao thì làm, trong Đạo tới đó là giúp việc tống táng đó thôi, vì Thầy đã có nói hoài, Đạo Thầy là Chơn-Lý, không phải là chuyện cầu vui hay là mua khen chi hết, thiệt Đạo mở dạy đã mấy năm rồi, hiện nay coi lại phần học, phần tin mười chưa được bốn, vậy rồi làm sao cho mình được vững vàng Chơn-Lý.

Theo mấy lời nó nói: nào là nó lo tránh tiếng thị phi, nào là tận thiện, tận mỹ, nào là bước sang đường Thượng-cổ, thiệt mấy lời nó nói đó nó phải xét lại nó; thị phi với tận thiện tận mỹ đó là nó phải xử mình cho vẹn Đạo-Lý, cho rành đường Thượng-cổ không phải cầu danh là một lý Đại-Thành để thưởng cho người hiền biết vận thời lo tu hành thì mới rõ bước sang đường đó.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, từ đây Thầy dặn chung cả mỗi việc chi trong Chơn-Lý mà mình không hiểu đó thì phải chịu khó tìm ra mà học, vậy mới có công, vì trước Thầy có ra lịnh cho các nơi về chép Thánh-ngôn, Thánh-huấn, Thánh-giáo, đặng hiểu cho rành các lời trong đó, trừ ra chuyện nào chưa tìm chưa thấy Thầy dạy thì mới làm sớ cầu xin, vậy mới trọn bề tu hành tìm Lý.

******************

ĐÁM TANG,

LẠY XÁC,

ĐI ĐIẾU,

PHỔ-ĐỘ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 6 âm-lịch 1943 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho KHIẾM nó hay, trong lời nó xin hỏi Thầy đó nó phải xét lại mấy chữ Thầy dạy con làm dấu gạch đít, nó coi lại với Thầy nói đây mà xét cho rành.

Như hai chữ Đạo Thầy thì nó phải nhớ: Đạo Thầy chánh-trực ai tày . . . . . Còn 4 chữ Tĩnh tâm tầm lý lại còn mắc hơn nữa, đó là Thầy chỉ ra các điều trong Đuốc Chơn-Lý hay là Thánh-Giáo Thầy có dạy rồi thì nó coi theo đó, nhớ theo đó, làm theo đó, đặng làm gương cho đời ai biết thì nhờ, ai chê thì chịu.

Còn việc đi đám tang ấy là chia buồn trong khi kẻ còn người mất, nên Thầy cho bài đọc đặng cho người có Đạo trong lúc sanh tiền thì buổi chung qui, có thể hồn tỉnh đặng ít nhiều, chớ người không dùng Đạo-Đức đem ra đọc làm gì?

Còn việc lạy xác đó là trong dòng họ thì được lạy, mà không nên để những đầu heo tại giờ mình lạy.

Còn việc đi điếu nghĩa là giúp cho người tang chủ, chớ lạy cùng không lạy cũng không hại gì? Như đám xác đó mình không lạy, tới mình người khác khỏi lạy.

Còn Phổ-Độ là khác, nó phải nhớ lại câu Thầy chỉ như vầy: Chỉ cho trẻ đường đi Phổ-Độ . . . . . đọc cho hết hai vé đó thì biết, rồi cứ vậy lo tròn thì Chơn-Lý rộng dài nhờ do chánh-lý.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho KHIẾM, cùng là in ra gởi cho các chủ Thánh-Thất đặng đọc cho Đạo nghe cho rõ.

******************

TẨN LIỆM,

NGỌN ĐÈN DƯỚI QUAN TÀI,

COI GIỜ CHÔN,

XIN KEO TÌM HUYỆT MẢ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 5 âm-lịch 1943 (2 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nói lại cho QUANG TRẠCH nó hay, cái tục chết rồi tẩn liệm mà lại có để ngọn đèn dưới quan tài, đó là tích Khương-Thái-Công làm phép trá tử cho Võ-Kiết, người sau noi đó làm hoài, chớ theo Chơn-Lý thì không nhằm chi hết, Thầy có giải rồi, nó phải tìm chép ra mà học.

Còn sự chết rồi muốn chôn mau hay là để lại thì tự nơi phép Nước với trong gia-đạo liệu lường, chớ không có ngày giờ chi cả. Vì nhiều đứa hay xin, nên Thầy định 3 ngày cho có chừng, đặng mỗi việc do đó mà làm khỏi coi ngày giờ chi nữa. Còn sự rắp huởn thì cũng không quan hệ chi, hễ chết thì chôn, còn để lại đó thì tự hỏi lại mình coi sao là phải, chớ đợi hỏi ai?

Còn sự xin keo tìm huyệt mả đó là sợ e có xác nào nằm dưới, sợ không biết chôn chồng chôn chập không nên, nên phải xin keo là vậy đó, còn như chắc chỗ đất đó không có xác nào thì cứ việc đào chôn, trở đầu về hướng nào cũng không hại. Thầy đã nói hễ ai rõ thấu Đạo-mầu, thì đó là Bồng-Lai, đó là Thiên-Đường, còn Phật là tri-giác ở lương tâm mình, nào phải ở Tây-Phương mà mong tìm tới. Thầy đã dạy mỗi con hoài, còn sống không lo học lo tu, cái xác chết còn lo trở đầu hướng nầy hướng nọ, thành thử ra mình là người tùng Chơn-Lý mà còn bày chuyện dị đoan. Đạo đã mấy năm rồi, mà tiếng nói của mỗi con giống hình như chưa có Đạo.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho QUANG-TRẠCH, và in ra gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi người một bổn đặng đọc cho Đạo nghe cho rõ.

******************

TẦM CHƠN PHẾ MỴ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 23 tháng 4 âm-lịch 1939 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Hiện nay trong Chơn-Lý phần đông nhiều đứa hãy còn mê tục mà chưa rõ thiệt hư, tại vậy nên khó bề thuận xuôi theo Đạo-Lý, là trong đó còn ưa lời tặng tiếng khen, không xét mình phải quấy, là trong mấy đứa còn hay dùng Minh-Sanh mà gọi là Giá-Triệu, đứa thì cho là Biên-Lai, đứa thì cho là nêu danh cho đời rõ. Cả hai nói đó đều không hạp với lý hiện thời, vì cái đó gọi là Minh-Sanh, còn Triệu là khác. Là vì trong khi Đạo Phật bị bế, thì những đứa tu hành, hoặc đứa giàu sang, đến khi qua đời, thì đứa còn sống muốn làm cho có vẻ đặng biên tên tuổi người đó, hoặc sang giàu hay là tu niệm; song còn thiếu một điều, là đứa gian tà sao không thấy để vào đặng cho người đời coi mà tự xét. Tại vậy nên Thầy gọi là sái với lý đương nhiên là vậy đó.

Vậy từ đây sắp lên, trong mỗi đám tang đừng có ao ước chi cái tục vị tình mà bỏ qua quấy phải. Hễ người qua đời thì cứ việc lo chôn, còn sự cầu siêu là chỉ nghĩa nhắc chừng tội phước đặng Hồn nghe đó mà tự hối, đặng nhờ ơn chế giảm ít nhiều, vậy là lẽ thiệt. Còn các việc khoe danh cầu tuổi thì dẹp hết cho khỏi rộn ràng, vì Linh-Hồn thì không có giấy tờ chi cả, còn như đứa nào muốn tục thì phải làm cho rành như lời nói trên đây, vậy mới gọi là đúng Lý.

Vậy Thầy cũng vui lòng cho một bài gọi là Tầm Chơn Phế Mỵ đặng đọc cho vui lòng nghe rành giảm bớt.

THI BÀI

1.- Đời bởi tục đều mê vì thế
Tại vì không rõ lý nên lầm
Dập dồn đã mấy ngàn năm
Trước lầm sau tưởng cứ chăm một đường.

2.- Nay thời cuộc Thầy đương mở Đạo
Dạy đời tu sửa bạo ra hiền
Sanh thời có tử tự nhiên
Phải lo trong đó vẹn tuyền là hay.

3.- Đừng mê tục đặt bày nhiều chuyện
Thuyết Minh-Sanh khiếm diện nhọc lòng
Đám buồn còn dậm thêm công
Là công vô lý hại trong gia đình.

4.- Bề hiếu sự phải gìn lòng thiệt
Phép cư tang cho biết mất còn
Ông bà, chồng vợ, cha con
Hiếu thân nghĩa trọng vuông tròn tháng năm.

5.- Trong chỗ đó tự tâm người xét
Hễ có tang thì biết tội tình
Tang nầy là để làm tin
Thấy mang hiếu phục động tình hỏi thăm;

6.- Để tang đó phải làm cho trọn
Tội người vong trong bọn phải nhìn
Biết trong đó có tội hình
Thì lo chia sớt vậy mình gọi tang.

7.- Đừng sanh chuyện dị đoan rằn rực
Thượng Kim-Kê hạ Bạch-Thố hình
Chẳng rành Đạo-Lý lầm tin
Rằng âm dương hiệp chiếu minh thoại tường.

8.- Giàu sang trọng phô trương cho quá
Của tốn hao thêm đọa là vầy
Phật Tiên rồng phụng bao vây
Xúm đưa người tục, tại vầy tội thêm.

9.- Khi còn sống ngưỡng triêm làm lễ
Lạy cầu xin tội chế phước bồi
Thác rồi hình thể thúi hôi
Tại sao lại dám thỉnh mời cầu đưa???

10.- x Tại mê lời bợ nói vùa
Mà quên lý thiệt đặng ngừa điều sai
Dạy chung nam nữ một bài
Sống tu cho trọn, thác rày được siêu.

11.- Luật không chê lựa giàu nghèo
Muốn nên Tiên Phật tại nhiều kiếp tu
Người phàm ỷ giỏi gạt ngu
Bày ra các việc đặng thâu lợi nhiều.

12.- Phô bày sách vở dệt thêu
Đổ cho Tam-giáo truyền gieo dạy vầy
Hiện giờ Chơn-Lý phát khai
Đều do lý thiệt mực ngay băng rành.

13.- Mỗi con nào quyết thiệt hành
Thì do theo đó giữ gìn từ đây
Trước lo gói gấm thi hài
Vệ sinh truyền nhiễm vẹn ngoài kín trong.

14.- Muốn đền tổ đức tôn công
Đừng cho xao động, hòa trong cuộc nầy
Liệu lường theo sức trở day
Tống an đừng để tiếng vầy nọ kia.

15.- Trong đoàn con thảo sớt chia
Ít nhiều gánh vác lạc bi cho tròn
Đó là chẳng hổ phận con
Dầu cho chồng vợ phải tròn là đây.

16.- Sống thời kề mặt giao tay
Thác lo an táng đừng sai lời nguyền
Đạo Thầy dạy kẻ hữu duyên
Vì duyên cớ thiệt dạy truyền phá mê;
Mặc tình nghe với không nghe
Nói cho đủ lý là che chở đồng.

******************

CÚNG THẤT, CÚNG CỬU

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 3 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: kể từ Thầy khai Đạo ra đến giờ, trong Đạo thường hay Cúng Thất hoặc Cúng Cửu, gọi là cầu-siêu cứu vớt; mà trong đó chúng nó chưa ắt làm cửu hay làm thất mà có chủ nghĩa chi trong đó không? Tại vậy nên thành ra làm điều cầu vui mà vô lý.

Nay cũng có nhiều đứa hỏi con cúng Thất phải hay là cúng Cửu phải? Thì con cũng không dám nhứt định, đó là con không có ý tự chuyên nên Thầy mới dạy cho con rõ ngày nay đây đặng nói lại cho trong Đạo hay, cùng là ngoài Đời rõ đặng tránh lần điều tục, hai nữa được biết Đạo là sự thiệt của thế gian.

Sự tích đó là từ khi Đạo Phật phát khai thì cũng dạy tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ như Thầy dạy ngày nay đó, song từ khi Đạo Phật bế rồi thì Chơn-truyền đã thất, phe ngoại Đạo hay dùng tích đó mà chế ra, như người qua đời đó thuộc về hạng Cửu-Huyền là từ chồng vợ con cháu trở xuống, thì chín ngày làm một tuần gọi là Cửu; còn từ Cha Mẹ sắp lên Ông Bà thì 7 ngày làm một tuần gọi là Thất, nương theo cớ đó đặng thêu thùa bày sám cầu vong mà làm cho ra cuộc linh đình chơi giỡn, mượn Phật làm bia, tại vậy nên Đạo-Lý càng ngày càng hoại. Nay đúng kỳ phát minh Chơn-Lý, nên Thầy phải nói cho rành đặng trong đó nghe mà tự xét, chớ lầm tưởng cho cúng kiến nhiều mà gọi là phước, mà quên mình đem Trời Phật ra đặng thừa dịp ngạo chơi rồi tội đó ai trừ, rồi trở lại trách Phật Trời sao không chứng cho mình là người có lòng làm cho hao công tốn của, vì Đạo là Chơn-Lý thì phải xét cho rành, vậy mới gọi là tu hành sửa tục; nếu trong mỗi đứa muốn cho mình khỏi tội thì khi còn sống đây lo tu đi, đã được hưởng thanh nhàn buổi sống, đến khi thoát xác được nhẹ Linh-Hồn thì cả hai đều là sự phải. Còn muốn cho ông bà cha mẹ khỏi tội thì buộc mình chịu thế mới xong, đó cũng là tu thiệt.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho trong Đạo coi hoặc gởi cho các chủ Thánh-Thất đặng chép ra cho Đạo Đời coi mau tỉnh.

******************

THỈNH VONG,

NHẬP ĐÀN,

CẦU SIÊU TRƯỚC THIÊN-BÀN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 2 tháng 3 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho SƠN nó hay theo lời nó xin hỏi con đó không phù hạp với Chơn-Lý, vì Chơn-Lý thì phải lấy lý mà nghiệm suy cho đúng thiệt, mới dám thi hành; chớ lời xin của nó đó là có ý vừa theo lòng muốn riêng của cái người mà nó tưởng cho là phải. Vậy nó phải xét lại trong lúc sanh tiền Thầy có dạy ai mặc Thiên-phục đứng trước Thiên-bàn mà tiếp rước hay là đối đãi với ai không? Nếu nó xét không có sao nó lại dám xin con cho nó một bài gọi là “Thỉnh vong nhập đàn cầu-siêu trước Thiên-bàn” lời nó nói đó rất nên xấp nhập mà thành ra phi lý.

Còn hai chữ Triêu-Tịch là chủ nghĩa của Thầy dạy: “Triêu văn Đạo tịch tử khả hỉ”, dầu cho Tứ-Đại Thánh-Nhơn cũng là dạy vậy. Song kể từ Tứ-Thánh qua đời, Chơn-truyền đã thất, nên kẻ sau hay dùng hai chữ Triêu-Tịch đặng bày ra tế lễ linh đình, lại có chỗ bày ra thường trực là cúng Ngọ trưa làm theo trong các đám tang cho long trọng gọi là báo hiếu, đó là tại mấy hạng văn chương hay dùng tài học mà chế biến ra đặng khoe tài của mình hoặc là thủ lợi là khác. Tại vậy nên đời ít ai chịu tu hành, để lo kiếm tiền cho nhiều đặng đến ngày cùng cũng có người đến làm lễ tế điện cho vong thì cũng cho là khỏi tội.

Hiện nay Chơn-Lý phô bày, chỉ rành hư thiệt, xét lẽ có không, là trong chỗ luân hồi báo ứng, tội phước thưởng trừng. Mỗi khi người mãn phần rồi thì hồn ra khỏi xác, một là có tội thì phải chịu giam cầm đặng nghe phán xét, hai là đắc quả thì đặng siêu thăng, ba nữa là tội phước sớt trừ, thì cả ba cũng đều do nói lý thiệt mà quyết đoán, nên Thầy cho phép đọc kinh cầu siêu hay là cáo phó, như khỏi tội thì được vui vẻ, còn có tội thì lo sám hối ăn năn, cầu xin lập công trừ tội; còn hạng nào được sớt trừ châm chế, tội phước chia đồng, thì tự nơi vong hồn muốn xin tái thế mà lập công thì cũng tốt, bằng không Thầy cũng không buộc, đó là một lý cố nhiên.

Còn hai chữ Phổ-Thông là phải học Đạo cho thông suốt các điều quấy phải, đừng để lương khương đặng lấy đó mà phổ hóa cho người đời hiểu thông đặng làm y như mình đặng tránh điều tai khổ; say say tỉnh tỉnh là tại nơi Đời với Đạo không có hòa nhau, Đạo thì tưởng cho mình là đúng nên không cần học, Đời thì cho mình là có đủ trí khôn mà quên nhìn phép nước, đó là tỉnh tỉnh say say là vậy.

Đây Thầy cũng vui lòng cho nó một bài học đặng để dành đọc cho mỗi người nào xin nó làm việc đó đặng nó đọc cho người ấy nghe gọi là thức tỉnh.

THI

1.- Người sanh ở tại cõi trần
Khi sanh khi tử chẳng cần ai kêu
Xét ra cho rõ các điều
Đó là tội phước ít nhiều chi đây???

2.- Cho nên xuống tại chốn nầy
Kẻ vay người trả đọa đày trừng răn
Nếu người sớm biết ăn năn
Thì lo tu niệm tội căn giảm trừ.

3.- Nếu người còn dạ nhàn cư
Lo nuôi phần xác thì hư phần hồn
Dập dìu tính dại khoe khôn
Mà quên bổn tánh luật công Thiên-Điều.

4.- Làm cho tội lỗi thêm nhiều
Xác chưa mãn kiếp chịu điều khốn nguy
Tội hành tại thế nhiều khi
Hết vinh rồi nhục thạnh suy thấy liền.

5.- Đó là báo ứng nhãn tiền
Còn dư thì để lưu truyền về sau
Xét rành nặng nhẹ chậm mau
Là trong chỗ luật trước sau cân rồi.

6.- Đến ngày nhắm mắt ôi thôi!!!
Kẻ than người khóc khúc nôi đoạn sầu!!!
Còn phần tội phước biết đâu
Miễn lo tế độ bò trâu heo nhiều.

7.- Đặt bày dưng cúng tịch triêu
Giành chen so sánh gọi điều hiếu thân
Viện câu người có một lần
Ráng lo cho đẹp gọi rằng vẻ vang.

8.- Chẳng thông Địa-Ngục, Thiên-Đàng
Bày ra so sánh kẻ than người cười
Đó là người chẳng thương người
Giàu sang bày biện cậy người khó khăn.

9.- Cũng là trong một đám tang
Kẻ thì vui vẻ, kẻ than thở thầm
Tại vì chẳng chút thương tâm
Cho nên phải chịu đọa trầm về sau.

10.- Hạng nghèo dưa muối tương rau
Lại cho là thẹn cùng nhau chẳng gần
Chỉ riêng đây phước nọ phần
Mà quên ỷ phú hiếp bần nên vui.

11.- Mãn căn hồn khỏi xác rồi
Thì lo tội phước thưởng bồi trừng răn
Phước nhiều thì được siêu thăng
Tội dư thì đọa bình phân hai đàng.

12.- Kể chi quí trọng cơ hàn
Xác chôn lấy xác khỏi đàng thúi hôi
Còn phần thân thể nổi trôi
Lớp thì thây rã kiến ruồi đục bu.

13.- Làm người phải xét cạn sâu
Đặng lo hướng thiện hồi đầu là hay
Từ khi Thầy mở Đạo nầy
Thường khuyên tiết kiệm chỉ bày thiệt hư.

14.- Tại lòng dục vọng ý tư
Canh qua cải lại bấy chừ chưa an
Đến nay Đạo-Lý rõ ràng
Là phương cứu độ tránh đàng muội mê.

15.- Bớt điều thế tục khen chê
Phải lo bổn phận trọn bề người tu
Giúp nhau là chỗ tạc thù
Tùy duyên tùy phận sớt buồn chia đau.

16.- Khó giàu đều phải thương nhau
Giàu dư nghèo thiếu biết nhau là tròn
Còn phần gia đạo vợ con
Muốn cho có hiếu lo tròn thỉ chung.

17.- Chồng nương vợ bảo cho cùng
Cha răn con sợ thuận tùng điều nên
Trước sau giữ một lòng bền
Sống sao thác vậy gọi đền nghĩa chung.

18.- Sánh so là việc vô cùng
Bực trung giữ trọn tương đồng là hay
Đứng chung trong một Đạo Thầy
Nghe theo làm đặng được vầy thì xong.

19.- Mỗi con lớn nhỏ ghi lòng
Sống tu cho trọn buổi cùng là siêu
Phải rành hai chữ tịch triêu
Khỏi lo thế tục đặt điều biếm chê.

20.- Thuận tùng Đạo-Lý thì nghe
Chẳng tuân ngỗ nghịch thì mê theo phàm
Tuân nghe thì buộc phải làm
Làm rồi thấy rõ sự lầm rất xa.

21.- Hiện giờ Đạo chuyển kỳ ba
Phát minh phá tục gọi là phổ thông
Thế gian nhơn loại thì đồng
Ngặt trong lý thiệt chẳng đồng sự tin;
Thương đời nên dặn đinh ninh
Chịu nghe thì đặng, bất bình thì hư.

Thăng.

******************

HÌNH ĐỊA-TẠNG,

VONG CỐT THỔ-THẦN,

HÀNH BINH KHIẾN TƯỚNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 9 tháng 12 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho LƯỢNG nó hay: nó phải lo khai cửa chánh-môn tại Thánh-Thất, đừng để trễ lâu, đó là một điều cần nhứt hơn hết, vì CA đã có nói mà nó không chịu làm cho rồi, nên nay Thầy phải nhắc nữa.

Vậy con phải nói hết các việc, trong đó cũng còn nhiều chuyện hữu hình, vì nương theo cổ tục đặng dụ dỗ lòng người mê luyến cho đông, nên phải dùng hình Địa-Tạng, đúc vong cốt Thổ-Thần, đặng khẩn cầu trong khi có việc, hoặc là Bài-vị theo các chùa thờ, hành binh khiển tướng đó là tại chưa rành Chơn-Lý, nên tưởng là thờ phượng cho nhiều đặng có nhiều Ông ủng hộ. Chẳng dè làm nhiều chuyện hữu vi rồi sanh điều tà quái, là tại mắt ngó lòng trông, rồi sanh ra dục vọng, hễ tâm càng vọng thì phải có tà. Tại vậy nên Thầy không cho dùng nữa, nó phải đem mấy hình đó để nơi miễu võ cho yên đi, đặng lo bề tu niệm. Con phải nhắc việc Ngô-Minh-Trứ đem hình Nhị-Thập Bát-Tú mà để tại Thánh-Tòa đó đặng cho LƯỢNG nó nghe thì nó rõ. Hiện nay Thầy dùng tay con là hữu dụng, đặng lo dẹp lần các điều tà mỵ đó cho rồi, thì Chơn-Lý tự nhiên phát đạt; đó là phần con phải chịu nặng nề vì đó, song con cứ giữ một lòng, vì Đạo thì sự chi con cứ nghe Thầy là đủ.

Đây Thầy cho chúng nó một bài đặng coi theo mà tự nghĩ.

THI

1.- Nầy các trẻ Long-An nghe dặn
Đạo Thầy khai ra đặng cứu Đời
Đứa nào muốn đặng thảnh thơi
Thì nghe lời dạy sợ Trời là hay.

2.- Trước phải biết đọa đày lo tránh
Sau đặng gần Phật Thánh Tiên Thần
Đó là cách cựu duy tân
Đó là thoát tục phong trần tự nhiên.

3.- Đừng có tính tư riêng cầu khẩn
Mà quên mình chưa mãn đọa đày
Đó là tại vọng mà sai
Đó là ước chuyện cầu may cho mình.

4.- Đứa nào biết chữ tin làm trọn
Là tin lành lỗi mọn phải chừa
Tranh giành quyền lợi đừng ưa
Phận tu thì giữ khư khư một màu.

5.- Phận nghèo khổ thấy giàu đừng ước
Vì tại duyên, tại phước, tại phần
Đó là tại kiếp tiền thân
Kẻ vay người trả cũng gần nhau đây.

6.- Cơ Tạo-Hóa chuyển vần xây khác
Là do theo thiện ác thưởng trừng
Khuyên đừng trách phận oan ưng
Miễn cho biết sợ, biết mừng vì đây.

7.- Sợ là sợ buổi đầu có lỗi
Nên ngày nay đến đỗi chịu nghèo
Phải tùy bổn phận làm theo
Đó là tránh khỏi nạn đeo theo mình.

8.- Mừng cho kẻ hiển vinh sang trọng
Là mừng chung chớ vọng tâm phàm
Vọng nhiều ngày trở ra tham
Hễ tham thì phải có làm chuyện tư.

9.- Đây Thầy chỉ thiệt hư cho rõ
Thiệt là chừa ý nọ lòng kia
Chớ nên bày chuyện chia lìa
Thiệt tâm như một khóa chìa trọn vui.

10.- Hư tại chỗ đầu đuôi không rõ
Hễ thấy đâu nói đó sanh rầy
Chẳng rành cơ vận chuyển xây
Làm cho nhiều nỗi đắng cay thêm buồn.

11.- Vì tại vậy hư luôn tới tột
Tại quên mình mà dốt Đạo-Tâm
Chưa hay chỗ lạc chỗ lầm
Nói sai mà tưởng cho nhằm là hư.

12.- Vì ham muốn nhàn cư thong thả
Nên khó tường nẻo lạ đường quanh
Thảm thay không học lại hành
Đó là mình tự giết mình là đây.

13.- x Các con nào biết sợ Thầy
Thầy khuyên ráng học bài nầy cho thông
Học thông đặng để răn lòng
Hễ răn lòng đặng khỏi phòng lạc sai.

14.- Tuổi tên ngày tháng lâu dài
Hễ thân tu niệm nhớ hoài Đạo-Tâm
Chớ đừng tính tháng tính năm
Việc tu là việc diệu thâm vô ngằn.

15.- Cứ dò lẽ chánh mà phăng
Đặng nương hành Đạo ở ăn cho hòa
Một là chẳng hổ danh ta
Hai là mỗi đứa thoát ra Luân-Hồi.

16.- Dập dồn lớp nổi lớp trôi
Đó là tại chỗ đoạt ngôi tranh quyền
Ráng chừa cái bịnh đảo điên
Giữ y trật tự mười khuyên cho rành.

17.- Mở đường độ dẫn chúng sanh
Đặng ra cho khỏi cạnh tranh phong trần
Lần lần kẻ trước người sau
Trước đây mình phải sửa trau phận mình;
Cạn phân cho trẻ giữ gìn
Lãng lơ thì phải lụy mình đừng than.

Thăng.

******************

TIẾP PHƯỚC ĐỘ HỒN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 1 âm-lịch 1938

-------o0o-------

- Bạch, con chưa rõ tiếp phước độ hồn ra sao? Xin Thầy dạy.

- Con chưa hiểu, vậy mà mỗi khi con hay nói tiếp phước với anh em của con hoài.

- Bạch, ấy là con học ít nên chưa thông lý cho hết, con nói đó là con nói cho có nói, chớ chưa rõ thấu nguyên lý ra sao, cúi xin Thầy tha tội, con chưa rõ tiếp phước độ hồn, nên con hay nói cầu hồn siêu độ, thì phải có phước gì mới là siêu độ đặng???

- Thầy chỉ rành con hiểu, phước cũng tỷ như cái cầu, mà cầu nầy là cầu Thiêng-Liêng, nghĩa là mỗi ai đứa nam hay là đứa nữ đều phải để hết tất lòng chiêm ngưỡng, cũng tỷ như ngày đó giờ đó có lòng mừng thầm cho hồn đó được gặp mình cũng như sống vậy; dầu cho đứa nào có giận hờn ganh ghét chi, trong lúc đó cũng phải bỏ quên đi. Bởi vậy nên Thầy thường khuyên dạy các con khi còn sống chớ nên hờn giận nhau là vậy đó, nếu trong lòng mà có sự giận hờn chi với hồn ấy mà không chịu bỏ qua tha lỗi thà đừng cầu khẩn còn hơn, bằng vị theo xác thịt mà phải ép lòng cầu khẩn thì càng thêm tội lỗi với phần xác mình là khác nữa. Vì Thầy là Chơn-Lý mà các con không trọn lành trọn phải mà vào cửa Chơn-Lý sao đặng trọn lành trọn tốt gọi là thành chơn đó con. Bởi vậy nên Thầy dạy: Thành chơn phước bởi công vô lượng là vậy đó. Trong giờ đó các con mà trọn lòng tín ngưỡng, có vẻ vui mừng thì Tinh-Thần ấy nó là phước đó, nên gọi là Phước-Thần đó; vì hồn chưa được bực Chơn-Thân nên phải cậy nơi phước của các con đặng dìu dắt cho hồn khỏi xiêu lạc.

Thăng.

******************

GIẤY TIỀN VÀNG BẠC,

LỄ NHẠC,

NGÀY VÍA TRONG LỊCH,

ĐẦU PHƯỚN,

NHÀ MINH KHÍ,

ĐƯA ÔNG TÁO,

BÙA LỖ-BAN,

CHÍN PHƯƠNG TRỜI MƯỜI PHƯƠNG PHẬT

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 1 âm-lịch 1940 (11 giờ trưa)

-------o0o-------

HƯNG, con nghe Thầy dạy: theo 10 lời của con hỏi đó nó cũng không phải là mắc, song cái mắc đó là tại lòng con hay nghi ngờ giải đãi rồi làm cho thêm sự trở day cho mình là vậy. Đây Thầy cũng hết lòng thương mà giải nghĩa lời con hỏi.

Thứ nhứt 8 câu cho con rõ:

Câu 1: Hữu văn, hữu võ, hữu phong ba.

Nghĩa là: Thầy chỉ cho hễ người ở trong đời thì phải có đủ văn đủ võ, đặng sửa trị theo thời cũng tỷ như nước hễ có gió thì có sóng, đó là tương đối với nhau, người sao nước cũng vậy. Phong là phong trào, ba là ba chuyển con hiểu chưa.

Câu 2: Nhựt nguyệt âm dương tứ quí hòa.

Nghĩa là: Trời thì phải có hai vầng nhựt nguyệt, thời khí thì có âm dương, trong một năm phải có tứ-quí là: tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12; là tứ-quí của vận khí một năm. Trong đó phải hòa nhau gọi là âm dương động tịnh sanh hóa biến thường là cơ Tạo-Hóa là vậy đó.

Câu 3: Thiên Địa Kiền Khôn khiêm vạn loại.

Nghĩa là: trong Trời Đất máy Kiền Khôn hoặc là muôn loài cũng là do tại cái cơ Tạo-Hóa nói trên đó mà có ra tên ra chỗ, là tên Trời tên Đất, chỗ thì nói là Kiền Khôn, chỗ thì cho chung là vạn loại thì cũng do tại đó mà có đặt ra.

Câu 4: Nhơn quần thảo mộc cập chư hoa.

Nghĩa là: người ở đông thì cho tên là nhơn quần, còn chỉ cỏ cây gọi tên là thảo mộc, sắp đến chư hoa là các thứ có bông theo mùa thu, thú vị đó là phân biệt cho các giống có tên là vậy đó.

Câu 5: Ly kỳ cảnh dật cao nhơn thưởng.

Nghĩa là: hai chữ ly kỳ là chữ cho là lẹ hơn hết, là cái cảnh ẩn trong tinh thần mỗi người có chí hướng về tu hành thì mới rõ về cảnh đó. Chữ dật nầy là ẩn dật, chớ không phải chữ vật có hình có vóc, đó là để cho cao nhơn thưởng ngoạn, gọi là thích thú thanh cao, là cao nhơn toại chí, khó nói cho rành.

Câu 6: Đáo để sơn hà thượng khách ca.

Nghĩa là: Đáo đầu rốt cuộc cũng để ý vào đây, tại vậy nên dám liều thân cháy da phỏng trán giành giựt non sông đặng sau lên làm người thượng khách mà tọa hưởng âu ca.

Câu 7: Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo.

Nghĩa là: lời ta hỏi rằng: vậy trong chư nhu có biết tay thợ nào gầy dựng ra các việc nói trên đó không?

Câu 8: Kỉnh NGÔ vi chủ đạo như hà.

Nghĩa là: nếu chẳng rõ trong đó ai làm ra từ hồi nào đến giờ cứ lo kỉnh tên Ngô-Văn-Chiêu là làm chủ thì cái mối Đạo đây ra dường nào?

Còn câu 9: Nhứt Phật, Tam Thiên, Tam-Thập-Lục Thánh, Thất-Thập-Nhị Hiền, Tam-Thiên Đồ Đệ.

Nghĩa là vầy: từ xưa nay người tu đắc quả tại thế có năm bực nầy:

* Thứ nhứtPHẬT.
* Thứ nhìTIÊN, trong đó có 3 hạng:

- là Thiên Tiên.
- là Địa Tiên.
- là Thần Tiên.

* Thứ baTHÁNH, trong đó có cho là 36 hạng gọi 36 vị Thiên-Tôn thay Thầy dạy Đạo trong thời kỳ nầy, song còn ẩn vi khó thấy.

* Thứ tưHIỀN, trong đó có 72 hạng, sau Thầy cho làm chủ dưới thế gian là 72 địa cầu.

* Thứ nămĐỒ-ĐỆ, trong đó chia ra 3.000, sau Thầy cho làm đầu trong 3.000 thế giái, 3.000 thế giái đó phải chịu dưới quyền 72 địa cầu, chừng sau sẽ biết.

Còn lời hỏi thứ nhứt: con hỏi về giấy tiền vàng bạc đó là tại nghe lời truyện Tàu để trong Tây-Du là hồi Đường-Vương mượn bạc mà lo cho lũ quỷ; đó là tại người Tàu dụng chước gạt thầm mà thủ lợi, rồi tại đám tăng-đồ không chịu học lại chữ vãng-sanh gọi là tiền Phật thì cả hai đều là mê tín mà không xét thiệt hư là vậy đó.

Luôn lời hỏi thứ 2: của nó hỏi cũng ở trong lý nầy đây, không nên dùng nữa.

Câu hỏi thứ 3: câu hỏi đó là về phần lễ nhạc, Thầy đã chỉ nhiều lần. Lễ là chủ ư kỉnh, nhạc là chủ ư hòa, đó là điều dạy bảo của Thánh-Hiền khi trước, hễ muốn cho ra lễ thì phải biết kỉnh nhường, hễ muốn cho vui là nhạc thì phải hòa nhau; nên đời sau chỉ ra tang lễ đặng tỏ dấu kỉnh thành, đó là bề ngoài; còn nhạc là chỉ chỗ hòa mỗi món mỗi kêu khác tiếng, song phải làm cho trúng lời dặn thì thảy hòa chung; đó cũng là tỏ ra lời gom cả thảy, nếu tu hành giữ trọn hòa, kỉnh nơi tâm trong ngoài không khác, dầu không nhạc lễ cũng vô can, chớ không có ăn thua gì với vong hồn hết.

Câu hỏi thứ 4 : là ngày vía lịch biên để lại, đó là theo thời cuộc ghi nhớ cho thức tỉnh lòng người, là nhớ ngày đó phải làm vậy chớ không có dùng chi nữa, vì Đạo Trời là cơ hiệp nhứt, cứ tin Thầy là đủ.

Câu hỏi thứ 5: về việc đầu phướn đó là cái hình tràng-phan bửu-cái là cái của để rước chư Phật chư Tiên theo hồi Thích-Ca thành Đạo. Hễ nhà vua nào muốn rước Ngài đến giảng Đạo thì phải dùng món đó đặng rước Người, tại đó di truyền lại đời sau bắt chước, cũng tỷ như tàng lọng đời nay để đưa rước các vua quan về phần chánh trị, vậy thì tục đó bỏ đi, là không phải ghi tên Linh-Hồn nào cả.

Câu thứ 6: về việc nhà minh-khí, đó là cái tư tưởng của lòng người, hễ bực giàu sang làm cho phỉ dạ cùng là có tiếng đời khen chớ không có hồn nào hưởng hết.

Câu thứ 7: về tục đưa Táo-Quân, Thầy đã chỉ rồi không nên dùng nữa, phải tìm kiếm mà coi mới rõ.

Câu thứ 8: về vụ Lỗ-Ban đó là có lịnh Thầy sai hồi trước . . . . . . . . . . [kiểm duyệt]. . . . . . . . . sau phát cho tay thợ mộc mà hại phải tiêu hủy gia tài, đó là tại có sai khiến nên người vướng người không, chớ không phải mỗi người vậy hết, rồi ai dám làm nhà, song buổi nầy Thầy sẽ thâu lần là tại nơi có lòng tu niệm là vậy đó, con chớ hớ hinh mà có tội.

Câu thứ 9: về lời nói chín phương Trời, mười phương Phật; đó là lời nói viển vông đặng giành nhau cao thấp, chớ theo luật Trời thì số cửu, nên gọi là Cửu-Thiên khai hóa, đó là về tới bực Đại-La là trong chín hạng đó, song phải dưới quyền Thầy, đoạn nầy ít tu khó hiểu. Còn Phật thì có mười phương là người gồm trong cả thế-giái mà chia ra là mười phương đặng sai đi phổ-độ cho có chỗ có nơi, ai đi phương nào thì có phần phương nấy, nên gọi là thập phương thế-giái A-Di-Đà đệ nhứt là vậy đó.

Vậy Thầy chỉ rành cho con nghe thì phải ráng lo lập công bồi đức, chớ đừng có học nói rồi bỏ qua thì uổng công cho mình là vậy nghe HƯNG.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra rồi giao lại cho Thiên-Sư đặng đem vào Luật Bình-Quân thứ nhì, còn một bổn thì trả lại cho HƯNG đặng nó coi nó học.

(NGÔ-VĂN-HƯNG ở Thành-Triệu, Bến-Tre)

******************

ĐEM HÌNH ĐỊA-TẠNG ĐƯA VONG,

CẦM PHAN DẪN LỘ,

PHẬT RƯỚC,

THẦN ĐƯA

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 2 âm-lịch 1940 (… giờ chiều)

-------o0o-------

Nầy các con, các con phần đông nhiều đứa hay trách Thầy sao lại hẹp hòi chẳng cho làm theo tục bấy lâu đặng khi thác rồi có đem hình Địa-Tạng đưa linh cầm phan dẫn lộ, làm vậy đó đặng cho người đời gọi là tu hành, đến khi chết có Phật rước Thần đưa, là hình Địa-Tạng với Đồng-nhi cầm lá phan gọi là phước-thần cầm phướn đó.

Các con ôi! Các con trách Thầy thì biết trách, còn học Đạo, hành Đạo thì không chịu lo, không chịu tìm, không chịu xét, rồi làm sao cho ra người Đạo, nếu không ra người Đạo thì có đâu là Phật rước Thần đưa.

Đây Thầy nói rành cho các con rõ, các con muốn cho có Phật rước Thần đưa thì buổi sống đây lo làm phận sự cho vuông tròn, hết lòng thương đừng để điều chi hờn giận, thì đến ngày bỏ xác dầu cho đến đổi cơ hàn thể nào cũng có Phật rước Thần đưa, là cả thảy ai nghe tới cái tiếng nói người đó qua đời thảy đều cảm mến, đó là Phật rước; còn người có mặt tại đó lo đưa xác lên đường mà hết lòng thương xác, đó gọi là Thần đưa; là cái danh lành tiếng tốt của mỗi đứa khi sanh tiền làm phải, đó cũng là nhờ tuân y theo lời Đạo-Đức, biết sợ luật Trời thì cái phận làm con người ắt phải nên tài hạnh. Vậy mỗi con ráng lo làm phận sự cho kham, đừng để tiếng trò cười Chơn-Lý, đừng để danh độc ác phá đời. Nếu có phạm vào hai khoản trên đây, dầu có bày chuyện tốn hao cũng là vô ích.

Vậy Thầy cho thi đây, mỗi con nghe cho rõ:

1.- Nầy con cả thảy ở đời
Ở đời phải biết sợ Trời lo thân
Lo đều cho vẹn Tứ-ân
Thân người đừng để lại gần chỗ nhơ.

2.- Phải trau, phải sửa, phải hờ
Là trau tánh hạnh, sửa hờ vạy ngay
Phận nầy dầu gái dầu trai
Cũng là phải quyết đừng ai cãi bàn.

3.- Làm hiền làm phải là an
Sống an về Đạo, thác càng tiếng thơm
Cần chuyên chi lắm tục phàm
Có sao hay vậy vội làm cầu danh.

4.- Mỗi con khuyên ráng xét rành
Danh cầu danh tặng tiếng lành nào hơn
Thánh hiền xưa trọn lòng nhơn
Đến ngày qui liễu còn ơn tới giờ.

5.- Thấy vầy thì chớ ước mơ
Ước mơ làm chuyện vất vơ theo đời
Bóng hình giả Phật đầy nơi
Phướn tàng che phủ việc rồi bỏ qua.

6.- Khác nào đua hội phiền ba
Làm chơi mà lại gọi là độ siêu
Mỗi con nghe rõ ít nhiều
Từ nay đừng có đặt điều trách than.

7.- Đạo Thầy là Đạo mở mang
Thì lo thoát tục kiếm đàng lập thân
Lập nên danh phận ở trần
Thân người hiền hậu chớ cần chuyện chơi.

8.- Dò theo kinh sách dạy đời
Phải đâu làm đó ta người trọn vui
Đến ngày mãn kiếp hồn lui
Tiếng đời khen ngợi gọi mùi thơm lây.

9.- Ráng nghe ráng nhớ lời Thầy
Nhớ làm cho thiệt từ nầy sắp lên
Làm thường được vậy ắt nên
Còn hơn cãi lẫy giành chen lợi quyền.

10.- Đạo Trời phổ hóa vô biên
Ai tin làm trọn thì duyên phước dày
Chớ đừng so sánh mạnh ai
Mỗi người đều mỗi có tài tự tâm.

11.- Tự tâm là tự nghĩ thầm
Nghĩ thầm chuyện chắc, lẽ nhằm thì theo
Đạo Tâm nào lựa giàu nghèo
Vì trong chỗ quyết rõ đều tại tu.

12.- Chớ đừng tập thói ngao du
Rồi ham danh tặng quến rù lập phe
Đó là Thầy chỉ chỗ chê
Là chê người chẳng biết nghe Lý Trời.

13.- Cứ ham theo sự chơi bời
Mỗi con hỏi lại làm người sao xong
Làm người thì phải có công
Là công đức rộng mở thông Đạo Đời.

14.- Mỗi con phải biết vậy rồi
Thì mau bỏ tục bớt lời thở than
Đặng về với Đạo cho an
Rồi đây thấy rõ nẻo đàng thiệt hư.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo coi mà học cùng là gởi cho Thánh-Thất đặng đọc cho Đạo nghe cho rõ, cũng đem vào Luật Bình-Quân thứ nhì, đó là phần của Thiên-Sư.

******************

CHƯƠNG V

THÁNH HUẤN GIẢI NGHĨA

PHÁ MÊ TẦM ĐẠO

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 8 âm-lịch 1939

-------o0o-------

ĐƯỢC, con sửa bài học của SÁU đặng giao lại cho CA nó ban hành cho trong Đạo rõ. Thầy cho phép tên bài:

PHÁ MÊ TẦM ĐẠO

Đầu bài học như vầy:

Phá cái giấc chiêm bao mấy kiếp
Đặng về mau cho kịp với người
Đạo Trời bủa khắp nơi nơi
Đông Tây Nam Bắc một Trời Lý-chơn;
Phải tìm cho gặp con đường
Đừng cho lạc bước để hờn kiếp sau.
Thầy sửa lại như vầy:

1.- Phá cho đặng muội mê tăm tối
Cái thân phàm tội lỗi muôn phần
Giấc mê nay đặng tỉnh lần
Chim bay cá lội đặng mừng thảnh thơi.

2.- Bao thuở đặng gặp Trời ban phước
Mấy khi nào nghe được kinh Trời
Kíp mau tỉnh mộng nghe lời
Đặng chung nhau một hưởng đời Thuấn Nghiêu.

3.- Về Bạch-Ngọc tiêu diêu khoái lạc
Mau mau chừa biếng nhác đừng làm
Cho rành Đạo chuyển kỳ Tam
Kịp cùng không kịp tại Tâm mỗi người.

4.- Với bạn hữu để lời khuyên nhủ
Người với ta đoàn tụ vui vầy
Đạo mầu Thầy mở tại đây
Trời cao biển rộng vần xây vô cùng.

5.- Bủa Chơn-Lý dùng trong cả thảy
Khắp nơi đều chuyển dạy làm lành
Nơi đây Thầy đã định rành
Nơi đây Thầy ngự hợp thành Ngọc-Kinh.

6.- ĐÔNG-Thắng Châu còn tin vật chất
TÂY Hạ-Châu giữ luật công bình
NAM châu lo học sửa mình
BẮC châu còn luận chưa rành thiệt hư.

7.- Một ngôi chủ Đại-Từ cứu thế
Trời rộng khai phổ tế nhơn quần
Lý quyền đều gạn minh trưng
Chơn ngôn diệu toán thưởng răn không lầm.

8.- Phải lo học nhiều năm mới biết
Tìm đường ngay lẽ thiệt cho rành
Cho tường tà chánh trược thanh
Gặp nguy tế độ, gặp lành thì vui.

9.- Con nhờ đặng nếm mùi Đạo-Đức
Đường Lý-chơn thẳng bước theo lần
Đừng gây ra việc nhố nhăng
Cho an bổn phận làm ăn theo đời.

10.- Lạc biển khổ đời đời bê trễ
Bước không chừng bị kế ma ranh
Để lâu liên lụy đến mình
Hờn ai nỡ hại, tại mình còn mê.

11.- Kiếp một kiếp cà kê chi lắm
Sao lại còn chìm đắm thêm nhiều
Nếu ai rõ đặng các điều
Làm theo cho trọn tránh điều họa tai.

12.- Đầu cúi lạy Cao-Đài Ngọc-Đế
Ra ơn lành châm chế tội đời
Đặng mau thức tỉnh kịp thời
Ngũ-Lôi tránh khỏi sợ Trời là hay.

******************

KHUYẾN HỮU TU HÀNH

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 8 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con sửa bài học cho Hương-NHÂM (Giáo-Hữu) làng Lương-Hòa-Lạc (Mỹ-Tho) nó họa đó đặng giao cho CA nó ban hành cho Đạo rõ. 

Trong đó Thầy để tên: 

KHUYẾN HỮU TU HÀNH

Con sửa đi Thầy dạy cho.

Sửa… (họa chữ đầu)

1.- Nay con dại thiền tâm khẩn nguyện
Mừng chị em khuyến thiện tu hành
Đạo cao nhờ tại chí thành
Khuyên lo học hỏi mối manh cho rành.

2.- Trong giờ học tại mình bê trễ
Định ngày giờ rành rẽ chẳng sai
Khuyên lo nhớ đủ bốn ngày
Đặng cho bước kịp thì Thầy mới vui.

3.- Trai cũng biết làm tôi trọn Đạo
Gái phải ghi hòa hảo thính tùng
Tại vì chưa quyết một lòng
Cho nên chậm trễ nhọc lòng Mẹ than.

4.- Mẹ chẳng nỡ bỏ đoàn con dại
Lòng từ-bi quảng đại thương đồng
Muốn sao hai phái cho xong
Cho nên danh phận đẹp lòng Mẹ vui.

5.- Mẹ hết sức hết lời khuyên nhủ
Lòng chị em bao nỡ quên đành
Muốn tròn danh phận nữ sanh
Cho vui lòng Mẹ, Mẹ nhìn là hơn.

6.- Gái bền chí đừng sờn lao khổ
Cũng là công Phổ-Độ giúp đời
Tại không chừa tánh đổi dời
Cho nên thua sút Đạo Đời cả hai.

7.- Lời Mẹ dạy đủ bài vàng ngọc
Ngày công dư lo học sửa mình
Lâu rồi kết cuộc Đạo thành
Tại không tin chắc dạ đành ngáo ngơ.

8.- Việc tu niệm trước nhờ công quả
Sau đặng chừa nhĩ ngã tôn ty
Nữ mà bỏ đặng tự khi
Lo xong phận sự Thầy ghi công đồng.

9.- Con nay thiệt quyết lòng tin Đạo
Học làm bài khuyên bảo chị em
Trước nhờ Đức Mẹ chỉ thêm
Miễn sao cho đặng chị em vui lòng.

10.- Vì sanh đứng trong vòng Trời Đất
Các tội tình gom chất nhiều năm
Trăng trong nhờ có đêm rằm
Các điều rõ đặng chỗ lầm lạc sai.

11.- Bên phái nữ từ rày rộng mở
Cũng nhờ Thầy phóng vở học lần
Một lòng giữ trọn Tứ-Ân
Có Thần có Thánh cân phân chẳng lầm.

Thăng.

******************

Giải nghĩa: ĐƯỜNG CHƠN-LÝ KIM KIM CỔ CỔ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 1 tháng 12 âm-lịch 1938

-------o0o-------

ĐƯỢC, con sửa bài học của Hương-ANH đặng trả lại cho nó, con sửa đi có Thầy giúp cho.

Đầu bài của Thầy cho như vầy:

Đường Chơn-Lý kim kim cổ cổ
Mà ai nào đánh đổ hào ly
Con ôi tâm động thần bi
Trúc cơ diện bích ích gì đó con;
Nếu con tâm tánh chẳng tồn
Tự nhiên hạo khí hao mòn uổng công.

Muốn thành Phật giàu lòng Bác-Ái
Chúng sanh đều chủng loại cùng nhau
Phải lo Đạo-Đức cho giàu
Đừng lo ích kỷ mượn màu Từ-Bi;
Khuyên con bỏ tánh tham si
Chớ làm rồng cọp vân vi rộn ràng.

Sửa bài giải nghĩa:

Câu thứ 1 nghĩa là : Đường Chơn-Lý Đạo là từ cổ cập kim xưa nay không khác, là chỉ yếu trong đó như vậy: kim hà nhơn, cổ hà nhơn, là nói xưa người nào tu hành đúng Đạo, còn nay đây lại người nào thì cũng là người cha sanh mẹ đẻ như nhau, chỉ yếu khác hơn là tánh tâm chơn thật mà thành Đạo, cho đến ngày nay cũng có nhiều người như mình đó cũng được đắc quả siêu thăng; lời kim kim cổ cổ là chỉ nghĩa học mỗi người tỷ đó đặng lo tu, chớ lầm tưởng xưa là ai mà nay đây lại không có ai vậy hay sao, có cùng không là tại nơi Tâm với Tánh.

Câu thứ 2 nghĩa là: trong lý chơn chánh như Đức Thích-Ca, Lão-Tử, Khổng-Phu-Tử với Da-Tô hoặc là Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang cho sắp đến đời nay thấy rõ cũng có nhiều vị thành công đắc Đạo, chứng quả hiện thời, thảy đều do nơi lòng Đạo-Đức chơn chánh mà nên. Nếu ai dám chê, đánh đổ trong mấy cái lý chơn chánh của mấy bực đó, dẫu cho người có đánh đổ đi nữa, hỏi lại mình coi có làm được như mấy vị đó được hào ly mảy múng nào chưa? Đó là đường Chơn-Lý vậy đó.

Câu thứ 3 nghĩa là: Thầy than rằng con ôi đừng có quá vọng tâm mà làm loạn động thì thần khí phải hao mòn, nếu thần khí hao mòn thì trong mình phải mỏi, đó là tại nơi chỗ động tâm mà không nhằm chánh lý, tưởng lầm hễ làm tâm động đặng có Trời chứng cho mà không hay mình làm sái lý.

Câu thứ 4 nghĩa là: cái chủ nghĩa trúc cơ là khác chớ không phải ngồi một chỗ cho đủ trăm ngày mà gọi là đắp nền xây hướng. Chữ trúc cơ đó là của Đức Thái-Thượng dạy các đệ tử của Ngài phải làm âm chất, mỗi đứa cho đủ trăm ngày đặng người điểm Đạo cho, nếu tự tâm mỗi người xét lại còn chỗ thiếu thì người không điểm Đạo. Đó là một cách của người đã dạy dỗ chung cho nhiều người bắt chước ráng làm đặng cho mau thành Đạo.

Còn chữ diện bích là lời than của Khổng-Tử nói với các đệ tử của Ngài rằng: nếu các trò không lo học hành cho đúng lý để cho đến ngày lỡ dở rồi ắt chịu ngó mặt vào vách mà than thầm, ấy là hổ ngươi nên không dám day ra cho đời thấy mặt, đó là diện bích. Rồi sau kẻ học Đạo, thất chơn truyền cứ nghe theo lời phờ phỉnh mà gọi là chín năm ngó mặt vào vách rồi kết thần thông, ấy là một điều mang hại cho người tu lắm đó.

Hai điều nầy Thầy cho đó là điều vô ích đó, các con chớ nên làm.

Câu thứ 5,6 nghĩa là: nếu các con mà không chịu nghe theo lời Thầy đặng giữ gìn tâm tánh cho êm lặng thì tự nhiên các hạo khí hóa nghi đều phải chịu hao mòn là do nơi Tâm động đó. Thầy thường cho uổng phí công lao mà mãn đời không nên điều chi hết.

Câu thứ 7,8 nghĩa là: Thầy dặn muốn cho thành Phật thì trước phải lo tích trữ cho sẵn các điều nhơn đức cũng như người nhà giàu chứa lúa chứa tiền, hễ chứa đặng nhiều thì được đứng vào lòng Bác-Ái, đó là chủ nghĩa rộng rãi lòng thương xót rành phải quấy, coi chúng sanh cả thảy cũng như mình, đừng chia nhơn ngã, chẳng nắm lợi quyền, thấy người lỗi cũng như mình lỗi, thấy người nên cũng như mình nên, cái lòng dạ thương với mừng chẳng có ngày nào mà không có, hễ làm được vậy thì tới bực Từ-Bi, đó là thành Phật.

Câu thứ 9,10 nghĩa là: lời Thầy nói trước chớ chẳng có chi mà gọi là Đạo-Đức, hễ muốn cho đặng nhiều Đạo-Đức thì phải chừa cái điều ích kỷ, chớ nên ôm ấp nơi tâm mà ngoài khoe mình là phải, đó là mang về tội khi Trời nơi Tâm, mượn màu mà gạt chúng.

Câu thứ 11, 12: đây là lời Thầy khuyên các con lớn nhỏ phải bỏ cái tánh tham si là đã đi tu mà muốn thành Phật, một mình cho mau đặng ngồi trên cho có người sùng bái, đó là tại tham phi lý nên phải chịu đọa vào chỗ mê si là vậy đó. Trong chỗ mê si là chỗ nghe lời huyễn hoặc nói rằng hổ giáng đặng trổ mặt Thần Tiên, ấy là tại cái quá tham mà sa vào mê muội nên gọi là tham si.

******************

GIẢI NGHĨA MẤY CÂU CHỮ, THẦY DẠY VỀ CHAY MẶN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 4 tháng 10 âm-lịch 1939 (4 giờ chiều)

-------o0o-------

SÁU con nghe Thầy dạy:

Chữ TÙY THỜI BIẾN DIỆC, nghĩa là người làm phải biết coi theo thời cuộc biến đổi an nguy đặng lo tránh cho khỏi cái điều tai họa.

Còn câu TÙY NGỘ NHI AN, đó là nương theo cảnh ngộ đặng cư xử cho an, là hễ tới cảnh ngộ nào mình chớ khá cải canh mà sanh điều tranh luận, mình biết lấy mình, làm thinh cho qua chỗ.

TÙY CƠ ỨNG BIẾN, nghĩa là phải coi theo cái máy tạo đặng day trở cho nhằm, khoản nầy rất khó, lời tục thường nói khôn khéo tự tâm, đừng lầm tưởng cho người khác dạy, hễ nghe lời người nói đó thì tâm ứng cho liền đặng suốt thông lời vấn đáp.

BIẾN NHƯ VÔ VỌNG, nghĩa là gặp cuộc biến mà lòng vẫn không không.

BIẾN THỬ THÀNH AN, là cái biến đó nó sẽ có ngày ra an, là tại an lòng lo sửa.

AN NHI NĂNG TỊNH, là an rồi mình chớ vội khoe trong đó gọi mình là giỏi, phải để cho êm, đặng khỏi điều hờn giận.

TỊNH DỤC VẠN LOẠI QUẦN SANH, đó là chỉ nghĩa hễ người làm được vậy hoài là hiệp với lòng Trời, hễ Trời tịnh gió êm thì cả thảy các loài đều sanh hóa; còn người được tịnh dưỡng tâm thần, đừng cho vọng động thì các lời nói, các công việc làm điều đặng bình an, cũng tỷ như các việc đó đều có tịnh mà nên.

ĐẮC THỈ CHƠN TRUYỀN, CỨU NGUY TẾ KHỔN; đó là lời Thầy nói hễ ai làm đặng cái lý chơn truyền nầy thì trước là cứu việc nguy cho mình, sau giúp người cho khỏi khốn.

ĐỘ CHÚNG QUI HỒI DO KỲ TRUNG NHI HÀNH KỲ NGOẠI, nghĩa là độ rỗi trong phần đông đặng nghe theo đó mà qui hướng cho khỏi luân hồi, là bởi tại chỗ ứng nơi trong lòng mà hành động ra ngoài cho mỗi người được rõ.

CẢM Ư TỊNH NHI ỨNG Ư THANH, nghĩa là lòng cảm được sự nên là nhờ tịnh, rồi đem ra nói cho người rõ là quyết chí làm ơn, lòng không dua bợ, chẳng dạ cầu danh, thanh là vậy đó.

DỤNG HÀNH HỮU TRƯỢC, TRƯỢC TẨY HUỜN THANH; nghĩa là cái cách dạy người đặng đem theo hành sự thì cũng có người còn trược, nhưng mà mình phải hết lòng lo sửa cho người đó cũng tỷ như người dơ thì mình phải chỉ cách tắm gội cho sạch, hễ tắm cho sạch thì trược đó rồi thanh là vậy đó.

THANH QUI Ư VỊ DO VỊ DI TRUYỀN, DO QUYỀN NHI HÓA, DO HÓA NHI THÀNH, THANH TRƯỢC LƯỠNG TOÀN HƯ HƯ BẤT TUYỆT; nghĩa là người ở đó mà chịu nghe lời tắm gội cho sạch đó là thanh, hễ thanh cho được rồi thì có sẵn điều qui đặng coi mà làm địa vị, rồi là nơi địa vị đó mà ra một người hiền, rồi bởi có cái đức hiền đó mới cảm hóa thêm lòng người khác, rồi nhờ trong phần nhiều hóa đó mà lập ra đồ sộ cho nên bởi nhờ chỗ nên đó, đi tới cùng gọi trọn, hai điều phải lấy chỗ phải làm hoài thì có bấy nhiêu đây mà noi truyền chẳng dứt.

HỮU SANH HỮU DIỆT, HỮU TRƯỢC HỮU THANH, THANH TRƯỢC BẤT TRANH, THANH DO Ư THIỆT; hễ có sanh thì tự nhiên có diệt, đó là chỉ về con người hễ có chỗ sanh vọng tâm mà sanh ra điều quấy, nếu không chịu sửa chừa thì phải chịu vào luật hình tiêu diệt; hễ có đục thì phải có trong, đó là chỉ về chỗ dễ thấy là nhờ tại lòng trong mới thấy rõ các đồ cặn cáu đó là trược, là đục; mà trong với đục đừng có tranh nhau là phải biết nhờ người lóng mới thành ra hai lẽ, thì trong hai lẽ đó đều phải xử mình gọi là về nơi thiệt.

LẬP CÔNG TIÊU NGHIỆT, PHI CHẤP THỨC NHI, THÀNH THỬ THỊ VẠN AN CHI BÍ DÃ, NHĨ KHẢ TRI HỒ; nghĩa là việc tu hành thì phải ráng lo lập công bồi đức đặng tiêu sự nghiệt tai, là chỉ chỗ đục trong phải xử, đừng tranh đấu sanh hờn là vậy đó; chớ chẳng phải nê chấp có một sự ăn mà gọi là nên việc ăn đó gọi là tu, là phải độ điều đừng cho thái quá, đừng cho bất cập, do lấy bực thường, Tu là vậy. Còn hành Đạo là do lập công bồi đức, đó là Thầy chỉ một chước để bào chữa cho an trong muôn lời tranh đấu về sự chay mặn tranh ra nhau mà gây ra khẩu nghiệp, đó là một phương huyền bí chỉ ra các lẽ, gom lại tu hành hay là vậy đó, được người có chăng?

Đó là Thầy đem hết các lời chơn ngôn, khẩu khuyết đặng dạy cho mỗi đứa lo làm. Tuy là chẳng buộc ăn chay mà ngăn ngừa ăn mặn, là trong chỗ trược thanh cảm ứng hiền họa diệt sanh, hễ xét kỹ làm nhằm thì có ai mà ước ao ăn mặn.

Vậy con phải giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, hoặc là in ra cho nhiều đặng phát cho mỗi đứa có Luật Bình-Quân đóng vào kế đó đặng có ai hỏi giải nghĩa cho nhằm. Phận con cũng phải có đặng để dạy Đạo-Tràng, còn SÁU thì cho lại nó một bổn.

******************

SAO KHÔNG XÉT LẠI THÁNH HIỀN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 8 âm-lịch 1941 (6 giờ sáng)

-------o0o-------

Sao không xét lại Thánh Hiền,
Văn thinh bất nhẫn kiến hình động bi
Bào trù quân tử viễn chi
Huống chi Thần Thánh lại đi đường nào.

ĐƯỢC, con phải giải nghĩa trong 4 câu của THOẠI nó xin hỏi đó đặng trả lại cho nó học, con giải đi có thầy dạy cho.

Câu 1, 2: Sao không xét lại Thánh Hiền
Văn thinh bất nhẫn kiến hình động bi.

Nghĩa là: lời Thầy hỏi sao người đời không xét lại mấy lời của Thánh Hiền hồi trước còn để lại, đó là lời nói như vầy: Văn kỳ thinh bất nhẫn thực kỳ nhục, nghĩa là: nghe cái tiếng của loài vật kêu trong khi gần chết là tiếng giống như từ giã chồng vợ, cha con. Nghe kêu như vậy thì phải động lòng, nó cũng biết thương biết sống như mình, nên không đành ăn thịt nó, là thấy cái hình nó đương sống đó, đương chạy kiếm ăn đó cũng tỷ như mình sống đây rồi có nỡ nào mà bắt nó đem ra cắt cổ cho đành; đó gọi là thấy thân sống không đành làm cho phải chết, đó gọi là bi, có bi cảm động thì mới có chừa cái sự vì ăn mà quên tội lỗi đó.

Câu 3, 4: Bào trù quân tử viễn chi
Huống chi Thần Thánh lại đi đường nào.

Nghĩa là: người Quân Tử hay lánh xa chỗ nhà bếp, Nho gọi là hai chữ bào trù (..... ...), vì nhà đó hay là có nấu nướng đồ ăn, đem nhiều loài vật mỗi ngày đặng sát sanh mà làm tiệc, vì người Quân-Tử thì hay thương nên phải đành lánh đó; đó là người Quân-Tử mà còn biết thương cảm vậy thay!! Huống chi là tới bực Thần Thánh lại có lẽ nào xúi người sát sanh cúng kiến. Đó là Thầy đem hết các lời của mấy vị Thánh Hiền còn để lại đặng nhắc cho đời nghe mà mau tỉnh.

Vậy con giải rồi giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho THOẠI. 

(Giáo-Hữu THOẠI ở Phú-Kiết)

******************

Giải nghĩa: THƯỜNG THIỆT TIN

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 8 tháng 6 âm-lịch 1941 (8 giờ trưa)

-------o0o-------

Nầy,

1.- Châu-Vĩnh-Dật con nghe Thầy dạy
Thiệt Thường Tin nhớ lại cho rành
THIỆT thà thì chớ tập lanh
THƯỜNG cư xử phận rách lành ấm no.

2.- x TIN làm theo Đạo-Lý lo
Là lo tròn phận cứ do một Trời
Chớ nên xa xỉ tục đời
Rằng khoe là lắc lẻo lơi gọi mầu.

3.- Đó là đồ tạm chẳng lâu
Trước che chói mắt, sau hầu khốn nguy
Một cơ vận hóa dễ gì
Muốn theo cho kịp cần ghi sợ Thầy.

4.- Chớ rằng ngày tựu học đây
Ra rồi ai cũng tự ai chống kình
Học vầy thì khó nỗi linh
Vì tâm chẳng một rồi minh chỗ nào.

5.- Cứ dòm ngó phận thấp cao
Cứ so quyền mỵ mày tao phú bần
Học vầy thân khó lập thân
Rồi cơ vận hóa dầu gần cũng xa.

6.- Xa rồi giành Phật cãi ma
Mà ai chẳng đoán chắc ra chỗ nào
Cãi giành nầy trước nọ sau
Chừng gom lý thiệt hạng nào cũng hư.

7.- Thường thường có vậy biết chưa
Tin Trời ngoài miệng, đảo lừa phần trong
Vì cơ vận hóa giáp vòng
Chọn chơn chừa giả, đục trong lóng lần.

8.- Buổi nầy ai muốn lập thân
Thì coi hết Luật Bình-Quân dễ tầm
Chịu tin đó vậy là nhằm
Thì trong tánh tục tự thầm dứt đi.

9.- Nếu còn rày nghị mai nghi
Thì cam đành chịu đó khi mạng Trời
Khi thì khổ buộc nào lơi
Trong vòng Chơn-Lý nhiều nơi có vầy.

10.- Thiệt Thường Tin trọn bền đây
Là đây Thầy cứ mực ngay băng rành
Dạy tu là lý phải hành
Chữ Tu lời đó kết thành luận chung.

11.- Tại chưng nhiều đứa không tùng
Có coi rồi lại muốn dùng ý riêng
Long-Toàn trường Đạo muốn yên
Thì tuân lời dặn bổn nguyên chớ rời.

******************

Giải nghĩa: TỈNH GIẤC CHIÊM BAO Ớ TRẺ BẦY

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 11 âm-lịch năm 1938 (10 giờ trưa)

-------o0o-------

Câu 1: Tỉnh giấc chiêm bao ớ trẻ bầy

Nghĩa là: Thầy dạy các trẻ bầy ráng xúm nhau thức tỉnh, đừng cho lòng mơ màng ước vọng như nằm chiêm bao đó.

Câu 2: Đừng tìm non núi hoặc cung mây

Nghĩa là: đừng có quá mê theo lời uyển mà đi tìm non cao núi rậm, vào nơi cùng cấm tưởng đến mây xanh thì rất uổng công phu cho đó lắm.

Câu 3: Cao-Đài vốn ở lòng con đó

Nghĩa là: Thầy là Đức Cao-Đài mà chủ nghĩa Cao-Đài là cứu độ trần gian cho thoát tục, nếu con nào có lòng thương Đời mến Đạo thì trong đó có Thầy.

Câu 4: Bỏ tánh tham si sẽ gặp Thầy

Nghĩa là: bỏ cho được cái tánh tham sân thì tự nhiên gặp Thầy khỏi lo tìm nơi khác.

Câu 5: Gặp Thầy cùng chẳng tại nơi lòng

Nghĩa là: con muốn gặp Thầy hay là không gặp thì cũng tự nơi lòng của con.

Câu 6: Bã lợi mồi danh lóng sạch trong

Nghĩa là: ở đời ai ai cũng có danh có lợi, trong chỗ danh lợi đó phải cho sạch mới gọi là Chơn, thì có Thầy sẵn đó dạy cho; nên có danh mà chẳng ỷ danh mà hại chúng, như có lợi mà chẳng phải vì lợi mà quên người. Đó là chữ danh hiền lợi nghĩa là vậy đó.

Câu 7: Thấu rõ thế gian muôn tượng đó

Nghĩa là: rõ lại cho thấu lý các cảnh tượng trong thế gian đó thì đủ rõ cho mình.

Câu 8: Nó đều không có cũng không không.

Nghĩa là: các cảnh tượng đó nó đều ở trong chỗ không mà ra có, rồi nó cũng trở về không; mà không có nó cũng không được, ấy là chỉ nghĩa tạm dùng chớ chẳng nên yêu mến.

******************

LÝ TÂM VÀ TÂM LÝ

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 1 tháng 5 âm-lịch 1939

-------o0o-------

Nầy mỗi con nam nữ có lòng mộ Đạo, hỡi nghe Thầy dạy Đạo đặng học cho rành gọi là thông hiểu đó nghe các con.

ĐẠO

1.- Từ Trời Đất hóa sanh vạn vật
Đạo Bổn-nguyên là luật buộc ràng
Người thời lưỡng nhãn minh quang
Vật chi đều cũng sẵn sàng có tim.

2.- Đạo mở rộng đường thêm nhiều nẻo
Trong nẻo nào chẳng thiếu chỗ nầy
Chỗ nầy là chỗ vạy ngay
Chỗ ngay chỗ vạy chỉ bày tại tim.

3.- Phải xét đó làm triêm làm ngưỡng
Đừng có ưa vọng tưởng ra ngoài
Xác phàm tại vọng mà sai
Là sai lạc bổn khứ lai không nhằm.

4.- Đời với Đạo lấy Tâm mà chỉ
Chỉ có chừng còn lý chẳng thông
Lý-Tâm Tâm-Lý chẳng đồng
Lý-Tâm là tại nơi lòng rẽ chia.

5.- Mượn tiếng Lý làm bia cho dễ
Nhắm vào Tâm quên kể luật Trời
Lý nầy Tâm nọ hai nơi
Tại đây mà Đạo với Đời đều hư.

6.- Chữ Tâm-Lý tùng ư chí thiện
Lý một nầy luận biện hòa chơn
Tâm không Vui Giận Ghét Hờn
Là Tâm-Lý hiệp thành nhơn huệ từ.

7.- Mỗi con để giờ dư suy xét
Trước xét mình coi thiệt hay còn
Còn là dại dám khoe khôn
Dại chưa phải dại, còn khôn không rành.

8.- Thiệt là giữ là gìn hằng bữa
Gìn biến nguy lo sửa an hòa
Giữ lòng chẳng dám thốt ra
Bền tâm lo liệu đó là thủ nghiêm.

9.- Đạo có tại chỗ tim là vậy
Vậy mỗi con xét thấy cho nhằm
Rõ đều Tâm-Lý, Lý-Tâm
Quyết theo cho trọn phăng tầm là đây.

10.- Biết Tâm-Lý trở day đều vững
Dùng Lý-Tâm khó đứng lâu dài
Đạo Đời thấu trọn ít ai
Tại mình chưa quyết đường sai nẻo nhầm.

11.- Gây tai nạn nhiều năm chất chứa
Luật xử phân lại cứ than phiền
Than thầm sao chẳng hổ tâm
Hổ vì Tâm-Lý, Lý-Tâm không rành.

12.- Đạo mở rộng người sanh ác cảm
Là Lý-Tâm lại dám nghịch Trời
Phải thông Tâm-Lý cứu Đời
Thì đâu đến đỗi hại Người giết Ta.

13.- Trời Đất sẵn lập ra nền Đạo
Minh Lý Chơn truyền giáo đủ điều
Sẵn đường sẵn Đuốc không theo
Cần đi nẻo tối nạn đeo than phiền.

14.- x Mỗi con nào muốn phỉ nguyền
Nghe Thầy dạy đó nhớ liền làm đi
Đừng ưa hẹn để diên trì
Trễ qua một bước đường đi khác nhiều.

15.- Đạo Đời dồn khổ khó tiêu
Thầy ra cứu độ tự kiêu không nhìn
Chẳng rành mê tín đức tin
Chê người tu niệm tặng mình là khôn.

16.- Khôn sao chẳng biết vong tồn
Khôn sao chẳng rõ xác hồn là ai
Cứ lo nói chuyện dông dài
Nên quên mình chịu đọa đày trần lao.

17.- Sớm trưa cửa ngục ra vào
Kẻ xô người đẩy khác nào tợ cây
Vùi bùn chôn bụi tới thây
Biết cho mình có tới đây là rồi.

18.- Đã đành thôi phải vậy thôi
Ngặt than trách ngược Trời ơi cứu đời
Thầy khuyên các trẻ nhớ lời
Đọc cho mỗi đứa nghịch Trời nghe chung.

19.- Đó là cũng việc lập công
Nói cho rõ lý phần đông được nhờ
Một bài Đạo giác tri cơ
Cho người nghe rõ đừng mơ ước thầm.

20.- Kể rành trong đó mấy năm
Mỗi con ao ước có nhằm hay sai
Thiên-cơ nắm chặt tay Thầy
Tới đâu dạy đó có hoài điều hay.

21.- Dở hay tại chẳng sợ Thầy
Tưởng cho lời nói vắn dài rồi thôi
Sẵn dành kiếp nạn Ngũ-Lôi
Tại không trừ đặng phải xuôi theo bề.

22.- Cha lành dạy dỗ chẳng nghe
Chừng đem đến luật thì phê một lời
Trước sau đó cũng gọi Trời
Song đều có khác tại nơi chuyển vần.

23.- Nên rằng Oai, Trị, Tế, Ân
Bốn điều trong đó tại cân chế trừ
Trước Thầy có nói con hư
Hư hoài không sửa tội dư thêm nhiều.

24.- Nhiều con viện lẽ đặt điều
Con hư chẳng phụ nên liều mạng riêng
Nhớ câu con thảo Cha hiền
Con hư chẳng thảo Cha hiền hiệp ai?

25.- Đó là viện lẽ lầm sai
Cải canh qua việc luật Thầy nào dung
Trong tuần Ngũ-ngoạt Tam-Tôn
Dạy cho bài Đạo mỗi con nghe rành.

******************

CHÚNG-SANH SANH-CHÚNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 7 âm-lịch 1943 (8 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho DIỆP nó nghe: hai chữ CHÚNG-SANH cùng là SANH-CHÚNG nó xin Thầy dạy cho nó hiểu đó, xét lại trong các Tôn-giáo phần đông cũng còn chưa hiểu đặng, chỉ có biết nói vậy hay vậy, là vì Đạo-Lý thất chơn truyền đã lâu, lời Phật Trời ít ai tìm hiểu, tại vậy nên ít người rõ đặng. Nay DIỆP nó có lòng muốn hiểu, Thầy cũng chỉ cho song phải dè dặt trước sau, phải nói cùng không độ chừng cho phải chỗ, chớ Đạo-Lý thì đường đường chánh chánh, còn nhơn tâm thì ỷ thế bất cùng, nhiều chỗ bất hòa, vì vậy nên Thầy dặn trước đặng cho khỏi mang tiếng Chơn-Lý hay kiếm chuyện chê người.

Đây hai chữ SANH-CHÚNG nghĩa là vầy: là trong đó hay chuộng phần đông gọi là sức mạnh chớ không chịu xét lại coi trong đó có học có hành, có thạo chuyện đời, có rành quấy phải, nhiều ít chỉ chừng, tại không xét như vậy nên phải lầm, kể cho phần đông là đúng, ngặt có việc sai khiến thì không ai biết đặng giúp giùm cho nên việc đó gọi là sống cho đông chớ không có được đông tài hạnh đức.

Còn hai chữ CHÚNG-SANH nghĩa là: có học có hành việc đời day trở nhiều ít cũng có chỗ nhờ, dầu sai khiến việc chi trong đó cũng có người đứng ra làm đặng, dầu ai không biết cũng ráng học hành, chớ không có lòng tự thị, đó gọi là chúng sanh hiểu lý.

Đó Thầy chỉ vậy cho DIỆP nó hiểu rồi thì ráng nhớ lời Thầy đừng có bạ đâu nói đó. Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho DIỆP.

******************

Giải nghĩa: 8 CHỮ TU

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 6 âm-lịch 1943 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải giải nghĩa trong 8 chữ TU của Thị-ĐẨU nó xin hỏi đó, con giải đi có Thầy dạy cho.

Vì 8 chữ Tu nầy của một vị Đại-Tiên là Đông-Phương-Sóc tóm lại đặng chỉ cho mấy người tu hành đừng mê tín thì cứ tu như 8 chữ trong bài ngâm đó thì khỏi hại.

Câu thứ 1: Tu sao chơn bước cõi Di-Đà.

Nghĩa là: lời của Đông-Phương-Sóc nói tu làm sao mà chơn được bước lên cõi Di-Đà là cõi Phật thì trước đây chỗ nào làm điều phi lễ thì đừng đi vào như trong mấy lời phú Thượng-Nguơn đó, đó là lời nói tu sao cho được vậy.

Câu thứ 2: Tu muốn ngày ngày thấy Thích-Ca.

Nghĩa là: việc tu mà muốn cho ngày ngày thấy Phật là Đức Thích-Ca thì ngày ngày nhớ theo lời của Thể-Liêng phát minh chỉ rõ:

Nào hay trước mắt chán chường
Phật là tri giác ở lương tâm mình.

Coi cho hết mấy vé đó thì ngày ngày làm y cũng như thấy Phật đó là tu, muốn cho được vậy thì phải học, phải làm mới được.

Câu thứ 3: Tu dốc trau mình yên cội nước.

Nghĩa là: người tu phải chí dốc một lòng trau mình sửa nết đó gọi là Tu thân đặng là nhờ chỗ biết nhịn nhường nhau thì trong dân yên tịnh, đó là cội của quốc gia. Vì sách có câu: “Quốc vĩ dân vi bổn” là dân đặng bình yên thì nước nhà vui vẻ, phận tu dốc lòng như vậy thì khỏi sự biến nguy.

Câu thứ 4: Tu cho rạng đức mới dân nhà.

Nghĩa là: tu thì phải tu cho thiệt, điều Đạo-Đức đừng có bỏ qua, mới làm thêm mới, nghĩa là dân mới một nhà cư xử làm cho tỏ rạng đức Trời thì khỏi mang tiếng người tu giả.

Câu thứ 5: Tu mong trọn vẹn lòng ngay thảo.

Nghĩa là: tu hành đừng có mong tính việc chi ngoài sự ngay thảo, miễn mỗi người cho trọn đời cho được lòng ngay vẹn vẻ đừng cho thất hiếu. Vì lời giải thuyết Đạo Nho có câu:

Thánh kinh trung hiếu làm đầu
Dầu nam dầu nữ phải trau trọn niềm.

Đó là mong trọn vẹn ngay thảo cho rồi, đừng thái quá đừng bất cập.

Câu thứ 6: Tu lánh tà tây thói quỷ ma.

Nghĩa là: Tu muốn lánh cho khỏi điều tà tây là điều không tốt thì trước mình phải biết cái thói quỷ ma là cái thói nay Sở mai Tần, hễ mình biết thói đó đừng làm điều tà tây dễ lánh. Sách có câu: “Tỵ họa bất vi tỉnh phi” nghĩa là đi kiếm chỗ lánh họa chẳng bằng mình trước xét mình, điều chẳng phải đừng làm thì khỏi lo lánh họa.

Câu thứ 7: Tu quyết một niềm noi tánh mạng.

Nghĩa là: Tu thì phải quyết một niềm đừng có nay vầy mai khác, hễ tánh tu thì mạng cũng phải tu, phải noi giữ theo lời Thầy dạy trong kinh giờ Tý:

Hồn khôn xác được sáng màu
Xác khôn hồn được mau chầu Chí-Tôn.

Hễ quyết một lòng noi giữ chữ song tu, đừng có viện lời tu hồn mà không tu xác, hễ quyết thì phải làm đừng có dụ dự mới đặng.

Câu thứ 8: Tu theo đường thẳng thể Thầy ta.

Nghĩa là: Tu theo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì phải nhớ:

Đường ngay con cứ con đi
Ráng tìm đến chỗ Thầy qui mà vào
Lập Trung-Ương Thầy trao gánh nặng
Dạy các con dứt hẳn phàm tâm v.v…

Đó là Thầy của chúng ta thể ra mấy lời ai muốn tu theo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì đừng quên khoản đó. Đó là nghĩa lý trong bài ngâm 8 chữ TU đứng đầu, rồi kế đó có 8 chữ: Sao, Muốn, Dốc, Cho, Mong, Lánh, Quyết, Theo; cũng mường tượng như lời bát chánh.

Còn câu nó xin hỏi về sự căn kiếp, tội phước ít nhiều thế nào thì trước khi Đức Diêu-Trì có cho bài nó hiểu rồi thì cứ vậy lo tu, Còn như bây giờ muốn rõ thì coi kinh Tây-Vương vé 398-399.

Đó là trong các lời Thầy dạy con giải rồi giao lại cho CA đặng in ra để dành dạy Đạo rồi trả lại cho Thị-ĐẨU một bổn.

******************

GIẤC MỘNG HUỲNH LƯƠNG

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 9 tháng 2 âm-lịch 1943 (4 giờ chiều)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con giải nghĩa mấy bài của Châu-Vĩnh-Dật nó xin hỏi đó, con giải đi có Thầy dạy cho:

Câu thứ 1: Huỳnh lương một giấc cuộc đời in.

Nghĩa là: Thầy kêu tên Huỳnh rồi lấy chữ Huỳnh đó mà chỉ ra một giấc huỳnh lương mộng là một giấc ngủ của người Lữ-Sanh khi gặp Lữ-Đồng-Tân tại quán; Lữ-Đồng-Tân cố ý độ cho tên nầy tu hành vì người có căn; song cái tánh phàm của Lữ-Sanh không ưa sự tu hành, vì mình có học mà thi không đậu, nên nói với Lữ-Đồng-Tân rằng: chừng nào tôi được hưởng giàu sang, vợ nhiều con đông, cho phỉ chí rồi chừng ấy mới tu, thì Lữ-Đồng-Tân trả lời rằng: việc ấy không khó, vậy người lấy cái gối của ta mà nằm ngủ đi. Nói rồi biểu chủ quán lấy gạo kê vàng gọi là huỳnh-lương đặng nấu cháo, rồi tên Lữ-Sanh nằm xuống ngủ, liền thấy chiêm bao đi thi đậu, vợ nhiều con đông, vinh hiển vô cùng; chừng giựt mình thức dậy thì nồi cháo còn đương sôi chưa chín. Người Lữ-Sanh nói với Lữ-Đồng-Tân rằng: té ra tôi thấy cuộc giàu sang trong giấc ngủ rồi cũng như không, Lữ-Đồng-Tân trả lời: đó cuộc đời là vậy, phú quí chẳng qua ba tấc thở, công danh chưa chín một nồi kê. Cuộc đời ngày hôm nay, Huỳnh con xét coi có in như vậy không.

Câu thứ 2: Có trí có mưu phải xét mình.

Nghĩa là: có trí là con người biết Đạo Trời đây, có mưu là con có lòng lo thì con phải xét mình con trước đừng để rồi dở lỡ.

Câu thứ 3: Danh lợi lớn là giành với giựt.

Nghĩa là: Thầy chỉ chữ danh nghĩa là người có danh, còn lợi là người có lợi. Cả hai điều nầy không biết sao mà lớn cho vừa cái lòng tham, có danh thế nào cũng chưa đủ lớn, có lợi cũng vậy; nên phải giành với giựt đặng cho vừa lòng chớ không biết mình bấy nhiêu là đủ, đó là cuộc đời.

Câu thứ 4: Phú quí cao bởi mượn và xin.

Nghĩa là: cái vòng phú quí gọi là giàu sang mà lại muốn cho cao hơn, đừng ai bằng mình; bởi vậy nên phải mượn người tôn trọng xin cho có của nhiều; tiếng xin nầy gọi là: ăn bòn của người nghèo, vì đó cao mà ra thấp. Vậy Huỳnh con xét mình coi có vậy không?

Câu thứ 5: Trăm năm lộn quẩn đường phi nghĩa.

Nghĩa là: Thầy nói dầu cho có sống được trăm năm đi nữa mà không chịu vứt bỏ mấy điều nói trên đây thì cũng còn lộn quẩn trong con đường phi ơn bạc nghĩa, thì cái trăm năm đó có ích chi đâu?

Câu thứ 6: Một kiếp đeo đai mối nợ tình.

Nghĩa là: một kiếp sống của con người là một kiếp Trời cho trả nợ, nếu biết được rồi thì đừng có đeo đai mối nợ tình là mối nợ không giấy tờ; nếu ai hứa vào thì khó gỡ ra, nghĩa là thấy ai ý ở có tình trêu hoa ghẹo nguyệt rồi thì mối đó mà chịu đeo đai là đêm ngày không quên đặng thì cái kiếp làm người rảnh rang đâu được.

Câu thứ 7: Biết số biết căn tua biết phận.

Nghĩa là: Thầy chỉ cho tên Huỳnh rõ, nếu con nhiều khi vốn biết số người đó phải chịu về đó, hoặc là con biết người đó có căn tu hành, thì con phải biết cái phận của con, câu nầy Thầy chỉ với câu thứ 2 có trí có mưu cũng là nghĩa đó.

Câu thứ 8: Đường xưa để bước lại Thiên-Đình.

Nghĩa là: Thầy chỉ đường xưa là chỉ về nhơn chi sơ tánh bổn thiện, vậy Huỳnh con phải để lòng vưng trọn lời Thầy đặng bước lại Thiên-Đình, đừng có dể ngươi mà mang đọa.


GIẢI LUÔN BÀI THỨ 2

Câu 1: Đời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương.

Nghĩa là: lời Thầy than ở đời ai cũng là người sao lại hiếp đáp với nhau, nỡ dạ nào chẳng thương người như một.

Câu 2: Thương đời nên mới đến đem đường.

Nghĩa là: Thầy vì quá thương cái đời như vậy nên mới đến đây đặng đem lời chỉ dạy cho biết thương nhau đó là đường Đạo-Đức.

Câu 3: Đường dài vó ngựa tua bền sức.

Nghĩa là: Thầy nói đường Đạo-Đức vắn dài, người muốn đi cho cùng thì coi chừng vó ngựa, nghĩa là ngựa chạy mau có gió thì phải có vấp, ráng coi chừng tua bền sức, là mình liệu lấy mình đặng làm trọn đó gọi là bền sức, ai theo sức nấy. Nói tóm lại là điều Đạo-Đức từ ngày biết phải thì làm cho đến mãn phần, đừng lòng thối chí.

Câu 4: Sức yếu lòng người khéo để gương.

Nghĩa là: sức mình thì yếu mà mình phải biết lòng người đặng độ người cách nào cho khéo về sự tu hành đặng để gương cho mỗi người cho rõ.

Câu 5: Gương Đạo noi theo gương Thuấn-Đế.

Nghĩa là: Thầy dặn trước muốn để gương Đạo-Đức cho Đời chẳng lầm thì phải noi theo đời vua Thuấn, nghĩa là Vua Thuấn khi còn ở vào hạng dân thì trọn bề hiếu đễ với cha mẹ anh em, biết trước lánh mình không để lòng oán trách; đến khi được làm Vua hằng giữ Đạo-Trời, yêu mến dân lành cũng như con ruột. Vì đó nên dân hằng đọc gương ấy để đời, đó là gương Đạo.

Câu 6: Đế vương vẹn giữ lối Văn-Vương.

Nghĩa là: đây Thầy dặn cái hạng Văn Quan muốn làm cho vẹn chữ Chúa Thánh Tôi Hiền thì giữ lòng theo lối Văn-Vương, nghĩa là biết số Trời định sao chịu vậy, khổ hạnh không buồn, lấy áo bọc xương khô đến khi thăng hà một lời trối với con đừng quên Đạo-Đức, đó là lối vua Văn-Vương là vậy.

Câu 7: Vương-Hầu Lê-Thứ ai chi chí.

Nghĩa là: Thầy hỏi hiện nay trong đời, từ trên là bực Vương-Hầu tới dưới là hàng Lê-Thứ, ai là người có chí muốn làm được vậy không?

Câu 8: Chí quyết làm cho thế khác thường.

Nghĩa là: nếu ai có chí muốn làm cho được lời Thầy chỉ trước đó thì phải quyết một lòng làm cho đúng, đối với thế tục ra vẻ khác thường vậy mới gọi rằng người hiền lánh dữ.

BÀI THỨ 3 THẦY KHÔNG CHO GIẢI

  

GIẢI BÀI THỨ 4

Câu 1: Đức cao thì mới đáng nên người.

Nghĩa là: bài nầy Thầy dạy tên Đức lấy chữ Đức, mà Thầy dạy tên Đức là mình muốn cho được nên người thì phải làm Đạo-Đức cho hơn mới gọi là xứng đáng.

Câu 2: Đức thắng tài kia đã mấy mươi.

Nghĩa là: Thầy hỏi thử tên Đức vậy con đã thấy những hạng người mà xưng mình đức thắng tài vi quân tử. Vậy con đã thấy trong đời được mấy mươi người? Nói thì được mà có ai làm được hay là nói cho có nói?

Câu 3: Có đức có tài giềng Đạo trọng.

Nghĩa là: lời Thầy nói với tên Đức là Thầy đã ước ao bấy lâu trông cho có người đủ đức đủ tài đặng Thầy trọng dụng, người như vậy ra cầm giềng mối của Đạo mới được.

Câu 4: Không tài không đức hóa không thời.

Nghĩa là: Thầy chỉ ngay cho Đức hiểu rằng: dầu cho việc chi làm ăn đi nữa mà người không có tài hạnh chi mà lại ở nhiều điều thất đức thì người đó có làm ăn việc chi cũng là thất bại, rồi hóa ra người không có thời làm ăn.

  

GIẢI BÀI THỨ 5

Câu 1: Nhơn là đầu hết các hành tàng.

Nghĩa là: bài nầy Thầy dạy tên Nhơn là Thầy dùng chữ Nhơn mà chỉ cho tên Nhơn rõ: các điều của mình làm mình biết đó gọi là hành tàng, nghĩa là làm mà chưa nói cho ai hay kêu là làm còn dấu thì trong đó phải giữ cho trọn lòng nhơn mới được.

Câu 2: Cũng bởi vì Nhơn dân hóa Quan.

Nghĩa là: Thầy chỉ như các hạng còn dân mà ngày nọ tấn hóa được làm quan quyền cũng bởi nhờ Nhơn Đức trong đó.

Câu 3: Dân trí có Nhơn mà nước trị.

Nghĩa là: trong dân được biết lòng Quan nhơn đức thì cảm mến vưng theo nhà nước dễ bề chánh trị.

Câu 4: Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan.

Nghĩa là: Thầy nói dầu cho việc nước hay là việc nhà mà lòng nhơn cho đúng thiệt đó là một cơ quan Trời Đất sửa cuộc lâu dài.

ĐƯỢC, trong 4 bài nầy con giải rồi giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho Châu-Vĩnh-Dật, theo lẽ Thiên-Sư phải in ra gởi cho các chủ Thánh-Thất mỗi người một bổn đặng đọc cho Đạo nghe vì có nhiều người chưa rõ.

******************

Ý VỊ CỦA TRỜI


TÒA-THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG

Chỉnh xem ý vị của Trời
Lặng trang êm phẳng không hơi không rằng
Chơn không Thủy Hỏa đôi vừng
Chuyển luân Nhựt Nguyệt lưu tuần ngày đêm
Hằng sa Tinh Tú thuộc Kim
Như châu như ngọc để ghim nửa lừng
Gió giông thay đổi hồng quân
Ấy là Thiên-Mộc choán phần không trung
Chuyển gầm sấm sét đùng đùng
Ấy là Thiên-Thổ vẫy vùng Thiên oai.

Đây tôi xin giải nghĩa bốn chữ ý vị của Trời ra sao đặng trong Chơn-Lý anh em, chị em, ai là người biết có Trời thì ráng nghiệm suy để thấy, như Trời phát ra giông dội có luồng đó cũng tỷ như Trời giận, còn như Trời trong gió mát đó cũng tỷ như Trời mừng.

Đừng muôn việc cứ Trời mà đổ
Tạo-Hóa nhi hỷ nộ không chừng
Nghe Trời thì được vui mừng
Nghịch Trời Trời phải dậy bừng sấm oai.

Còn như mỗi khi Trời mưa mà không nổi nước mà rỉ rả mưa hoài khi Trời buồn bực đó cũng tỷ như Trời khóc.

Thầy khêu đuốc chỉ đường đêm tối
Trông mỗi con bước nối theo Thầy
Đặng nhìn thấy rõ trở day
Đặng cho bước kịp khỏi sai khỏi lầm.

Ngặt mỗi đứa phàm tâm chưa dứt
Tại vậy nên nửa bước nửa ngừng
Thầy nhìn thấy rõ rưng rưng
Thương vì con dại trầm luân chưa rồi.

Thầy nói thiệt lập Đời là Đạo
Đạo làm con thuận thảo cho phù
Đứa hiền dìu dắt đứa ngu
Ngặt ngu không biết tưởng đâu mình hiền.

Còn ngày nắng thét đêm lại mát êm, đó là như cái luật của Trời hai điều nghiêm nghị.

Còn như mưa thuận đó cũng tỷ như Trời mừng cho chỗ nào làm được làm y lời Trời dạy.

Đây là trong giờ Ngọ ngày 17-5-1945 Thầy dạy tôi định tâm viết ra bài nầy, nếu ai biết tin có Trời ở trên không đó thì phải tề chỉnh nơi lòng mới hầu xem rõ cái ý vị của Trời như mấy lời Thầy dạy tôi viết ra đó, đặng mà lo sợ lấy mình, còn ai không thì tôi không dám ép.

Mỹ-Tho, ngày 17 tháng 5 âm-lịch 1945

Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài
NGỌC-CHƠN-LONG

******************

TÂM ĐÓ LÀ TRỜI,

THỜ TRỜI TẠI TÂM

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 9 âm-lịch 1943 (8 giờ trưa)

-------o0o-------

ĐƯỢC, con phải nói lại cho ĐỎ nó hay cái tiếng của mỗi người thường nói Tâm là Trời, thờ Trời tại Tâm. Tiếng nói đó Thầy thấy phần nhiều bắt chước mượn cớ phỉnh người chớ không có dễ gì mà đoạt cái lý tâm đó là Trời cho thấu đặng, còn Thờ tại Tâm còn khó nữa.

Đây Thầy nói cho nó biết: Tâm đó là Trời là Tâm của mình phải làm y theo lời Trời dạy nơi Chơn-Lý đó kìa, đừng nao, đừng ngán, giữ phận cho tròn là Tâm đó. Nói sơ biết đó chớ điều đó cũng nhiều, cho thiệt định tâm mới rành tiếng đó.

Còn thờ Trời tại Tâm là Tâm cho đặng không không, tục đời đừng nhiễm, xa lánh dị đoan, hết lòng vì Đạo, cho trọn chí thành thì đó Nho gọi là: “Tâm thành khả vĩ sự Thiên”, khó lắm không phải dễ đâu. Ít học, ít hành, ít tu nói tới đó mơ màng, thà biết vậy cho an, đừng buông lời rồi mình không xong, đã dốt mà lại còn mang tội là vậy.

Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra gởi cho ĐỎ coi cho biết, còn phần Thiên-Sư cũng gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng đặng đọc cho Đạo nghe cùng là chép ra cũng là dặn chung ráng nhớ.

Ngày 10 tháng 1 năm Bính-Thân 1956

Thay mặt Bàn-Cai-Quản Tòa-Thánh Định-Tường
Tam-Thanh Đầu-Sư

Thượng Đầu-Sư         Thái Đầu-Sư          Ngọc Đầu-Sư
Thượng-Vân-Nguyệt   Thái-Thạnh-Nhựt   Ngọc-Trượng-Tinh

Chứng kiến

Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài
BỬU-AN-THIÊN