1. TIỂU-DẪN

Đời mạt kiếp, người lành ít lắm, kẻ dữ quá đông, nên Trời phải hạ trần mở Đại-Đạo, để hiệu Tam-Kỳ Phổ-Độ hay là đại ân xá Kỳ-Ba, đặng cứu thế tránh khỏi cái nạn Ngũ-Lôi tiêu diệt Linh-Hồn.

Ai là người biết trọng phần hồn, biết nhìn Trời là Cha Thiêng-Liêng, xin hãy ráng mà trở về với Đạo đặng giúp Trời hành Đạo lập Công-quả cho trọn thỉ chung thì mới trông mong được đại ân xá.

Kể từ năm Bính-Dần (1926) Trời khai Đạo tại Tây-Ninh đến năm nay là Đinh-Hợi (1947), tính ra được 22 năm.

Trong thời gian ấy Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có ẩn ba Tiểu-thời:

1) Đệ-nhứt Tiểu-thời kể từ Bính-Dần (1926) cho đến tới năm Tân-Vì (Mùi) (1931).
2) Đệ-nhị Tiểu-thời kể từ Nhâm-Thân (1932) cho tới Đinh-Sửu (1937).
3) Đệ-tam Tiểu-thời kể từ năm Mậu-Dần (1938) cho tới Đinh-Hợi (1947).

Hai Tiểu-thời trước là 6 năm ấy là đều lậu Thiên-cơ của Đạo-Cô cho biết năm 1934, rồi Ngài nói rằng: Đệ-nhất Tiểu-thời Đức Chí-Tôn đã thâu dụng chức sắc nhiều rồi, nên ngày nay phải gạn bỏ bớt những người phá Đạo với phá Thầy đặng đem qua Đệ-nhị Tiểu-thời.

Trong thời nầy chức sắc được chấm đậu rồi hay là gần chấm đậu còn phải lừa lọc lại một cách vô hình đặng đem qua Đệ-tam Tiểu-thời, tới đây Ngài lại than hai chữ “thương thay, thương thay”, và Ngài than rằng: nếu không có ai được chấm đậu thì Đức Chí-Tôn chuyển Đạo nơi khác.

Còn Tiểu-thời chót thì Trời định 10 năm, lúc đầu năm Mậu-Dần (1938).

Tới đây là cơ thưởng lành phạt dữ, tồn vong kêu là Đại-Thành Đại-Kiếp, cũng kêu là Đại-đồng Phán-đoán.

Qua 15 tháng 12 năm Giáp-Thân (1944) trước khi cúng Tứ-Thời thì có lịnh Thầy dạy đánh chuông rồi đọc bài kệ nầy:

CHƯỞNG quyền thưởng phạt thay Trời
GIÁO truyền Đại-Đạo độ người trầm luân
THIÊN-Điều mắc mỏ muôn phần
TÔN đường Chơn-Lý gặp xuân tư mùa.

Nên kể từ đây Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn cầm quyền thưởng phạt cho Đức Chí-Tôn.

Bởi vậy cho nên tôi soạn đại khái Chơn-truyền của Thầy và Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn chép ra sau nầy cho anh em, chị em trong Hội-Thánh hiểu rõ chung thỉ của Đại-Đạo.

Trong một quyển 600 trương (trang) tôi không thể chép hết lời Châu Ngọc của Ơn-trên nên tôi thâu lại các lời đại khái mà thôi, còn các bài khác thì tôi biên cái Thánh-tựa, số và trương, Đuốc-Chơn-Lý đặng chư Quí-vị dò theo mà tầm ra.

Số Đuốc-Chơn-Lý Hội-Thánh in tới ngày nay có 4 năm là năm Mậu-Dần cho tới năm Tân-Tỵ.

Còn từ năm Nhâm-Ngọ tới năm Đinh-Hợi, Hội-Thánh in không kịp kế Tòa-Thánh bị cháy tiêu hết.

Nhiều người thấy làm lạ, hỏi tại sao cuộc của Thầy lập đồ sộ như Tòa-Thánh Định-Tường hãy còn bị hỏa hoạn và phá tán năm bảy phần không còn một phần mười; số là năm Ất-Dậu (1945) Đức Tam-Tôn Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài, Ngài ngồi định-tâm Thầy có cho ra chữ “TIÊU” nên qua tháng 9 thì Tòa-Thánh bị cháy một lần thứ nhứt hết phân nửa, qua năm 1946 Hội-Thánh tu bổ lại tốn hao rất nhiều, rồi qua năm 1947 bị đốt lần thứ nhì tiêu hết không còn chỗ thờ phượng hương khói nữa.

Đó là Luật Công-bình của Tạo-Hóa, vậy xin trong Đạo đừng trầm trồ mà phải mang tội với Trời.

Đức Gia-Tô chịu đổ máu mà chuộc tội cho loài người mà còn bị đóng đinh trên cây Thập-ác thay.

Ấy là mấy lời nói đầu vắn tắt và thấp thỏi của tôi, xin chư Quí-vị độc giả biết cho tôi là kẻ ra công soạn và lựa các lời Chơn-truyền của Trời, Phật giáng trần Phổ-độ chúng-sanh.


Xin chư quý vị biết cho
Trời Đại Ân-xá
NGUYỄN-VĂN-CA
Thánh danh: BỬU-AN-THIÊN
Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài

Mỹ-Tho, ngày 17 tháng 12 Annam 1948

CAO ĐÀI NHỨT NIÊN

******************

PHẦN I

ĐỆ NHỨT TIỂU THỜI KỲ

2. HỌA ĐỒ TÒA-THÁNH TÂY-NINH

3. NGHI TIẾT

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN

-------o0o-------

Ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (1926) là ngày Thầy khai Đạo tại Tây-Ninh thì Thầy dạy lập bàn thờ như trước đây:

Phía sau Tòa-Thánh thì bong một trái quả Càn Khôn, bề tròn 3m33 phất vải thưa, vẽ đủ tinh tú; ở chính giữa có vẽ Thiên-Nhãn giống con mắt người, ở giữa trung tim có thắp một ngọn đèn Thiêng-Liêng ngày và đêm, đàng trước quả Càn Khôn thì có làm cái nghi bốn cấp:

Cấp thứ nhứt thì thờ Phật Thánh Tiên:

- Phật thì Thích-Ca Mâu-Ni.
- Tiên thì Lão-Tử.
- Thánh thì Khổng-Tử.

Cấp thứ nhì thì thờ Tam-Trấn:

- Quan-Âm Bồ-Tát.
- Lý-Thái-Bạch.
- Quan-Thánh Đế-Quân.

Cấp thứ ba thì thờ cốt Đức Chúa Jésus (Thánh Đạo).

Cấp thứ tư thì thờ cốt Đức Khương-Thái-Công (Thần Đạo).

Kế đó có 7 cái ngai sơn son phết vàng:

- 1 cái ngai giữa của ngôi Giáo-Tông,
- 3 cái ngai kế của 3 Chưởng-Pháp,
- 3 cái ngai chót thì của 3 Đầu-Sư.

(Coi hình vẽ trước đó)

Chức-sắc lớn nhỏ hầu Đàn quì ở dưới là Cửu-Trùng-Đài.

Đàng trước có Hiệp-Thiên-Đài, có 1 từng lầu.

Niệm Thầy thì niệm: “Nam mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”; còn lạy Thầy thì lạy: 12 lạy, tay trái bắt ấn Tý.

Tại gia thờ Thầy thì thờ “Thiên-Nhãn”, xung quanh có hào quang và Thầy có dạy như sau nầy:

Nhãn thị, chủ Tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Thiên thị thần,
Thần thị thiên,
Thiên giã ngã dã.

Và sau Thầy sẽ dạy thêm (qua Tam-tiểu Thầy mới giải nghĩa).

Còn cúng thì dùng Tam-bửu: Tinh, Khí, Thần.

Mỗi ngày cúng Tứ-Thời: , Ngọ, Mẹo, Dậu.

Đọc kinh thì tạm thời dùng kinh Tam-Giáo xưa bằng chữ Nho và Thầy có hứa ngày sau sẽ ra kinh Quốc-âm. Nên ông Đầu-Sư Thượng-Trung-Nhựt có cậy ông Trang đi Đàn Minh-Lý (Sài-Gòn) thỉnh kinh Quốc-âm mà Thánh-ý chưa cho.

Thầy dùng huyền cơ diệu bút viết ra Quốc-âm đặng dạy Đạo, Thầy dùng ba cặp cơ:

1. Cư, Tắc.
2. Hậu, Đức.
3. Diêu, Sang.

Cặp phò loan thứ ba sau nầy viết văn pháp được.

Thầy nói cơ bút là tối cao, tối trọng; vì nếu phò loan không để tâm không thì phải có tà thần xen lộn (auto suppression), còn nếu Pháp-Sư hộ Đàn hớ hinh thì có quỷ nhập cơ.

Chức-sắc của Đạo Thầy kêu là Thiên-phong hoặc Hiệp-Thiên-Đài hoặc Cửu-Trùng-Đài.

Hiệp-Thiên-Đài ra Thánh-Ngôn kêu là lập Luật. 

Còn Cửu-Trùng-Đài để ban hành Thánh-Huấn.

Hiệp-Thiên-Đài thì có Hộ-Pháp làm chủ, dưới có Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh như Bảo-Pháp, Bảo-Thế... Hiệp-Thiên-Đài 12 vị.

Bên Cửu-Trùng-Đài thì có Giáo-Tông làm chủ dưới có Chưởng-Pháp, Đầu-Sư, Chánh-Phối-Sư, Phối-Sư... tới Lễ-Sanh là hết.

Nữ-phái cũng có Đầu-Sư, Chức-sắc khác như Nam-phái là Đại-phục và Tiểu-phục; Đại-phục thì đội mão, Tiểu-phục thì đội khăn, còn áo thì dung áo rộng dài, ba màu đỏ vàng xanh.

Sắc phục Hiệp-Thiên-Đài toàn là đồ trắng, đội mão trắng.

Về Tòa-Thánh thì cả thảy đều ăn chay trường luôn luôn.

******************

CHƯƠNG I

TRÍCH LỤC TRONG
THÁNH-NGÔN HIỆP-TUYỂN

4. CÁC BÀI THẦY DẠY VỀ TRỜI PHẬT THÁNH TIÊN THẦN, ĐẠO LÀ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP LÀ SỰ TU HÀNH ĐẠO-ĐỨC GOM VỀ MỐI SÁNG SUỐT

Thiên Địa tuần huờn, châu-nhi phục-thỉ, Đại-đồng phán đoán.

Nên Trời giáng trần cứu thế, hạ mình làm một vị Bồ-Tát xưng là Thầy, Thầy truyền Đạo như sau nầy:

Tây-Ninh, ngày 13 tháng 6 năm Bính-Dần (1926)

Thầy các con,

“ . . . . Bực chơn tu, ty như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cấy lên, cấy lên thì trổ bông, rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái Thiêng-Liêng các con sanh hóa Chơn-thần, Chơn-thần lại biến hóa hàng muôn, thêm số tăng lên hoài; ấy là Đạo”.

Bởi vậy một Chơn-thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn Khôn thế-giái nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.

Như kẻ bên Phật-giáo hay tặng Nhiên-Đăng là Chưởng-giáo, Nhiên-Đăng vốn sinh ra đời Hiên-Viên Huỳnh-Đế.

Người gọi Quang-Âm vốn là Từ-Hàng Đạo-Nhơn biến thân, Từ-Hàng sanh ra lúc Phong-Thần, đời nhà Châu.

Người gọi Jésus là Thánh-Đạo Chưởng-Giáo, thì Jésus cũng sanh nhằm đời nhà Châu.

Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy? ấy là Đạo, các con nên biết.

Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn Khôn thế-giái nầy, mà nếu không có Hư-Vô chi khí, thì không có Thầy.

Thánh-Ngôn ngày 5 tháng 9 năm Bính-Dần có dạy rằng: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài Tiên-Ông Bồ-Tát, Giáo Đạo Nam-Phương.

“Các con coi bực Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên-Ông và Bồ-Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào, vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ. Hạnh khiêm là hạnh của mỗi đứa con phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng...”

Thánh-Ngôn dạy tại Vĩnh-Nguyên-Tự, chùa Minh-Đường, Cần-Giuộc:

Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị ngã
Thích-Ca Mâu-Ni Phật thị ngã
Thái-Thượng Nguơn-Thỉ thị ngã
Gia-Tô Giáo-Chủ thị ngã
Kim Viết Cao-Đài Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Thánh-Ngôn ngày 25 tháng 2 Lang-Sa năm 1926:

“Trọng-Ni (Khổng-Phu-Tử) là Văn-Xương-Tiên hạ trần đặng thừa mạng Thầy làm Chưởng-Giáo Nhơn-Đạo, lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị.”

Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đều có để lời tiên tri rằng: “Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn-Quốc ngày sau đặng làm chủ nền Chơn-Đạo Ta”.

Có Thánh-Ngôn, ngày 13 tháng 3 rằng:

Vốn từ trước, Thầy lập ra Ngũ-Chi Đại-Đạo là:

Nhơn-Đạo
Thần-Đạo
Thánh-Đạo
Tiên-Đạo
Phật-Đạo.

Tùy theo phong hóa của thần nhân loại mà gây Chánh-giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành Đạo nội tứ phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn di tấn thúc, lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định Qui-nguyên Phục-nhứt.

Lại nữa, trước Thầy lại giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà làm ra cuộc phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ.

Thầy nhứt định đến, chính mình Thầy mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh-giáo cho tay phàm nữa.

“...... Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần Hồn của nhơn loại......”

Thánh-Ngôn ngày mồng 7 tháng 7 năm Bính-Dần (1926):

Vốn từ ngày Đại-Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa-Quỷ khi Ngọc-Hư-Cung và Lôi-Âm-Tự lập pháp Tam-Kỳ Phổ-Độ, Chúa-Quỷ biết cơ mầu nhiệm ấy và hiểu rõ ràng tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, thì nó đã hiểu rõ rằng: bề nào Thầy cũng phải chiếu y Thánh-ý Tam-Giáo Qui-nhứt, mà dùng danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, nên đã dụng Cao-Đài trước Thầy mà lập Tả-đạo Bàn-môn.

Thầy hỏi các con, vậy chớ tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì? Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh-giáo như đàn Cái-Khế vậy; nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dùng làm một vị Tiên-Ông mà thôi. Vậy các con khi nghe nói Cao-Đài nơi nầy, Cao-Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu tà mị.

Cao-Đài: nhớ gọi là Đấng Chí-Tôn.

Tiên-Ông: là về Tiên-Đạo.

Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát: là về Thích-Giáo.

Có bài thơ giáng cơ tại Biên-Hòa rằng:

Chín Trời mười Phật cũng là Ta
Truyền Đạo chia ra nhánh nhóc ba
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ
Thánh, Tiên, Phật Đạo vốn như nhà.

Ngài đã dạy rõ ràng Tam-Kỳ Phổ-Độ tuy khai năm Dần (Nhơn sanh ư Dần), chớ kỳ trung Thiên-cơ tiền định đã lâu rồi:

Thánh-Ngôn rằng: vốn từ trước, trong Thiên-thơ Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy nên Chánh-giáo phải có:

- Nhứt Phật,
- Tam Tiên,
- Tam-thập-lục Thánh,
- Thất-thập-nhị Hiền
- Tam-thiên Đồ Đệ.

Chưởng-Quản thâu Tam-Giáo hiệp nhứt.

Nơi Bạch-Ngọc-Kinh, hơn sáu chục năm trước; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời. Thầy coi lại bọn ấy lại làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?

Bị hàng phẩm Nhơn-tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên-tước. Đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phần bần hàn, mà bởi không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vầy. Thầy nói thiệt cho các con biết: Dầu một vị Đại-La Thiên-Đế xuống phàm nầy mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng.

Có Thánh-Ngôn giáng ngày 27 tháng 6 rằng:

Thầy hằng nói cùng các con rằng: Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế nầy một trường công quả. Các con muốn đến đặng nơi cực lạc thì phải đi lại trường nầy mà đoạt thủ địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc Đạo bao giờ. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng, Thầy đã đến chung cung với các con, các con dại có tu mà đắc Đạo, phải đoai lại bá, thiên, vạn, ức Nhơn-sanh mà phải bị trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng Từ-bi mà độ rỗi. Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nơi, các con cũng nên tin nơi Thầy, mà cho rằng lời dạy Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi.

Cần-Giuộc, ngày 19 tháng 4 năm Bính-Dần (1926) dạy chúng sanh rằng:

Từ trước Ta giáng sanh dạy Phật-giáo gần sáu ngàn năm, thì Phật Đạo chánh truyền gần thay đổi, Ta hằng nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn, nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo Đạo chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật-giáo lại cho hoàn toàn. Đường nầy từ đây chư chúng-sanh chẳng tu, bị đọa A-tỳ, thì hết lời nói rằng Phật Tông vô giáo mà chối tội nữa.

Ta nói thiệt cho chúng-sanh biết rằng, gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy mà không tu, thì không còn trông mong siêu rỗi.

Thánh-Ngôn Thích-Ca Như-Lai Kim Viết Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát, giáng tại Hội Phước-Tự, ngày 26 tháng 4 năm Bính-Dần rằng:

Chư sơn nghe dạy: 

Vốn từ Lục-Tổ thì Phật-giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh-pháp bị nơi Thần Tú làm ra mất Chánh-giáo, lập riêng phép luật buộc nối Đạo-thiền.

Ta vì luật lịnh Thiên-mạng đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tôn bất chánh có trên ba ngàn năm nay.

Vì Tam-Kỳ Phổ-Độ Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây-Phương Cực-Lạc và Ngọc-Hư-Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng-sanh. Trong “Phật-Tông Nguyên Lý” đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm Chơn-lý mà hiểu, làm kẻ đã chịu khổ hạnh hành Đạo... Ôi! thương thay, công có công, thưởng chưa có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.

Ta đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi, vì trong thế hiếm bực Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.

Chư Tăng, chư chúng-sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ-Độ nầy là lần chót, phải ráng sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trong gia luật...... Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cho chư Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng còn nói Phật giả vô ngôn nữa.


NOEL 1925

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo-Đạo Nam-Phương

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành
HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh
HUỜN MINH MẪN Đạo thủ đài danh.

(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 người môn đệ trước hết của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Còn ba chữ xiên lớn trong câu chót là tên ba vị hầu đàn).

******************

20 FÉVRIER 1926

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết
Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo-Đạo Nam-Phương

Bửu-tòa thơ thới trổ thêm hoa
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà
Chung hiệp ráng vun nền Đạo-đức
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Nguồn Tiên tầm Đạo dễ vì đâu?
Quyền phép Càn Khôn một túi thâu
Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp
Độ hồn nay rọi khắp năm châu.

Tìm hiền lầm lạc gieo nguồn Đạo
Cải dữ đôi phen cổi mạch sầu
Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh
Ngày thành Chánh-quả có bao lâu?

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.

Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy.

Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn, ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.

Vào vòng huynh đệ khá thương nhau
Một đức trỗi hơn một phẩm cao
Quyết chí Thiên-Đường men bước tới
Phải nhiều máu thịt mới đồng-bào.

Các con phải hiểu rằng, Thầy là huyền diệu thế nào!

Cách dạy, Thầy buộc tùy thông minh mỗi đứa mà dạy.

Dầu cho Thầy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa nào dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.

Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là Đạo-hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp, chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó.

Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Đạo tức một Cha
Nghĩa nhơn đành gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ HÒA.

Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tư riêng mà phân đoán chi hết. Phận sự và trách nhậm các con, Thầy đã định trước, song giờ ngày chưa đến, phải tuân theo lời Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo cho ......

21 tháng 6 năm Bính-Dần
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo Đạo Nam Phương

******************

TÀ DÂM GIÁI

Vì sao tội Tà dâm là trọng tội?

Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình nhứt một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Nhưng sanh vật ấy câu kết nhau mà thành khối (la formation des cellules). Vật chất ấy có tánh linh. Vì chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau cỏ, cây trái, lúa gạo; mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Nếu nó không có chất sanh thì thế nào tươi tắn và chứa sự sống, như nó khô rũ thì là nó chết. Mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ? Còn như nhờ lúa mà nấu, thì là phương pháp tẩy trược đó mà thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.

Các vật thực nào tỳ vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh, tử tử của kiếp nhơn loại. Vì vậy mà một giọt máu thì là một khối chơn-linh.

Như các con dâm quá độ thì là sát mạng chơn-linh vậy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại Nghiệt-Đài mà kiện các con, các con chẳng hề chối tội đặng.

Vậy phải giữ gìn giái cấm ấy cho lắm.

Sách có dạy rằng: Nhơn-sanh là tiểu Kiền Khôn, vậy nên Trời có võ trụ vạn vật thì Nhơn-sanh cũng có vạn vật vậy.

Nhơn-sanh lại chia ra làm hai hạng:

1) Hạng Nguyên-nhơn trên Trời sai xuống đặng lập công bồi quả.
2) Hạng Hóa-nhơn bên côn trùng, thảo mộc, thú cầm mới qua làm người ta, nên Chánh-Tà Yếu-Lý Thầy có dạy:

Thầy nhìn con cả gái trai,
Côn trùng, điểu thú, căn cai cũng nhìn.

Vậy nên nhiều khi Thầy nói:

Được làm người chẳng dễ đó con!

******************

Dimanche, 19 1926       Rằm tháng 11 (Bính-Dần)

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo Đạo Nam Phương

Các con nghe: một sự các con chớ hề biết đến, đặng hiểu Đạo là quý trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.

Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi: các con chết rồi, các con ra thể nào? Các con đi đâu?

Chẳng một đứa hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy dạy: cái kiếp Luân-hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bực Đế-Vương nơi trái Địa-cầu này, chưa đặng vào bực chót của Địa-cầu trên. Cái quí trọng của mỗi Địa-cầu càng tăng thêm hoài, cho tới “Đệ nhứt cầu” “Tam thiên thế giái”, qua khỏi “Tam thiên thế giái” thì mới đến “Tứ đại bộ châu”, qua “Tứ đại bộ châu” mới vào đặng “Tam thập lục thiên”, vào “Tam thập lục thiên” rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới đặng lên đến Bạch-Ngọc-Kinh, là nơi Phật gọi là Niết-bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên-Vì.

Còn phẩm trật Quý-Vì cũng như thế ấy, nó cũng noi chước Thiên-Cung mà lập thành Quý-Vì, cũng đủ các ngôi, các phẩm đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy, đó Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chân bộ hạ trong vòng tôi tớ nó. 

Thầy đã thường nói, hai đầu cân không song bằng, thì tiếng chưa đúng lý. Luật Công-bình Thiêng-Liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: trong “Tam thiên thế giái” còn có quỷ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là “Thất thập nhị địa” nầy, sao không có cho đặng? 

Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng:

Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biểu nó cắn xé các con, song Thầy cho  các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng, là Đạo-đức các con.

Ấy vậy Đạo-đức các con là phương pháp khử trừ quỷ mị lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Đạo, thì là tôi tớ quỷ mị. Thầy đã nói Đạo-đức cũng như một cái thang vô ngằn bắt cho các con leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con hơn nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con: nếu kẻ không tu, làm đủ phận người, công bình, chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy, nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn Khôn thế-giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng, mà... hại thay...... mặt, Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc, thấy đặng kẻ ấy.

Vậy Thầy dặn: Đạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.

******************

Ngày 26 tháng 1 năm 1927
nhằm 23 tháng 12 năm Bính-Dần

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo Đạo Nam Phương

Hỡi chư môn đệ, chư chúng sanh nghe:

Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần
Nhuộm áo nâu sồng về Cực-lạc
Trau gương trí huệ phủi đai cân

Cơ Trời nên buổi đời thay đổi
Đạo Thánh nhằm ngay khách gội nhuần
Khổ hạnh dầu ai thình một kiếp
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.

Đạo Trời khai ba lượt, khách tục lỗi muôn phần, khách trần ai vẫn lấy sự vui vẻ vô vị chốn sông mê nầy mà quên trọn các điều Đạo-đức của các đấng Thánh trước Hiền xưa. Chung đỉnh mảng tranh giành lợi danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không mấy lát, đời giả dối chẳng là bao. Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành trình cho xong, mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lắm điều phiền não ưu sầu, lấy Thánh-đức gọi là chơi, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương. Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hi vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà về cuộc sanh ly, pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang đành vong, đều thành ra một giấc Huỳnh-Lương rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp. Đài Nghiệt-Cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sâu, mà đọa đày đời đời kiếp kiếp. Ấy là buổi chung qui của khách trần đó. Nguồn Tiên Đạo Thánh, dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lấn vào nơi Cực-lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, đồng thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc, ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khốn. Đạo Trời mầu nhiệm, khá biết xét mình sau khi đều tự hối.

Chúng sanh khá biết cho:

Tròi trọi mình không mới thiệt bần
Một nhành sen trắng náu nương chân
Ở nhà muôn đám mây xanh kịt
Đỡ gót nhờ con hạt trắng nần
Bố hóa người đời gây mối Đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào Đất dậy Trời thay xác
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Tân tỏa Bạch-Ngọc-Kinh

Một tòa Thiên-Các ngọc làu làu
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao
Vạn trượng then gài ngăn Bắc-Đẩu
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam-Tào
Chư-Thần chóa mắt màu thường đổi
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nỗi
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

Huỳnh-Lương một giấc cuộc đời in
Có trí có mưu phải xét mình
Danh lợi lớn là giành với giựt
Phú quý cao bởi mượn và xin
Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa
Một kiếp đeo đai mối nợ tình
Biết số biết căn tua biết phận
Đường xưa dễ bước lại Thiên-Đình.

Hữu văn hữu võ hữu phong ba
Nhựt Nguyệt âm dương tứ quý hòa
Thiên Địa Càn Khôn khiêm vạn loại
Nhơn quần, thảo mộc cập chư hoa
Ly kỳ cảnh vật cao nhơn thượng
Đáo để san hà thưởng khách ca
Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?
Kỉnh Ngô vi chủ, Đạo như hà?

Ngọc ẩn thạch kỳ, ngọc tự cao
Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào
Giáng ban phúc hạnh nhơn đồng lão
Thế tạo lương phương thế cộng giao
Giáo hóa nhơn sanh câu triết lý
Đạo truyền thiên hạ ái đồng bào
Nam nhơn tình cảm sanh cao khí,
Phương tiện tu tâm kế diệt lao.

Thầy có nói rằng: một vị Đại-La Thiên-Đế xuống trần mà không tu thì khó mà trở về ngôi cũ được.

Có Bài Thi giáng cơ rằng:

Tu như cỏ úa gặp mù sương
Đao ấy cây che mát mẻ đường
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng
Đôi năm mệt nhọc vạn năm bường
Có thân nuôi nấng thân càng mạnh
Luyện khí thông thường khí mới tường
Nhập thế lóng trong gìn tinh mẫn
Nguồn Tiên, ngọn Phật mới nhằm phương.


Mercredi 4 Aoul 1926       26 tháng 6 (Bính-Dần)

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo-Đạo Nam-Phương

Hỉ chư Môn-đệ, chư nhu nghe dạy:

Sự chơn thật và sự giả dối, mắt phàm các con đâu có thế phân biệt đặng; một trường thử Thánh, Tiên, Phật vì vậy mà phải lập nơi thế-gian nầy. Nếu buổi sanh tiền, dầu cho một kẻ phàm tục tội lỗi biết đặng cơ quan mầu nhiệm của Đấng Chí-Tôn là Trời đã sắp đặt, thì cũng chẳng dám gây ra tội lỗi mà thôi, lại có thể dắt Đạo mà gắm ghé cái phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng nữa; huống lựa là các đấng ấy phải bị đọa trần mà biết mình hằng giữ, thì mầu nhiệm chữ Thánh, Tiên, Phật chẳng có nghĩa lý gì hết. Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: một trường công quả, các con muốn đến nơi Cực-lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng, Thầy đã đến chung cùng với các con: các con tuy có tu mà đắc Đạo; phải đoái lại bá, thiên, vạn, ức nhân sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.

Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nơi, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi.

Vậy các con tuân lịnh dạy.

*****************

Chợ-Lớn, Le 10 tháng 1 năm 1927 

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo-Đạo Nam-Phương

Chư Môn-đệ và Chư-nhu nghe: chim về cội, nước tách nguồn; từ xưa kiếp con người giữa thế, chẳng qua là khách đi đường, phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đoạt đặng phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh, lăng xăng xạo sự, mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc chẳng khác chi một giấc Huỳnh-Lương, mong mỗi bực phẩm đều đăng một vai tuồng của Đấng cầm quyền thế giái ban cho; dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán. Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng tòa Nghiệt-cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Địa-cầu... nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh, phải bị đọa vào u-minh địa, để trả cho xong tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên-Điều chồng chập, khổ A-tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Bực nhơn-sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào sổ luân hồi vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng. Các bực Thần Thánh, nếu chẳng biết mối Đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Trời Nam may đặng một yến sáng của Đấng Đại Từ-Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dùng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lưng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh. Phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị này, ấy là một sự khó thi hành của khách phàm tục, mấy ai nong nả phải đến cảnh Thiêng-liêng, mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.

Đạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần, nếu chẳng biết thế thời giọt nước nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.

******************

Vendredi, 17 Décembre 1926
13 tháng 11 (Bính-Dần)

THÁI-BẠCH

M.D...est prié dattendre la venue du Divin-Maitre.

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo-Đạo Nam-Phương

DIEU TOUT-PUISSANT qui vient sous le nom de CAO-ĐÀI pour enseigner la Vérité en Annam.

D......, Debout et lis.

Je tiens à le dire que rien ne se crée est nexiste sur ce globe sans ma volonté. De pauvre ses prits prétendent quils sont dans se secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici-bas d'en faire la révélation. Pour venir à moi, il faut des prières. Je ne négligé pas à me manifester quand ces prières sont sincères. Il suffit, pour vous convaincre que je suis bien Jéhovah des Hebreux, le Dieu des Armées des Israélites, le Dieu inconnu des Juifs et le vrai Père de Jésus-Christ, de me prier par ce préte nom CAO-ĐÀI pour que vos voeux soient éxaucés. Tu viens à moi avec un sentiment sincère pour bien faire aux peuples soumis qui te sont confiés? Je te prie alors de propagend cette doctrine à tous tes protégés. C'est la seule qui maintient l'humanité dans l'amour des créatures et vous apporte une paix durable.

******************

Thứ sáu, 17 tháng chạp 1926 dương lịch
nhằm 13 tháng 11 (Bính-Dần)

Đức Lý-Thái-Bạch khai đàn:

Mời ông D... (Lang-Sa) chờ đợi giây lát có Thánh-ý Giáng-đàn.

Thầy xưng: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài Giáo-Đạo Nam-Phương, tá danh Cao-Đài hay là Chúa Trời phép tắc vô cùng.

M.D... đứng dậy và đọc.

Ta nói với người rằng chẳng có vật chi tạo thành và đứng vững mà chẳng có Ta nhứt định. Nhiều vị Thần thấp hèn xưng rằng chúng nó thạo cơ Trời. Còn Ta thì chẳng có trao cơ Tạo cho kẻ phàm nào truyền bá ở thế hạ nầy. Muốn đến hầu Ta thì phải có lòng cầu nguyện. Ta không có bỏ qua sự cầu khẩn thành tâm ấy và sẵn lòng giáng dạy cho, đặng nhà ngươi tin thì phải biết rằng Ta là Đức Chúa Trời Jehovah chúa của bọn Hébreux, chúa của dân Du-Dêu, chúa của dân Juifs phản và cha thiệt của đức Chúa Jésus-Christ, phải cầu nguyện Ta là tá danh Cao-Đài thì được hữu kỳ sở nguyện, nhà ngươi muốn đến hầu Ta có lòng thành thật và làm ơn cho dân bổn xứ nầy chịu dưới quyền nước Pháp. Ta xin ngươi truyền bá cái tôn chỉ nầy cho dân bổn xứ. Ấy là một cái Đạo làm cho dân sự hòa bình bền vững và lâu dài.

Tuy rằng Thầy đã xưng đủ các thứ danh tánh của Thầy:

- Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị ngã
- Thích-Ca Mâu-Ni thị ngã
- Thái-Thượng Lão-Quân thị ngã
- Gia-Tô Giáo-Chủ thị ngã
- Kim Viết CAO-ĐÀI Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.

Chúa Trời phép tắc vô cùng,

Chúa Jéhovah của dân Hébreux Du-Dêu và của dân Juifs phản.

Mà qua năm 1927, Chánh-phủ mới cho mở cửa 12 cái Thánh-Thất, ban đầu thì còn luật cúng thong thả dưới 20 người, sau luật ấy bị bãi thì mỗi lần cúng Sóc-Vọng mỗi tháng 2 lần phải đi xin phép Quan, rồi qua năm 1936 Quan Phó-Soái Pagès mới cho các Thất cúng thong thả. Đó là nhờ ơn Ngài Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt tâu với Chánh-phủ Toàn-quyền Robin.

Bởi tại vậy nên Thầy mới ân xá cho Ngài Thượng-Trung-Nhựt và cho Ngài giáng đàn dạy Đạo một đôi phen, dạy Đạo tại Tòa-Thánh Định-Tường (Mỹ-Tho) trong lúc chuyển qua Tiểu Tam-thời.

Bởi cớ các sự thiên tân vạn khổ ấy Thầy biết trước nên ra đôi liễn như vầy:

CAO thượng Chí-Tôn Đại-Đạo Hòa-bình Thế-gian Mục.
ĐÀI tiền Sùng-bái Tam-Kỳ Vui hưởng Tự-do quyền.

******************

CHƯƠNG II

LỜI TIÊN TRI TIỂU-NHỨT THỜI-KỲ

5. TIÊN TRI

Ngày 17 tháng 9 năm Bính-Dần (1926)

Tá danh: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Giáo-Đạo Nam-Phương, Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng, truyền dạy cho mấy người Lang-Sa như sau nầy:

(đàn 27 Octobre)

“Thế-gian hiện thời chịu tha thiết muôn vàn tân khổ, nên Thầy sai Allan Kardec va Flammarion (viết sách Thần-linh giáo dạy người Pháp) cũng như thuở xưa Thầy sai Thánh Elie và Saint Jean Baptiste rao trước cho hay rằng Chúa cứu thế Jésus ra đời.

Hai Thánh-Nhơn này: một vị thì bị hiếp đáp khổ sở, một vị nữa bị tử hình, tại nơi ai đó? Tại nhơn loại chớ ai?

Con Một của ta đây cũng bị chúng bây giết chết, chúng bây kính nó như một vị Thần kia không kể là một vị Thánh Tiên.

Thuở xưa Ta muốn nói chuyện với các con một phen cho rành rẽ là hồi đời Moise trên đảnh Sinai mà các con không hiểu rõ lời của Thầy dạy. Thầy đã hứa với Tổ-Tông các con rằng Thầy sẽ cứu các con nghĩa là Thầy có tiên tri cho hay rằng Chúa Cứu Thế sẽ ra đời mà các con không tin lời thành thật của Thầy.

Bởi vậy cho nên hiện thời chính mình Thầy phải dùng huyền cơ diệu bút mà độ các con cho chắc ý, đặng đến ngày Phán-đoán Đại-đồng các con không còn chối cãi rằng Thầy không hết lòng với nhơn mà độ rỗi các con.

Dầu Thầy có lòng hết sức đi nữa, Thầy cũng không có thế xóa hết tội tiền khiên của các con tạo ra từ hồi Vô-Thỉ đến giờ.

Thế-gian ngày nay ở trong vòng hắc ám, Đức tánh của Trời ban cho nhơn loại đã tiêu tan cả, sự nghịch lẫn nhau càng ngày càng lấn tới, thế thì sự chiến tranh trong hoàn cầu không tránh khỏi được.

Dân Pháp và dân Nam-Việt là hai sắc dân Thầy ủng hộ hơn hết nên Thầy ước ao cho hai nước được hòa thuận với nhau luôn luôn. Đạo Trời của Thầy gieo truyền đây là cốt để dạy Pháp Việt đề huề mà lo chung quyền lợi và kinh tế lâu dài.

Hai nước hãy liên hiệp sanh hoạt với nhau và khuyên dạy cho thế-gian giữ sự hòa bình và sự thuận thảo cùng nhau là hay hơn hết.

Chiều ngày nay Thầy dạy bấy nhiêu là đủ.

******************

Mercredi 27 Octobre 1926        17 tháng 9 (Bính-Dần)

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo-Đạo Nam-Phương

L'humanité souffre de toutes sortes de vicissitudes. J'ai envoyé Allan Kardec, j'ai envoyé Flammarion comme j'ai envoyé Elie et Saint-Jean-Baptiste, précurseurs de l'avènement de Jésus-Christ, l'un est me sécuté et l'autre tué. Et par qui? Par l'humanité! Mon fils est aussi tué par vous, vous ne le vénérez qu'en Esprit et non en Sainteté. 

Je voulais causer avec vous en une seule fois au temps de Moise sur le Mont-Sinai, vous ne pouviez me comprendre. La promesse que j'ai faite à vos ancêtres pour votre Rédemption, la venue du Christ est prédite, vous ne voulez pas en tenir compte. Il faut que je me serve moi-même maintenant d'un moyen plus spirituel pour vous convaincre. Vous ne pourrez pas l'humanité par tous moyens plausibles. Quelque indulgent que je sois, je ne pourrai effacer tous vos péchés de puis votre création. Le monde est dès maintenant dans les ténèbres. La vertu de Dieu est détruite, la haine universelle s'envenime, la guerre mondiale est inévitable. 

La race francaise et la race annamite sont mes deux filles bénites.

  Je voudrais que vous soyiez unies par toujours. La nouvelle doctrine que j'enseigne a pour but de vous mettre dans une communauté d'intérêts et de vie. Soyez donc unies par la volonté et préchez au monde la paix et la concorde. 

En voilà assez pour vous ce soir.

         Extrait du Thanh-Ngôn Hiêp-Tuyên de l'ancien

Tòa-Thánh Tây-Ninh (Edition 1928)

*********

Trong một bài chơn đạo truyền ngày 13 Janvier 1926, Chơn-Linh Đức Lý-Thái-Bạch, Tam-Trấn của Đại-Đạo trước mặt ít vị Lang-Sa hầu đàn, giải nghĩa như sau nầy:

Quý Huynh đệ:

Lão không có lợi dụng đức tin của quý huynh đệ đặng bày sự bóng chàng mờ ám và nói tiên tri điều tà thuyết. Lão quyết nhứt là phô bày sự hữu ích của cái Đạo nầy vì có một mình nó đem được sự hòa bình lại trong thế-gian mà thôi.

Cái tôn chỉ Đạo nầy hiện thời có gieo truyền trong các sắc dân cho biết kính mến Đức Chúa Trời và yêu dấu cả nhơn loại truyền sự hành vi Đạo-đức, sự ngay thật và học tánh nhịn nhục với nhau: tỏ bày cho nhơn loại biết rằng các sự phải của người làm hiện thời đều sẽ có kết quả tốt trong lúc cuối cùng cho phần Thiêng-liêng được sáng suốt, ấy là mục đích cao thượng của Đại-Đạo.

Các tôn chỉ của Tam-Giáo hiện giờ đều bị canh cải hết. Sự trật tự và sự thái bình đời xưa trong cả thế gian đều suy tồi. Luật phong hóa của nhơn loại đều trái ngược.

Thánh truyền của Đạo Thiên-Chúa để dụng mà dứt lòng tham lam của người mạnh hiếp kẻ yếu hèn và làm cho người khôn đủ binh bị đặng chống với kẻ dại khờ. Theo mấy người không suy xét và không tin thì tiếng Đức Chúa Trời dùng mà nói nơi chót lưỡi đầu môi đó thôi.

Phải có một cái Đạo mới đặng dạy nhơn loại khắn khít trong sự thương xót chúng sanh, hiện giờ còn có một mình nước Nam duy trì thành thật cái tôn chỉ muôn năm, thờ phượng vong Linh.

Quý huynh đệ, Đức Chúa-Trời bác ái đã giáng trần tại đây đặng phóng con đường chí thiện đặng dìu dắt nhơn sanh, cả thảy phải ráng mà đi theo Chúa đặng ngày sau hưởng hạnh phúc, mỗi ngày phải bước cho lẹ trong sự kính mến Chúa. Cả thảy phải hòa hiệp và tương thân, tương ái nhau. Phải giúp lẫn nhau ấy là Thánh-ý của Tạo-Hóa định vậy.

Ở trần thế nầy là nơi chúng ta bị luân hồi tái kiếp đặng trả nợ thế, nếu chúng ta còn mài miệt trong sự ích kỷ lợi ta hại người, gây tai họa và làm khổ sở cho người, cho kẻ khác thì chúng ta sẽ vào A-tỳ, là nơi kẻ hung bạo phải bị tiêu diệt phần xác và trầm luân phần hồn.

LÃO KIẾU.


Dans un message transmis le 13 Janvier 1927. Lý-Thái-Bạch, Esprit Ministre de Dieu en quelques Européens, exposa en francais comme ci-après le but de la nouvelle doctrine;

Chers frères.

Loin d'exploiter votre rédulité par de puérites sorceleries ou des prophéties charlatanesque, je tiens particulièrement, chers frères, à vous faire comprendre l'hutilité de cette religion, la seule capable de ramener la paix universelle.

La doctrine de cette Religion est répandue actuellement sur plusieurs points du globe, sous différentes formes.

Combattre l'hérésie, semer parmi les peuples l'amour du bien et des créatures, la pratique de la vertu; apprendre à aimer la justice et la résignation, à inculquer aux humains des conséquences posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme, tel est l'idéal du Dai-Dao.

Les Saintes Doctrines des diverses religions sont mal pratiquées. L'ordre et la paix du temps jadis s'effacent. La loi morale de l'humanité est trahie.

La Sainte Doctrine du Christianisme ne sert plus qu'à envenimer l'ambition des Forts contre les Faibles et arme les premiers contre les derniers, pour les riréffléchits Dieu n'enseigne par le mot.

Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l'humanité dans l'amour des créatures un seul la nation annamite conserve religieusement le culte millénaire des morts.

Chers frères, le Christ miséricordeaux est venu parmi vous pour vous tracer le chemin du bien. Tâchez de le suivre pour avoir plus tard la paix de l'âme, avancez chaque jour d'un pas alerte dans l'amour de Dieu. Unissez-vous, aimez-vous les uns les autres, aidez-vous mutuellement, c'est la loi divine.

En ce monde, où chacun est condamné à subir son purgatoire, si l'on ne pense qu'à ses intérêts personnels, si l'on cherche à semer partout misères et souffrances, on risquera d'être entrainée dans ce torrent infernal òu le méchant va briser sa vie souiller son âme.

*********

Thanh thanh Nhựt Nguyệt Cửu-Trùng Thiên
Hiện xuất cao nhơn tại nhãn tiền
Bất quản hổ tranh thâu Bắc-Cực
Chỉ nguy long đấu đoạt Nam-Uyên
Sanh tồn cư pháp vô công trắc
Tử hậu cùng đồ uổng lộ diên
Hữu đạo, hữu công vô tự khả
Vô công, vô đạo tổng đồ nhiên.

Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đều có để lời tiên tri rằng: “Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn quốc mà đặng làm chủ nền chơn Đạo của Ta”.

Hảo Nam Bang! Hảo Nam Bang!
Tiểu quốc tạo khai hội Niết-Bàn
Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo
Hảo phùng Ngọc-Đế ngư trần gian
Thi ân, tế chúng thiên tai tận
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an
Chí bửu nhơn sanh vô giá định
Nan tri giác thế sắc cao ban.

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

******************

Sài-Gòn, ngày 26 Septembre 1926

CA, sao con không đợi chết bị đọa luân hồi, tới đây làm gì?

Tại nhơn hữu Đạo đắc chơn Tiên
Khai hoán thanh thiên, khán sắc thiên
Bảo thế khả quan hành khử hậu
Trì duyên khai thiết đáo như tiền
Mạc vong thế hội vô tri Thánh,
Khảo cưu đường thi triết thế hiền
Thần Thánh cư phàm thân vị hảo
Thiêng-liêng nhứt mạch thoát tiền khiên.

Phò-loan CƯ, TRUNG, TẮC con phải dạy CA. Ngày sau Thầy sẽ giao trách nhậm lớn lao cho nó như con vậy, nó là Chơn Thánh.


Hữu-Đạo, ngày 3 Mars 1927

Lộ khải hành đường chí thánh minh
Thanh biên nhựt tảo chiết đơn đình
Hoành chu giang khách chung thinh đáo
Hữu đặt tuyền quan độ chúng sanh.

Nầy CA, ngày giờ đã trễ rồi! con liệu lấy.

Phò loan: DIÊU - SANG

******************

Tây-Ninh, 5 Février 1927           4 - 11(Đinh-Mão)

THÁI-BẠCH

Hỉ chư Đạo-hữu, chư Đạo-muội, chư Chúng-sanh, hảo hội hiệp.

  Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại! 

Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia, cũng đáng đó chút. Lão đã vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch-Ngọc-Kinh cái khổ quá nặng nhơn loại, nhưng luật Thiên-điều chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu, chư Đạo-hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ, ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh-Địa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định, Huế, Hải-Phòng, Hà-Nội thay, thảm! thảm! thảm?

Cuộc đời càng gẫm thấy càng gay
Ngặt nỗi Thiên-cơ chẳng dám bày
Rắn núp dưới hang coi ngựa chạy
Khỉ ngồi trên ngọn ngó gà bay
Đông Tây chộp rộp Trời thay xác
Nam Bắc ê hề đất chở thây
Nhơn vật mười phần hao tám chín
Thần Tiên thấy vậy rất châu mày.


Mỹ-Phong,  Mai  1927

Thầy sai ông TRUNG đem cặp đồng-loan DIÊU-SANG xuống nhà tôi giáng dạy, Phật-Bà và Quan-Thánh cũng cho thi, và Thầy phong chức Phối-Sư phái Thái, dạy phải may Thiên-phục y như THƠ.


Chợ-Lớn,  Juillet 1927 

Đêm ấy có đàn đang trấn thần áo mão cho nhiều chức sắc tại nhà ông TRUNG, nên Đức Lý giáng dạy như sau nầy:

THÁI-Bạch phụng thừa Ngọc-sắc ban
CA ngâm nhứt pháp triệu chư Thần
THANH tân thiên sắc Quỳnh bào thủ
TỊCH Đạo Ca thanh sắc phục tân.

Phò loan HẬU - ĐỨC

Hai vị nầy nói từ khai Đạo đến giờ không có Vị chức sắc nào trấn thần áo mão mà có được tặng thi như vầy.

******************

CHƯƠNG III

6. ĐẠO CHINH NGHIÊNG

Bất tà dâm, bất sát sanh, bất tửu nhục, bất đạo tặc.

Thầy phán rằng: kỳ nầy Thầy không có giao Thánh-Giáo cho tay phàm, vì Đạo Thầy qui Tam-Giáo, nên Thầy cho Tam-Trấn xuống trước đặng mở đường dẫn lối:

Đức Lý-Thái-Bạch................... Đạo Tiên
Đức Quan-Thế-Âm Bồ-Tát..... Đạo Phật
Đức Quan-Thánh Đế Quân..... Đạo Nho

Tam-Trấn cũng hết lòng dìu dắt khuyên lơn, nhưng vì chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài khó kiềm chế, mấy vị bẩn chật thì tài chánh bất minh, mấy vị giàu có thì có vọng tâm khác, cho nên Đức Lý-Đại-Tiên Giáo-Tông dạy làm chương trình lập hiến đặng sắp đặt và giữ trật tự trong Tòa-Thánh, nhưng Ngài quyền Giáo-Tông có độc quyền chế cải bài ra huê lợi đặng cất Thánh-Tòa rồi khuyên chúng sanh hãy bỏ Đời theo Đạo, vì vậy mà nhiều sự tệ xảy ra, nhơn sanh chán ngán.

Kế ông Cao-Quỳnh-Cư liễu Đạo thì cặp Phò-loan thứ nhứt còn một mình ông TẮC làm chủ Hiệp-Thiên-Đài mà ông lại không dùng cặp Phò-loan thứ nhì (HẬU-ĐỨC) ông lại bắt ông DIÊU trong cặp số ba (SANG-DIÊU) ngồi chấp cơ với ông, vì vậy mà có nhiều bài chấp cơ của TẮC-DIÊU không thiệt, nên trong 12 vị Hiệp-Thiên-Đài thì có 9-10 vị không nhìn nhận, mới cắt cớ nên Đạo phải chinh nghiêng.

Nhiều cái điểm xấu như quả Càn Khôn bị cháy, cốt Phật Thích-Ca khi không mà ngã, Hiệp-Thiên-Đài xiêu sập, v.v... Nhưng mấy ông cũng chẳng sửa cải.

Tây-Ninh, ngày 5 tháng 4 năm 1928

TRUNG, THƠ... Đạo chẳng kíp thì chầy sẽ thành ra một mối hàng mà mỗi người trong Đạo sau khi giành giựt cắn xé nhau thì chia phân tan tành manh mún, để một trò cười về sau đó, ấy là tại nơi đâu? Người hành Đạo sẽ chẳng đủ sức chế cải, kẻ tự cao, luống chiều vì cầu danh, nghịch tư cách đối cách đối đãi với thế tình, gây ác cảm mà tạo thành thù oán.

Hai đứa phải biết chỗ yếu nhược của Đạo nơi đó mà kiếm phương tìm chước lập công hòa-hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải nền Đạo cho chóng, làm sao cho mối Đạo-hữu các con đều ngó về Tòa-Thánh mà xưng ân huệ của mỗi con có trách nhậm xứng đáng, làm sao cho dứt mối hiềm thù riêng của mỗi đứa, hiệp đồng trí mà làm cho người ngoài dòm vào chẳng khinh nhạo mối Đạo quí hóa và thảy sùng bái cử chỉ cao thượng của các con. Chừng ấy các con không mạnh cũng ra mạnh, không đông cũng nên đông, mà việc phổ độ nhơn sanh chẳng còn điều chi trắc trở.

Đạo trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, mà làm cho mối Đạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Đạo trọn thành nơi đây? Chừng nào Đạo chuyển cho ngoại quốc? Trong còn mơ màng như người say chưa tỉnh, thì ngoài thế nào được đem mà gieo lần ra. Các con nên biết xưa những chi mà trái cả nhơn tâm thì khó bền khó vững. Chánh sách cộng hòa êm tịnh là chánh sách của các con đặng dùng lập Đạo mà thôi. Kiêu hãnh, thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt đè ép, biết mình mà chẳng năng biết người, hay ỷ sức mà chẳng lo xem thời thế, chẳng chế phục nhơn tâm, chẳng biết dụng khiêm từ mà đãi khách, là những nết của Vương-Bá, xưa dùng mà tan tành vỏ-trụ đó. Nầy các con muốn lập một Đạo chẳng khác chi lập một nước, phận sự lại còn khó khăn hơn nữa, liệu mà sửa cải, liệu mà điều đình, mới có thể chống ngăn sự tàn bại sắp đến, cho nên Đạo chẳng xa? Nhưng hai con muốn được ra công kềm chế mà làm cho Đạo được vững người được hòa, tâm được hiệp, ngoài được mạnh, trong được thung dung, giống quý mầu, thì công ấy chẳng chi sánh được.


Tây-Ninh, ngày 26 tháng 7 năm 1928

Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy như sau nầy:

Từ Lão lãnh trách nhậm Giáo-Tông kể ra thì chưa đặng một mảy chi kết quả cho Đạo, mà lại còn mang lời nầy tiếng nọ. Vậy Lão xin nhường ngôi Giáo-Tông lại cho Đạo.

Hiền-hữu Thượng-Trung-Nhựt với Lão chẳng xa lạ chi, vậy Lão xin hỏi một điều. Nếu Đạo một mai nghiêng ngửa thì danh giá của Hiền-hữu và của Lão đây ra thế nào?

Hiền-hữu đừng quá khiêm, dầu ngu thế nào cũng biết Đạo-lý, đã hai năm mà gọi rằng chưa rõ, vậy Lão chư Đạo-hữu có biết Chơn-Lý của Đạo, Lão muốn cho Hiền-hữu Thái-CA-Thanh làm một chương trình lập hiến (chương trình cửu viện) mà đệ lên cho Hội-Thánh nghị định hành Đạo cho hoàn tất. Còn Thượng Hiền-hữu lo định dưỡng tâm thần đặng cho địa vị xứng đáng. Hiền-hữu phải ráng chỉnh đốn trong Đạo cho hết lộn xộn về những việc bề ngoài của thường tình, đừng để mang điều quái dị thì có khi nhục đến danh Đạo......... Cứ chiều lòng công chúng thì nên mỗi việc; Lão thường dặn phải chung trí mà làm, thì không ai nói đặng.


Tây-Ninh, ngày 8 tháng 5 năm 1930

Thầy các con:

Thầy thấy phần nhiều, tu cũng muốn tu, mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ, thế tục là nét dìu dắt cho mất ánh Thiêng-Liêng, phải lấy nghị lực can tâm kiềm chế cái dục vọng mới là chẳng uổng công phu hành Đạo cho. Áo dà cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh, để cho họ biết mình là hướng Đạo, đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng lộn vào, thấy bạc rơi chẳng bỏ, lợi mún cũng chẳng chừa, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh-điện mà hơi tà còn phảng  phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, đội lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lỏng túi thâu đầy, toan làm thầy lũ dại.

Ôi! lốt Đạo,...

Thầy buồn cho kẻ dại chẳng biết làm sao mà đem Thánh-Giáo vào tay chúng nó đặng, Thầy nhớ xưa kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhục mình, giày gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giạo lá, bần hàn chẳng kể, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ mới có thể lập ngôi cho mình được, chớ có đâu lấy của lẫn nhau, mượn quyền xô giục kẻ chơn thành lánh mặt đứa tà mị hiếp ấp vào rồi cúm rúm mong hơi tà, lạy đùa nói rằng thờ Chánh-giáo.

Thầy hỏi vậy chớ ai chứng cho?

Các chức sắc đều lập hiến Cửu-viện đều lui lần lần về nhà hết, sau nữa Đức Lý-Đại-Tiên giáng đàn cho một bài tiên-tri rằng: Tổ Đình Tây-Vức (Tòa-Thánh Tây-Ninh) sẽ là một ổ quỷ.

******************

CHƯƠNG IV

7. DAY CÁN BÚT VỀ CAO-THIÊN-ĐÀN (RẠCH-GIÁ)

Vì nhơn sanh đồ thán nên Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), số người nhập môn tại Tây-Ninh có phân nửa triệu người, kẻ đi hầu đàn Đại-lễ có chừng 9-10 ngàn người, tại Thánh-Thất Mỹ-Tho mới Lạc-thành Tết năm Thìn (1928), số Nhập-môn có 50.000 người, đi hầu đàn có chừng 2-3 ngàn người theo gần kịp Thánh-Thất Vũng-Liêm của bà Lâm-thị-Thanh là một Thánh-Thất đông hơn hết.

Năm Ngọ (1930) Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá) có ra cuốn kinh:

8. TU-CHƠN THIỆP-KHUYẾT

NGỌC lịnh ban hành khải Cửu-Cung
HOÀNG môn xuân sắc thượng ung dung
THƯỢNG hành, hạ hiệu đua công quả
ĐẾ Đạo hoằng khai chiếm thượng phong.

1.- Cung Bạch-Ngọc ngự lâm bửu tọa
Thọ chư Thần triều hạ đã yên,
Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,
Trước xem Tam-Giáo, cháu Tiên, con Rồng.

2.- Đã đôi kiếp dày công, nhọc sức
Dạy chúng-sanh kỉnh Phật thờ Trời
Thương thay cũng tại số người
Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời Quỷ-Vương.

3.- Lòng chẳng kể cang-thường là Đạo
Dạ hằng lo hung bạo làm đầu
Thấy vầy Thầy phải nghĩ sâu
Tam-Kỳ Phổ-Độ Năm-châu phen nầy.

4.- Lời Thầy phán rẽ mây vén ngút
Kinh Thầy ban chạm ngọc khảm vàng
Khác nào rọi đuốc chỉ đàng
Khuyên con tạc dạ, ghi xương chớ rời.

5.- Sách chép chữ: khôi khôi thiên võng
Đời ghi câu: lộng lộng lưới giăng
Nhặt thưa, mau chậm cân phân
Mựa rằng sơ sót mắt Thần không sai.

6.- Thầy đã dạy nhiều bài vàng giá
Con nỡ đành chẳng dạ sắt đinh
Con hư Thầy phụ chẳng đành
Con nên Thầy được phỉ tình ước ao.

7.- Đời hằng nói: Trời cao có mắt
Sách thường biên: Thái nhứt vô hình
Minh mông đồ sộ rộng thinh
Mà soi xét đủ tình hình thế-gian.

8.- Đây giáng bút ít hàng vắn tắt
Đặng trao lơi vuông tấc nhiệm mầu
Chớ rằng chẳng tiếng cao sâu
Khuyên thường chữ dạ mựa hầu sai ngoa.

9.- Ơn cúc dục công cha nghĩa mẹ
Đức sanh thành nuôi bé dạy khôn
Tục rằng: cây cội nước nguồn
Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.

10.- Cùng bạn tác không dua không nịnh
Với anh em đừng phỉnh đừng phờ
Thấy người quyền quý đừng mơ
Gặp người hoạn nạn chớ lơ lảng lòng.

11.- Đạo quân-tử vợ chồng gây mối
Mối cang-thường dòng dõi trổ nên
Một lòng một dạ vững bền
Sớm khuya dạy bảo nhủ khuyên ngọt ngào.

12.- Tình máu mủ đồng bào cốt nhục
Cũng rún nhau một cục xắn chia
Đừng toan chước quỷ phân lìa
Ở cho hòa nhã tiếng bia danh đồn.

13.- Đạo thần tử lo tròn phận sự
Nghĩa tôi con nắm giữ thân danh
Sao cho công toại danh thành
Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.

14.- Cân Tạo-Hóa nhiều điều mắc mỏ
Máy Kiền Khôn hiếm chỗ cam go
Nước đời sâu chống, cạn dò
Đừng chơi biển thẳm, chớ mò rạch khơi.

15.- Thần Tiên đã bày lời trung chánh
Thánh Hiền còn thêm gánh nghĩa nhơn
Thương đời chẳng biết công ơn
Chê bai thấp thỏi chờn vờn cầu cao.

16.- Muốn đặng ngọc thì vào non thẳm
Muốn tìm vàng phải ngấm biển sâu
Muốn cho phú quí công hầu
Thì tua gắng chí dãi dầu tuyết sương.

17.- Ai cũng muốn Tây-Phương lạy Phật
Sao không lo Thánh-Thất chầu Thầy
Vì con Thầy mới đến đây
Cạn phân lợi hại, tỏ bày thiệt hơn.

18.- Phải tích đức tu nhơn làm trước
Lo tu thân tác phước cho cần
Trên đầu có Thánh, có Thần
Có Trời, có Phật cầm cân chẳng lầm.

19.- Đừng tương chỗ tối tăm chẳng thấy
Chớ tưởng điều phải quấy không soi
Có câu: khuynh phúc tài bồi
Nước sông rông kém máy Trời vần xây.

20.- Vầng Nhựt Nguyệt đêm ngày soi xét
Lẽ Âm Dương hàn nhiệt giao thông
Có câu: Thiên Địa chí công
Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa. 

21.- Đừng tưởng lấy vải thưa che Thánh
Chớ tưởng rằng sức mạnh qua Trời
Đáng thương mà cũng đáng cười
Vì lòng kiêu ngạo dể ngươi Cao-Dày.

22.- Lòng bất nhẫn thêm bày ít đoạn
Dạ Từ-bi, phụ giảng vài bài
Khuyên con tạc dạ chớ sai
Khuyên con chớ thấy dong dài bỏ qua.

23.- Nên xa lánh dâm tà sắc dục
Hư thân danh điếm nhục Tổ Tông
Hại nầy thiệt hại vô cùng
Phật Trời chẳng chút thứ dung tội nầy.

24.- Vì kiếp trước dẫy đầy âm chất
Sa mê dâm, phước đức tiêu mòn
Hại mình, hại vợ, hại con
Hại luôn sự nghiệp hại dồn đời sau.

25.- Chước quỷ quái lòng sâu dạ độc
Kế tinh yêu nước đục béo cò
Lập mưu thả lưới giăng dò
Hại người lương thiện, ấm no thân mình.

26.- Người cậy thế khôn lanh xảo trá
Trời dành phương nhơn quả trả vay
Phủi tay chẳng kíp thì chầy
Reo cười chưa thỏa xin mày không cơm.

27.- Đành búng rảy ngày đơm tháng giỗ
Nỡ phụ phàng chim Tổ người Tông
Ỷ mình đủ cánh đủ lông
Quên ơn cha mẹ phủi công ông bà....

28.- Tội bất hiếu phui pha đâu có
Chữ vô tư tỏ rõ phải không?
Kiếm đao, địa ngục song song
Đem vào trước dạy vỡ lòng phanh gan.

29.- Chủ lường gạt buôn gian, bán lận
Tớ gian tham lời chận, lỗ thêm
Miếng môi chuốc ngót cho êm
Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.

30.- Phường sâu độc toan phòng ngọt mật
Tánh cưu mang nhử bắt giết ruồi
Mưu sâu gẫm lại than ôi!
Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay.

31.- Ngày chí tối, phô bày nanh vuốt
Sớm cùng trưa, xúi giục kiện thưa
Xiết bao kế lận mưu lừa
Ôm gồm hai phía, đỏng đưa đôi đàng. 

32.- Cậy quyền thế tham quan ô lại
Giả xưng hô quí phái cao môn
Líu lo ba tấc lưỡi giòn
Đã thâu của báu lại bòn đồ xưa.

33.- Giọt thán oán như mưa thấy thảm
Tiếng bi ai dường sấm bên tai
Sống cho vạn ách thiên tai
Thác cho kíp kíp đầu thai bồi thường.

34.- Dối Thần Phật gạt lường tế độ
Phỉnh chúng-sanh tu bổ chùa chiền
Trọng Tăng, kỉnh Phật Thiêng-Liêng
Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.

35.- Nghề đồng cốt khinh khi Tiên Bụt
Nghiệp bóng chàng đàng đột hư vô
Xác ông, xác cậu, xác cô
Dưng chay, cúng mặn tế đồ vớt vong.

36.- Chẳng hiểu chữ: sắc không, không sắc
Chẳng thông câu: không có, có không
Giam vào vô để lao lồng
Chờ ngày Phán-đoán Đại-đồng thế-gian. 

37.- Kẻ bợ đỡ mua quan bán bạn
Tánh nịnh lùa giả dạng cầu thân
Cũng phường mọt nước sâu dân
Phú cho địa ngục trầm luân giam cầm.

38.- Phô những lũ tìm tâm ích kỷ
Khắp các phường tính kế hại người
Hại người mình lại vui cười
Hỏa khanh địa ngục đốt đời chẳng dung.

39.- Răn đệ tử chớ dùng rượu thịt
Khuyên chúng-sanh ráng ít chơi bời
Sắc tài tửu khí hao hơi
Gắng công tu niệm thờ Trời tụng kinh.

40.- Lời Thay phán phải tin phải tưởng
Lời Thầy răn chớ cượng chớ sai
Tu cho rạng tiếng Cao-Đài
Cha hiền, con thảo, trai ngay, gái lành.

41.- Trối những kẻ khinh danh Đạo cả
Thay các phường thóa mạ khi Thầy
Khoe khoang kiêu ngạo đặt bày
Đền xong tội thế đến ngày gặp Ta.

42.- Điều biếng nhác bởi già nghiệp chướng
Tánh trù trì khó hưởng thanh nhàn
Khuyên con giữ dạ bền gan
Lòng lo tu niệm Thiên-đàng mau lên.

43.- Mảng những ước thành Tiên, thành Thánh
Mà quên lo tu tánh, tu tâm
Tu cho bồi đắp thiện căn
Tu cho Trung, Hiếu, Nghĩa, Nhân vẹn tuyền.

44.- Tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ
Tu là cần Phổ-Độ Chúng-sanh
Cầu cho cải dữ về lành
Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.

45.- Tu cho được Thần khâm, Quỷ phục
Tu cho nên thoát tục siêu phàm
Công danh, quyền quý, tước hàm
Mây tan, nước chảy mà ham nỗi gì?

46.- Thế thường nói: tu chi cho nhọc
Để mà lo tước lộc công hầu
Sao không suy trước, nghiệm sau
Tiền căn, hậu quả bởi sao được vầy?

47.- Phân năng bón thì cây mới tốt
Rễ thường tươi thì đọt mới xanh
Muốn cho cả cội sung nhành
Tu-hành lo trước sau đành thảnh thơi.

48.- Thầy thương xót ngùi ngùi kẻ dại
Muốn thành công mà lại ngao du
Phật mang tám nạn cũng tu
Thầy còn muôn kiếp công phu dãi dầu.

49.- Ai dẫu được công hầu khanh tướng
Mà không lo tiếp dưỡng tài bồi
Gốc cây sùng đục đã rồi
Không trông nứt mục nẩy chồi đơm bông.

50.- Tu phước đức bền lòng cho lắm
Tên Quỷ-vương hay nhắm người tu
Mũi tên đã độc lại mau
Ghim nhằm một mũi khó hầu gỡ ra.

51.- Tên nó sắm những là rượu bọt
Tên nó giồi gái tốt vàng ròng
Muôn ngàn tên độc vô cùng
Vương nhằm một mũi thì không còn hồn.

52.- Tu thì chớ bôn chôn nóng nảy
Tu thì cho phải quấy phân minh
Chánh tà chơn ngụy được rành
Phật Trời mới chứng cho mình rằng tu.

53.- Tu cho được Phụ từ, Tử hiếu
Tu cho thành Huynh hữu, Đệ cung
Gái tu Tứ-đức Tam-tùng
Trai tu Nhơn, Nghĩa, Hiếu, Trung làm đầu.

54.- Thế tưởng vậy là tu Nhơn-Đạo
Nào hay rằng Thiên-Đạo bởi đây
Chẳng lo Nhơn-Đạo cho dày
Mong thành Thiên-Đạo mặc may làm gì?

55.- Phật đã dạy "Tam-qui, Ngũ-giới"
Đời chẳng tuân để hại Nguơn-thần
Bởi thương nên mới phân trần
Vì thương nên mới ân cần nhủ khuyên.

56.- MỘT khuyên phải kiền thiền mộ Đạo
HAI tuân lời Tam-Giáo Thánh-Nhơn
Đạo là chí-chánh, chí-chơn
Những lời Thánh-Huấn chạm xương ghi lòng.

57.- BA khuyên nhớ Tổ Tông Công-đức
BỐN lo tu đúng bực cang-thường
Cha sanh Thầy dạy kỷ-cương
Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.

58.- NĂM khuyên nhớ kẻ nông công khó
SÁU xót thương tầm phụ nhọc nhằn
Cày sâu cấy cạn bón phân
Làm nên tơ chỉ trăm phần lao đao.

59.- BẢY liên lạc đồng-bào huynh đệ
TÁM khuyên đừng xua mị quyền môn
Sao cho tiếng ngợi danh đồn
Đáng trang Đạo-đức phải tôn, phải vì.

60.- CHÍN khuyên chớ khinh khi cô quả
MƯỜI khuyên tua hỉ xả lỗi người
Khuyên đừng biết giận hờn ai
Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.

61.- Được vậy mới gọi trang tu tánh
Tánh tu rồi mới được tu tâm
Càng tu càng thấy cao thâm
Càng tu càng thấy sự lầm lạc xưa.

62.- Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp
Đang mau lo bồi đắp cội lành
Như vầy mới gọi tu-hành
Như vầy mới gọi chứng minh Bồ-đề.

63.- Khuyên con phải kiêng dè cho lắm
Mười lời khuyên như tẩm Cam-lồ
Đêm ngày dầu tụng Nam-mô
Mà không noi giữ nhành khô, rễ còi.

64.- Mừng con đặng có mòi tấn phát
Rưới cho con nước mát mùi thơm
Bốn mùa hoa nở trái đơm
Hơi bay bát ngát nhụy tươm ngọt ngào. 

KỆ VIẾT

I. Giáng cơ chỉ rõ máy Kiền Khôn
Ghi chép vài trang sách Thánh-Ngôn
Luân lý cang thường nền cả cội
Nghĩa Nhơn Trung Hiếu vốn sâu nguồn
Thành chơn phước bởi công vô lượng
Đắc-đạo ơn nhờ Đức Chí-Tôn
Khuyên nhủ các con tua gắng chí
Tam-Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.

II. Tiếng bia đồn để ức muôn năm
Khuyên thế đừng tu độc hiểm tâm
Thầm tối mưu gài chông lểu lểu
Cao-xanh lưới bủa dạn tâm tâm
Vô-thường chẳng sợ tay oanh liệt
Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm
Thiện ác đáo đầu vay có trả
Hoàng-Thiên hữu nhãn chắc không lầm.

III. Chắc không lầm lỗi tiếng Mười-khuyên
Thì được tên đề bảng Địa-Tiên
Muốn hưởng lâu dài nền hậu quả
Phải lo bồi đắp cảnh tiền duyên
Làm lành, lánh dữ câu thành ngữ
Tốt đất sung nhành lẽ tự nhiên
Chí dốc siêu phàm nên cõi Thánh
Phải lo vun tưới miếng Tâm-điền.


CÁC CON

Thầy dạy bài Tu-Chơn-Thiệp-Khuyết nầy là chỉ đường ngay, lẽ chánh cho các con đi, nẻo dại, thói tà cho các con sửa.

Trong lúc Thầy truyền Đạo đây thì chư Thần, Tiên ủng hộ theo Thầy, tường-vân che phủ, thoại-khí bao quanh, lại có Văn-Xương Đế-Quân ghi chép vào Kim-Thơ Ngọc-Sách, hầu để vào "Toàn-Kinh Bửu-Viện".

  Ba bài kệ, các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm truyền tụng chớ khá bỏ qua, vì tụng kinh nầy đây thì "Tứ Trị Công Tào Sứ Giả" thảy đều nghe, mà biên chép công quả.

Thầy dạy Bổn-mạng Nguơn-Thần của mỗi con xét coi trong lúc rảnh rang có trau-giồi Đạo-đức như lời Thầy phán chăng? Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.

Lời nào Thầy đã dĩ hơi ra
Vàng ngọc gìn trau chớ bỏ qua
Cung kỉnh ấy là nền Đạo-đức
Kiêu căng vốn thiệt gốc yêu tà.

Nguơn-Thần chiếu mạng người trung chánh
Nghiệp chướng trì chơn đứa xảo ngoa
Đừng tưởng Trời cao mà giả dối
Mắt Thần như chớp khó phui pha.

CÁC CON!!!

Như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi Đạo-lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài “Thiệp-Khuyết” nầy.

Khuyên đời bỏ dữ đặng theo lành
Ấy cũng là điều giúp chúng-sanh
Tiên tục thấp cao lời giác đát
Nên hư chỉ rõ tiếng đành rành
Thiện duyên yếu mối năng thưa thớt
Nghiệp chướng già cây khó rắp ranh
Vững lái êm chèo thuyền tế độ
Đưa người đến bến mựa cành nanh.

Bài Thiệp-Khuyết nầy là bài giáng cơ tại Thánh-Thất Rạch-Giá, đêm 24 tháng 3 năm Canh-Ngũ (22 Avril 1930).

******************

Đầu năm Tân-Vì (1931) Đức Lý-Đại-Tiên giáng đàn tại Mỹ-Tho ra bài “Chánh-Tà Yếu-Lý”.

Bài Thánh-Giáo giáng bút tại nhà ông Nguyễn-Văn-Ca đêm mồng 7 rạng mồng 8, 23 giờ, tháng giêng năm Tân-Vì , trả lời y số đúng ngày mồng một Tết.

LÝ sanh tâm tánh ghét gian hùng
THÁI quá ngày sau khó nỗi dung
BẠCH Ngọc nỡ nào cho có vít
Giảng phân Tà Chánh các ngươi chung.

Nền Đạo hầu nghiêng, thói đời thêm mị
Lớn mưu mưu, nhỏ kế kế
Muốn sao cho chỉ đá hóa vàng
Trên tính tính, dưới bàn bàn
Lo đến đỗi nắn Trời nên vóc
Học không lo học, danh lại cầu danh
Kẻ mê si phờ phỉnh đã đành
Người trí thức dỗ dành đâu được
Cạn mưu túng nước
Đã bán Trời, còn bịa đặt danh quan
Cùng thế bít đàng
Đành giả Phật, đâu kiêng luật Thánh
Đạo toàn chơn chánh
Nghĩa vẹn hiếu trung
Lý nhiệm mầu người muốn suy cùng
Lời u ẩn, lòng tua minh kiến
Máu tham chẳng biến
Đường thẳng chẳng theo
Thấy con đây khí phách biết điều
Đường tà chánh Thầy nên phân giảng. 

Ta vưng lịnh Đức Chí-Tôn cho bài giảng phân: 

9. CHÁNH-TÀ YẾU-LÝ

Nhằm cơn mạt kiếp suy vi
Dị đoan óng dậy, chánh qui gò bằng.

1.- Phe ngoại đạo, tráo căn trộm kiếp
Lũ yêu vương thừa dịp lộng quyền
Kể chi trăm họ đảo điên
Miễn cho toại được ý riêng của mình.

2.- Trên bịa đặt một hình Thượng-Đế
Dưới tóm thâu hiếm kẻ vút nanh
Chước ma kế quỷ sẵn dành
Chờ cơn nước bí, cờ giành vào tay.

3.- Sách đã dạy tôi ngay con thảo
Sách nào cho lòng cáo dạ muông
Khen cho lũ chuột, bầy chồn
Đào hang trổ ngách khoe khôn cậy tài.

4.- Thầy đã mở Cao-Đài Đại-Đạo
Hiệp năm nhành như áo có bâu
Chỉ đàng chơn chánh cao sâu
Dắt đường yếu lý, nhiệm mầu nên theo.

5.- Hột giống tốt cùng gieo rải rác
Nhưng chỗ vầy, chỗ khác không đồng
Cũng vì tại ở nơi lòng
Người ham Chơn-Lý, kẻ mong giành quyền.

6.- Quyền tính chước tuyên truyền trần thuyết
tìm đường tịch diệt hư vô
Chánh tà chơn ngụy lưỡng đồ
Xem trong hai lẽ mà đo mà lường.

7.- Quyền ngày tính thiên phương vạn kế
Lo sao cho mờ kẻ thấp hèn
Buôn Trời, bán Phật chẳng kiêng
Chẳng Thần, chẳng Thánh, chẳng Tiên, chẳng phàm.

8.- Lý  thì xét tam tam tiền hậu
Ngoài vòng Trời còn giấu lẽ chi
Nào là huyền diệu ẩn vi
Xanh kia dính với mình ni lẽ nào.

9.- Quyền chẳng kể ồn ào hỗn tạp
Miễn sao cho kẻ nạp người dưng
Tờ kia giấy nọ tưng bừng
Nhiều ra rồi lại không ăn không nhầm.

10.- Trái hẳn với kẻ tầm Chơn Lý
Một mối tìm một tí không sai
Đường ngay có một không hai
Đường ngay từ thuở Thiên khai đến giờ.

11.- Đây Ta chỉ sơ sơ một ít
Đặng biết chừng mục đích mà phăng
Đạo là phẳng lặng trang bằng
Dường như gió tạnh Trời trăng đêm rằm.

12.- Tây-Trúc dạy "Minh tâm kiến tánh"
Hàm-Quan khuyên: "Luyện tánh tu tâm"
Lỗ-Đông "Dưỡng tánh tồn tâm"
Gia-Tô "Thượng-Đế tại tâm" chẳng rời.

13.- Tứ-Đại-Thánh một lời chẳng khác
Khác tại người xiêu lạc cải canh
Đường ngay chẳng thạo đã đành
Tâm sanh chưởng chưởng, ma sanh khó gì.

14.- Tìm Đại-Đạo phải suy cho lắm
Luyện Chơn-nguơn phải gẫm cho cùng
Con người chẳng sót mảy lông
Tịnh tâm mình mới khỏi mong xiêu vời.

15.- Người muốn rõ Đạo Trời huyền diệu
Thì phải lo chánh yếu mà tìm
Lo chi mảng tải huỳnh-kim
Dựng lầu, xây các cho bìm sắn leo.

16.- Cuộc giả dối tinh yêu ma quỷ
Tiếng bọt bèo thô bỉ vụn vằng
Đạo là chí chánh, chí chân
Người sao bể dạ cầm cân lo lường.

17.- Thầy hết dạ yêu thương con dại
Thầy hết lòng hoài đoái trẻ ngây
Khắp cùng Nam, Bắc, Đông, Tây
Nơi nào Thầy cũng giáng bày lẽ chơn.

18.- Thầy nhìn biết con hơn vàng bạc
Nơi nơi đều con lạc của Thầy
Khen ai lớn mật dạn tay
Rằng: Thầy bỏ đó nhìn đây cho đành.

19.- Cũng vì bởi đồ danh trục lợi
Mới xui nên khinh ngỡi trọng tài
Cốt đồng che lấp mắt ai
Cốt đồng che đặng mắt Trời mảy ru?

20.- Khuyên lớn nhỏ muốn tu thành Phật
Đừng cưu lòng đố tật hiền lương
Ghen tương, kiêu ngạo, khoe khoang
Tham lam, giả dối, đừng mang vào mình.

21.- Trời lộng lộng, thinh thinh, lẩm rẩm
Đạo vơi vơi, thẳm thẳm, minh mang
Muốn cho thông suốt mọi đàng
Bền lòng kiên nhẫn chắc gan thử rèn.

22.- Thương những kẻ giá hèn như rác
Lại làm trò thượng đạt thiện tâm
Cơ thâm thì họa diệt thâm
Mình làm mình chịu, dễ lầm người sao?

23.- Thân dốt nát mà bao lốt Thánh
Óc ngu si lại lãnh vai Thần
Bò vàng gắn điếu làm lân
Dở dang lưu thủy, phân vân phụng hoàng.

24.- Muốn hành Đạo, lòng gian phải dẹp
Muốn người theo, tiếng mép phải chừa
Đừng lòng kẻ ghét, người ưa
Đừng ham tiếng bẩm, lời thưa với mình.

25.- Mình muốn được rõ minh chánh lý
Ta với Người một thế với nhau
Có đâu đem dạ cơ cầu
Ngăn đường lấp ngõ đặng thâu giả quyền.

26.- Biết lẽ phải thì kiêng mới phải
Nghe điều hay thì lại mới hay
Khuyên đừng ỷ thế cậy tài
Thấy điều trái ý thì bài bác ra.

27.- Đành chẳng quản gần xa thô bỉ
Thiệt không màng miệng thế đồn vang
Khéo làm như bọn mua giàn
Mượn màu son phấn khoe giàn kiếm ăn.

28.- Tua ung đúc tinh-thần phát triển
Khá giữ gìn điển tuyến quang minh
Mấy tầng đồ sộ cao xanh
Đương liền như lưới với mình mình đây.

29.- Mình sung điển như cây sung tược
Tược tốt tươi nhờ nước mát êm
Bông hoa ngày nảy nở thêm
Lá sum sê phủ, nhánh dìm già đơm.

30.- Thần nuôi Đạo như cơm nuôi vóc
Đạo nuôi Thần như lộc nuôi thân
Thần mà tinh khiết muôn phần
Càng vui càng vẻ Đạo càng được khen.

Câu chuyện còn dài, song “Chơn-Tâm” đã không hứng chịu cái điển quang lâu đặng. Ta cậy tay “Tường-Khánh” mà tiếp bút. Muốn cho đủ bài giảng phân Chánh Tà Yếu Lý thì do nơi Kiên-Giang.

Tới đây xin bế mạc.

Thầy có bảo Ta trao hai bức thơ cho CA nhớ trao lại cho T...và V...

NGỌC quang Đạo Mão ưỡng y thường.
HOÀNG Điện trang nghiêm dụng biểu chương
THƯỢNG đạt vĩ nhơn vô hậu cố
ĐẾ hoài chiếu giám nhĩ tâm trường.

Ấy là bức thơ cho Nguyễn T... Đây là bức thơ cho Nguyễn V...

NGỌC thế thu hào bút dĩ hao
HOÀNG ân cổ vọng nhĩ đồng bào
THƯỢNG thương phúc tải vô tinh xả
ĐẾ bộ vân tiêu nhứt võ mao.


CA, Ta cho ngươi một bài kệ, cứ theo mà hành động, lo chỉ Đạo không mở mang theo Chơn-lý.

Khá khá song còn thiếu cánh vây
Bài dài sao chẳng thốt cho hay
Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng
Kinh địa trao lời rạng vẻ mây.

******************

KIÊN-GIANG

Giáng bút đêm mồng 7 rạng mồng 8 tháng giêng năm Tân-Vì (1931), 24 giờ tại Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá).

ĐỒNG-TỬ “TƯỜNG-KHÁNH”

LÝ suy xét rộng khắp năm châu
BẠCH sắc kim liên chứng Đạo-mầu
GIÁO giáng chúng-sanh tầm chánh giác
TÔNG kinh diệu phẩm nghĩa cao sâu.

Đồng-Tử “Chơn-Tâm” vì còn nhỏ (16 tuổi) xứ lạ phần mệt mỏi, nên không thế nào chịu hứng điển quang của Ta, bởi vậy Ta truyền điển sang cho “Tường-Khánh” đặng cho tiếp bài phân giải Chánh-Tà Yếu-Lý của Ta cho trọn. 

Ta có cho bài thi ngụ ngôn mà chúng nó không hiểu, các ngươi hãy kiếm mà giải.

Khá khá song còn thiếu cánh vây
Bài dài sao chẳng thốt cho hay
Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng
Kinh địa trao lời rạng vẻ mây.

Ta cho nối bài phân giải Chánh-Tà Yếu-Lý:

 

31.- Đừng làm cách đê hèn khiếp nhược
Mắt lim dim giả chước truyền thần
Mơ màng bể ái nguồn ân
Thay lê tráo lý, rộn xăng vụng về.

32.- Người muốn thoát bến mê bể khổ
Trông cậy Thầy chỉ chỗ dẫn đường
Thầy mừng hết dạ yêu thương
Đèn soi đêm tối, lửa hường đêm đông.

33.- Đâu mượn tiếng đem lòng xảo quyệt
Giả danh Thầy chẳng biết tới ai
Thầy nhìn con cả gái trai
Côn trùng, điểu thú, căn cai cũng nhìn.

34.- Đạo bổn thể hư linh bất mậu
Vận Nguơn-Thần xung thấu tam quan
Giao thông trên dưới huyền-hoàng
Bốn phương tám hướng dọc ngang không cùng.

35.- Khi phóng xuất mãn xung võ trụ
Lúc bế tàn thối ngụ nơi tâm
Nguơn-Thần thận-độc phương-châm
Chân đi giá mỏng, tay cầm lưu ly.

36.- Mắt chưa thấy hào ly Thiên-Đạo
Tai chưa nghe bán trảo thần phù
Cống hò xê liếu rằng tu
Đứa đui lại dắt thằng mù đi đêm.

37.- Khinh phép nước bày điềm mị mộng
Mượn danh Thầy muốn lộng quyền cao
Đất bằng lại nổi ba đào
Chẳng thương xót đến đồng-bào chúng-sanh.

38.- Nguồn Đạo mở trong xanh như suối
Luật Đạo ban phao nổi như cồn
Trách ai đem Đạo đi chôn
Đóng vai diễn lớp giống tuồng cải lương.

39.- Người giữ phép dẫn đường vi phép
Kẻ phi quan mở dịp giả quan
Học đòi theo thể bóng chàng
Mượn Thầy đặng lập một đoàn đi buôn.

40.- Đạo là Đạo, như khuôn đã đúc
Trời là Trời, tà khúc chẳng dung
Dầu ai sai lạc đến cùng
Cải tà qui chánh còn trông ơn Thầy.

41.- Thầy quảng đại cao dày sông biển
Con lỗi lầm lười biếng dại khờ
Thương con nên chỉ huyền-cơ
Cho con biết bến, biết bờ mà theo.

42.- Thần Đạo học vừa gieo tánh mạng
Luyện Linh-hồn vượt khoảng tầng mây
Hồn con là ngọc của Thầy
Hồn con báu lạ xưa nay còn hoài.

43.- Thân thể với hình hài vật chất
Co giác hồn ba bực tùy thân
Thần-Hồn khôn dại không chừng
Theo màu thuốc nhuộm, theo lằn sóng đưa.

44.- Noi chánh lý ngăn ngừa nẻo dại
Chính Anh-Hồn phải quấy phân minh
Hễ người cốt cách được thanh
Thần-Hồn ít lúc cải canh Anh-Hồn.

45.- Kẻ tiền kiếp đeo còn nghiệp cốt
Nặng nhẹ mang những lốt thú cầm
Thần-Hồn nhiều ít dã tâm
Anh-Hồn khó nổi việc chăm nom liền.

46.- Linh-Hồn vốn Thiêng-liêng huợt bác
Chính là Ngôi Bổn-Giác Thầy ban
Gìn cho trong sạch hoàn toàn
Thần dày Đạo-đức, Linh càng phẩm cao.

47.- Giữ trong sạch đừng hao Tinh Khí
Nguơn-Thần đừng đắm lụy trần ai
Trong ngần chẳng chút lợt phai
Có ngày chơn bước đến đài Cao-xanh.

48.- Phải ráng nhớ trong mình sẵn đủ
Tánh Linh Thay ban phú từ xưa
Trăm điều vật dục phải chừa
Đừng tham danh lợi, chớ ưa sang giàu.

49.- Chữ chí thiện là đầu trăm việc
Lẽ chánh tà phải quyết chớ từ
Thấy điều gian trá thì trừ
Đừng cho mình vấy tiếng hư theo người.

KỆ RẰNG:

Đạo Thầy chánh đại lại quang minh
Đâu phải tuồng như kẻ thế tình
Khuyên khắp chúng-sanh mau tỉnh giấc
Đài Cao cửa rộng mở thinh thinh.

******************

10. NHỊ-THẬP THỦ LIÊN-HUỜN

NGỌC ngà châu báu của Trời ban
HOÀNG cảnh sao xem thấy nhộn nhàng
THƯỢNG phẩm cung tường ai dễ thấu
ĐẾ quyền đâu sái mảy trần-gian.

I. Các con lớn nhỏ thấy càng thương
Lắc lở gần đi muốn lạc đường
Tin cậy lời ma sao sốt sắng
Ước ao kinh Thánh lại lương khương
Gương trong chớ để chi phơ phất
Tơ trắng đừng cho chút vấn vương
Một mảy lòng sai mau sửa lỗi
Đừng cho trần khí nhiễm đàng tràng.

II. Đàng tràng cao thượng mới vừa yên
Còn muốn mang lời với Tán-Tiên
Pháp chuyển sanh điều may khỏi dữ
Ma cơ viện cớ ắt không hiền
Chanh ranh bánh trước đà lăn úp
Chợp rợp xe sau đợm ngửa nghiêng
Công việc muốn làm, làm chẳng hỏi
Khen cho mãi mãi để Thầy phiền.

III. Thầy phiền nào có ích chi đâu?
Vụng tính không ngừa việc trước sau
Thấy vậy chẳng răn thêm luốt lát
Bởi thương ít phạt lại lau chau
Từ đây qui luật thêm nghiêm nhặt
Mãi tới chương trình cứ sửa trau
Chánh quả được thành cho giáng bút
Cấm đừng kẻ khẩn lại người cầu.

IV. Khẩn cầu có ai chứng cho đây
Khéo sắm nề cho quỷ phá chay
Ruộng sẵn tiền dư toan phí của
Mưa sa, nước ngập khó gieo cày
Năm lừa, bảy lọc vừa mừng đấy
Một lỡ, hai lầm gẫm xót thay
Có chút lòng thành tua gắng sức
Chớ sa nẻo dại, bỏ đường ngay.

V. Đường ngay kỉnh Phật với thờ Trời
Chớ thấy thương rồi lại dễ ngươi
Một dạ thành tâm quên gắn bó
Trăm điều ma quỷ giục tơi bời
Gai chông án mặt tua ruồng bỏ
Đạo-đức gìn lòng mới thảnh thơi
Có chí thì nên lâu phải được
Bồng-lai, Nhược-thủy sức đua bơi.

VI. Đua bơi chi cái thú yêu tà?
Nước trí non nhơn sẵn vốn Ta
Kinh kệ sân vàng, vòng Thái-Ất
Móc mưa bụi đỏ báu Di-Đà
Trăng trong, gió mát nào eo hẹp
Cội cả, nguồn sâu chớ bỏ qua
Tam-giáo dạy ròng lòng tín ngưỡng
Có đâu Phật Phật lại ma ma!

VII. Phật ma, ma Phật chẻ lòng tin
Yêu quái chiều theo sửa tánh tình
Đạo hạnh nếu không già pháp tướng
Nguơn-thần hằng phải loạn danh thinh
Bồ-đoàn sớm tối tiêu tiền nghiệt
Bửu-tọa hôm mai giác hậu sinh
Khờ dại đáng thương, thương mới dạy
Đố ai lấp được mắt Thần-minh.

VIII. Thần-minh bất vị thói gian hùng
Lánh hé ngờ qua luật Chí-Công
Ẩn bóng Tam-Kỳ tuồng Đạo-đức
Bia danh Thượng-Đế bộ thung dung
Chữa mình mượn tiếng đời ân xá
Phỉnh chúng lầm đường tội bất dung
Lộng lộng lưới thưa đâu dễ lọt
Để cho đứa nịnh nhuộm màu trung.

IX. Trung thành cang trực chẳng vơ quàn
Mới được danh đồn tiếng dậy vang
Mạch nước báu dân lòng sắt đá
Cửa chùa mối Đạo dạ son vàng
Tu thì chỉ nẻo khuyên đem lối
Công-quả tìm phương khá dẫn đàng
Sau trước một lòng bồi cội phước
Thi ân đùm bọc đứa cơ hàn.

X. Cơ hàn vấn vít đứa hàn vi
Đời có từ tâm phải nghĩ suy
Bố thí nét sơn bia Ngọc-bảng
Quả công sớ trắng tấu đơn trì
Dẫu rằng dưới thế không hay đó!
Chớ tưởng trên Trời chẳng biết chi
Nếu thấp phải bồi, bồi mới vững
Ráng lo Công-quả thất Tam-Kỳ.


Cao-Thiên-Đàn Kiên-Giang, đêm 28-7 Canh-Ngũ

TÂY cảnh gìn lòng độ chúng-sinh
PHƯƠNG nào cũng độ khắp U-minh
THÍCH môn huệ tánh giồi tâm tướng
CA giáo hư vô luyện tánh linh
CHỨNG cấp huyền cơ ban Nữ-phái
MINH mông Ngọc-sắc hội Tiên danh
THỂ vân xá lợi đồng vui hướng
LIÊNG cáo cung Quỳnh bước rộng thinh.


Thượng ỷ chứng đàn cho:

THỂ sắc không không hữu bất không
LIÊNG hoa vạn đóa hiện vu trung
TIÊN đơn ký đắc minh tâm tánh
NỮ nữ nam nam, tánh diệc đồng.


11. GIẢI THUYẾT ĐẠO PHẬT

1.- Tây-Phương Giáo-Chủ Thích-Ca
Giảng minh thuyết pháp Thiên-Hoa Liên-Đài
Hằng sa số Phật hôm mai
Nhứt tâm qui hướng Như-Lai phước điền.

2.- Có câu Phật độ hữu duyên
Khuyên ai ráng giữ Bổn-nguyên của mình
Nhơn sanh vạn vật tối linh
Tiền nhơn, hậu quả như hình rọi gương.

3.- Phật-Ca hạ giáng Tây-Phương
Xả thân cầu Đạo, bởi thương loài người
Thương vì sanh-chúng giữa đời
Sánh cùng Thiên Địa, xứng ngôi Tam-tài.

4.- Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài
Có đâu già yếu, hôm mai tật nguyền
Đến cơn bịnh khổ triền miên
Thác rồi hết kiếp, đảo điên trăm bề.

5.- SANH rồi lại BỊNH làm chi
LÃO rồi lại TỬ thảm thê vô cùng
Nghĩ suy chi xiết não nùng
Tuyết sơn tu luyện, dày công được thành.

6.- Quyết lòng độ khắp chúng-sanh
Niết-bàn diệu quả, chứng minh Bồ-đề
Rèn lòng nguyện lực Đại-bi
Vô thượng chánh-giác, kiếp thì viên minh.

7.- Đạo Phật càng gẫm càng kinh
Bất sinh bất diệt minh minh muôn ngàn
Đại-Thiên thế-giái mang mang
Vô biên vô lượng, thanh nhàn trang nghiêm.

8.- Sắc không, không sắc nan chiêm
Vô ảnh, vô lượng cổ kim diệu huyền
Tầm lưu nhứt đán đắc nguyên
Diệu trung chi diệu, hiển nhiên phi phàm.

9.- Bình tâm, dưỡng tánh cho kham
Tu lai cải vãng, chớ ham vọng cầu
Trong mình sẵn ngọc Minh-châu
Trong mình sẵn Phật phải đâu mà tìm.

10.- Trăng trong gió lặng nước êm
Gay chèo Bát-nhã, khoát rèm Chơn-như
Lần lần do bến Không-hư
Nọ bờ Cực-lạc, kìa bờ phi phi.

11.- Vượt qua Bát-chánh Đạo chi
Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền
Trải sang vô sắc Trùng-Thiên
Linh-sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.

12.- Mấy ai rõ thấu Đạo-mầu
Thông, Hành, Thể, Dụng, nguyên lưu Di-Đà
Dám rằng Đạo Ấn, Đạo Chà
Khinh rằng quái đản, gọi là dị đoan.

13.- Bắc Nam cũng một con đàng
Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay?
Rừng xanh đố biết mấy cây
Đáy sông mấy lớp, cung mây mấy tầng?

14.- Đất sao chỗ nổng, chỗ bằng
Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao?
Trên Trời đố mấy ngôi sao
Biển nọ ai đào, núi nọ ai xây?

15.- Loài người ai tạo ra đây
Thế gian ai sắm, ai bày thuở nao?
U ơ dường thể chiêm bao
Đáy sông lặn nhào, mò vớt bóng trăng.

16.- Khoe khoe, nói nói, rằng rằng
Sức người trí thức thắng phần thiêng-liêng
Lại chê báu vật mọn hèn
Cà sa, tích trượng, hóa duyên vô cùng.

17.- Hiển vi mà rọi trên không
Khác nào nhắm mắt, lặn sông bòn vàng
Thước đo mà hiểu Dinh-hoàn
Khác nào bầy kiến mò đàng Tu-Di.

18.- Con người chưa thấy sự gì
Lường trời, đong đất, phân bì nhọc công
Ngũ-hành sanh khắc vừa thông
Tưởng đâu đoạt hết Hóa-Công mấy lò.

19.- Ba ngàn thế-giái Diêm-phù
Mới vừa vừa biết, năm châu mơ màng
Còn ngoài ngoài nữa mênh mông
Đại thiên thế-giái, muôn ngàn Kiền Khôn.

20.- Một mình đức Phật Chí-Tôn
Trong ngoài hiểu thấu, chẳng còn sót chi
Vị lai quá khứ hiện thì
Giải phân kinh luật u vi rẽ ròi.

21.- Trần sa bể khổ em ôi!
Phải độ mình rồi đặng độ chúng-sanh
Đến ngày đắc quả Đạo thành
Siêu thăng Thất-Tổ, độ thanh Cửu-Huyền.

22.- Muốn cho công quả vẹn tuyền
Rửa xong nghiệp-chướng, tập rèn Chơn-công
Ngụy tà phiền não không không
Tam thân siêu chứng, Lục-thông có ngày.

23.- Ở ăn mực thẳng đường ngay
Cang-thường mựa chớ đổi thay tấm lòng
Khắp trong Tam-giáo Đạo đồng
Gái mà tiết hạnh, thỉ-chung trọn đời.

24.- Xử xong cho trọn đạo người
Nhơn duyên viên giác, Phật Trời chứng cho
Có người gạt gẫm kẻ ngu
Rằng thân phận gái dẫu tu không thành.

25.- Một là thân phận hôi tanh
Hai là vì bởi số sanh kiếp đày
Ba vì lòng độc hiểm nguy
Bốn là giống để làm tay chơn người.

26.- Năm là yếu đuối biếng lười
Sáu là giống để nối dòng người dưng
Bảy là thân phận chiếu chăn
Tám là phận phải kẻ chăn, người cầm.

27.- Chín là dốt nát tối tăm
Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình
Dầu cho vững chí tu-hành
Là tu hậu kiếp, nguyện thành Nam-nhi.

28.- Nực cười cho kẻ ngu si
Đặt điều lời nói không vì, không kiêng
Rõ ràng kinh luật có biên
Hàm-linh Xuẩn-động hữu duyên năng thành.

29.- Huống chi gái cũng chúng-sanh
Phật là Từ-mẫu nỡ đành chẳng thương
Giải cho em đặng tỏ tường
Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.

30.- Dầu cho Nam-tử, Nữ-nhi
Ấy là sắc tướng của bề Hóa-Công
Phật là chuyên trọng Tánh-tông
Tánh-tông vô tướng, vô dung, vô hình.

31.- Nguơn nguơn, hóa hóa, sinh sinh
Bổn lai sẵn có nguơn Tinh, Khí, Thần
Gọi là Tam-bảo chi thân
Người tua trân trọng, muôn phần chớ lơi.

32.- Còn phần Nam Nữ vóc người
Ấy là xác thịt của người phàm gian
Tu cho đến cõi Niết-bàn
Siêu phàm nhập Thánh hoàn toàn Chơn-thân.

33.- Xác phàm gởi lại hồng trần
Chơn-thân, Tam-bửu về phăng Liên-Đài
Phật không phân biệt gái trai
Hễ là đắc quả, thì ai cũng đồng.

34.- Kìa như điểu thú, côn trùng
Chí tâm mộ Phật, thỉ chung-cũng thành
Giải cho em rõ ngọn nhành
Ráng lo ăn học, tu-hành cho nên.

35.- Còn nhiều nghĩa lý hiển nhiên
Đoạn sau Chị sẽ giảng riêng từ phần
Tu-hành em ráng ân cần
Có thân thì phải giữ thân làm đầu.

Thể-Liêng Tiên-Nữ.


Kiên-Giang, ngày 22 Septembre 1930 

THÁI thỉ gầy nên cuộc Hóa-Công
THƯỢNG thương ly hận luyện đơn cung
ĐẠO Tiên hiển hích điềm linh ứng
TỔ Thanh roi truyền sự cảm thông
CHỨNG kiến quang minh cần Phổ-Độ
ĐÀN tràng giảng giải ý chơn tông
THỂ gương bửu kính cho đời hiểu
LIÊNG tọa đài xây khắp Đại-đồng.


Thượng ỷ chứng đàn cho:

THỂ đồng Thiên Địa diệu vô cùng
LIÊNG dẫn hương hề nguyệt dẫn phong
TIÊN giác thệ tâm khai hậu giác
NỮ ban tùng thứ bộ chơn tông.


12. GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO

1.- Kiền Khôn thế-giới một bầu
Lão-Quân Đạo-Tổ cung Đâu giáo truyền
Đạo nguyên Tiên Hậu nhị Thiên
Làm đầu vạn Thánh quần Tiên trên Trời.

2.- Kể từ khai tịch dĩ lai
Giáng sanh hóa đạo, chẳng nài công phu
Hư không dường thể bóng thu
Bí truyền tánh mạng song tu Huyền-hoàng.

3.- Người tu định nhiếp Âm Dương
Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh minh
Tuy vân: tích khí thành hình
Âm Dương nhị khí, khinh thanh thượng phù.

4.- Trọng trược ngưng hóa Địa-cầu
Bắc Nam Thiên-Trục, Thiên-Xu chẳng dừng
Ngày đêm Nhựt Nguyệt tinh thần
Sanh nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.

5.- Gọi là một cõi thế-gian
Ngoài đây còn có ba ngàn minh mông
Đạo thông Thiên Địa vô cùng
Diệu truyền yếu chỉ Hóa-Công dạy đời.

6.- Chỉnh xem ý vị của Trời
Lặng trang êm phẳng, không hơi không rằng
Chơn không Thủy Hỏa đôi vừng
Chuyển luân Nhựt Nguyệt lưu từng ngày đêm.

7.- Hằng sa Tinh Tú thuộc Kim
Như Châu, như Ngọc để ghim nửa lừng
Gió giông thay đổi Hồng-quân
Ấy là Chơn-Mộc choán phần không trung.

8.- Chuyển gầm sấm sét đùng đùng
Ấy là Chơn-Thổ vẫy vùng Thiên-oai
Ngũ-hành ấy thuộc phần Trời
Còn phần dưới đất, thì người đều thông.

9.- Con người sanh ở giữa vòng
Đủ trời, đủ đất ở trong thân mình
Ngũ-hành còn phải chia rành
Âm Dương Thiên Địa, hình danh thể nào.

10.- Y gia đã có công cao
Chia hai tạng phủ, trỏ vào âm dương
Dùng công Tạo-Hóa đặng lường
Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn âm.

11.- Hiên, Kỳ mối đạo cao thâm
Người chưa hiểu thấu, nên lầm nên sai
Ngũ-hành phải biết có hai
Có hình thuộc Đất, ở Trời thì không.

12.- Nhơn thân là Tiểu Kiền Khôn
Khinh thanh, trọng trược hiệp thành hóa sanh
Tạng, phủ là âm Ngũ-hành
Còn dương ngũ khí lưu hành châu thân.

13.- Học đạo càng phải biện phân
Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu
Phóng tâm âu phải ráng thâu
Thâu tâm định tánh, đặng cầu Thiên-chơn.

14.- Tai nghe hóa giận, hóa thương
Ấy là Thiên-Thủy dẫn đường nơi trong
Bắt mùi hoặc thích hoặc không
Thiên-Kim nơi mũi, hơi lồng thấu tim.

15.- Miếng ngon hoặc nhớ hoặc thèm
Lưỡi là Thiên-Hỏa chiếp đem vào lòng
Sắc nào ưa đẹp muốn trong
Ấy là Thiên-Mộc, tại tròng con ngươi.

16.- Vật dục che lấp lòng Trời
Ấy là Thiên-Thổ, ý người ham mê
Nhãn nhĩ tỉ thiệt ráng dè
Đều quan tâm ý, thiệt là chơn tu.

17.- Ngũ-hành Thiên Địa mù mù
Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa
Âm Dương nhị khí của ta
Đục trong phân biệt, điều hòa Chơn-như.

18.- Gìn lòng thanh tịnh Không-hư
Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ
Lòng đừng vọng tưởng ước mơ
Ý tua định tóm, chơn cơ hoàn toàn.

19.- Hãy xem võ trụ Dinh-hoàn
Đều đồ hư mục, chớ màng chớ mê
Tục rằng: sống gửi thác về
Thần Tiên bất lão, có hề chi đâu!

20.- Dẹp xong Ngũ-tặc làm đầu
Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành
Tam-quang rọi thấu Nguơn-thần
Tam-thân hiệp nhứt chơn nhơn công thành.

21.- Ấy là đến bực trường sanh
Còn muốn thân hình bạch nhựt siêu thăng
Phải lo bồi đắp Bổn-căn
Thiên-Kim diệu lý sẽ phân có ngày.

22.- Nhứt tâm tín ngưỡng tới Thầy
Lời rằng: Tao đố không Thầy mầy nên
Các em sốt sắng cho bền
Muốn cho nhà cửa vách phên vững vàng.

23.- Phải lo bồi đắp cho an
Có kinh Cảm Ứng chỉ đàng tu thân
Mới đây "Thiệp-Quyết Tu-Chơn"
Của Thầy ban bố, công ơn vô ngằn.

24.- Có phước nên mới có phần
Có đâu nghe được lời trân trọng nầy
Huỳnh-Đình tu luyện đêm ngày
Tu tâm, dưỡng tánh sánh tài Hóa-Công.

25.- Kiếp đời cá chậu chim lồng
Trăm điều giả dối, có thung dung gì!
Trời kia mà giả mới kỳ
Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.

26.- Đất sao chỗ lở, chỗ bồi
Cũng la giả cuộc, có đời chi đâu!
Người đời lúc mạnh, lúc đau
Hoặc còn, hoặc chết chiêm bao làm tuồng.

27.- Vì chưng Ngũ-tặc loạn chơn
Tâm thần chẳng tịnh, nên vương lưới trần
Âm Dương Đạo-đức sáng trưng
Dùng gương vô kiệt, luyện thần Hư-vô.

28.- Phải phân tà chánh lưỡng đồ
Bàn môn tả đạo, ai khờ phải mang
Nghĩ coi cũng một con đàng
Nó chia Nam Bắc, rộn ràng lăng xăng.

29.- Điền Ly bổ Khảm tưng bừng
Thiêu đơn, luyện hống, nhố-nhăng mơ hồ
Đường ngay em cứ bước vô
Lâu ngày tà giáo làm trò gì nên.

30.- Ráng nghe lời Chị dạy khuyên
Có ngày cũng được bạn Tiên cung Trời
Pháp ngôn sơ dẫn ít lời
Huyền gia bửu pháp, nhiều lời dạy sau.

Thể-Liêng Tiên-Nữ.


Kiên-Giang, đêm 7 tháng 1 Annam (Tân-Vì)

CHÍ đức hóa thương sanh
THÁNH mô tập đại thành