1. TIỂU-DẪN

Đời mạt kiếp, người lành ít lắm, kẻ dữ quá đông, nên Trời phải hạ trần mở Đại-Đạo, để hiệu Tam-Kỳ Phổ-Độ hay là đại ân xá Kỳ-Ba, đặng cứu thế tránh khỏi cái nạn Ngũ-Lôi tiêu diệt Linh-Hồn.

Ai là người biết trọng phần hồn, biết nhìn Trời là Cha Thiêng-Liêng, xin hãy ráng mà trở về với Đạo đặng giúp Trời hành Đạo lập Công-quả cho trọn thỉ chung thì mới trông mong được đại ân xá.

Kể từ năm Bính-Dần (1926) Trời khai Đạo tại Tây-Ninh đến năm nay là Đinh-Hợi (1947), tính ra được 22 năm.

Trong thời gian ấy Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có ẩn ba Tiểu-thời:

1) Đệ-nhứt Tiểu-thời kể từ Bính-Dần (1926) cho đến tới năm Tân-Vì (Mùi) (1931).
2) Đệ-nhị Tiểu-thời kể từ Nhâm-Thân (1932) cho tới Đinh-Sửu (1937).
3) Đệ-tam Tiểu-thời kể từ năm Mậu-Dần (1938) cho tới Đinh-Hợi (1947).

Hai Tiểu-thời trước là 6 năm ấy là đều lậu Thiên-cơ của Đạo-Cô cho biết năm 1934, rồi Ngài nói rằng: Đệ-nhất Tiểu-thời Đức Chí-Tôn đã thâu dụng chức sắc nhiều rồi, nên ngày nay phải gạn bỏ bớt những người phá Đạo với phá Thầy đặng đem qua Đệ-nhị Tiểu-thời.

Trong thời nầy chức sắc được chấm đậu rồi hay là gần chấm đậu còn phải lừa lọc lại một cách vô hình đặng đem qua Đệ-tam Tiểu-thời, tới đây Ngài lại than hai chữ “thương thay, thương thay”, và Ngài than rằng: nếu không có ai được chấm đậu thì Đức Chí-Tôn chuyển Đạo nơi khác.

Còn Tiểu-thời chót thì Trời định 10 năm, lúc đầu năm Mậu-Dần (1938).

Tới đây là cơ thưởng lành phạt dữ, tồn vong kêu là Đại-Thành Đại-Kiếp, cũng kêu là Đại-đồng Phán-đoán.

Qua 15 tháng 12 năm Giáp-Thân (1944) trước khi cúng Tứ-Thời thì có lịnh Thầy dạy đánh chuông rồi đọc bài kệ nầy:

CHƯỞNG quyền thưởng phạt thay Trời
GIÁO truyền Đại-Đạo độ người trầm luân
THIÊN-Điều mắc mỏ muôn phần
TÔN đường Chơn-Lý gặp xuân tư mùa.

Nên kể từ đây Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn cầm quyền thưởng phạt cho Đức Chí-Tôn.

Bởi vậy cho nên tôi soạn đại khái Chơn-truyền của Thầy và Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn chép ra sau nầy cho anh em, chị em trong Hội-Thánh hiểu rõ chung thỉ của Đại-Đạo.

Trong một quyển 600 trương (trang) tôi không thể chép hết lời Châu Ngọc của Ơn-trên nên tôi thâu lại các lời đại khái mà thôi, còn các bài khác thì tôi biên cái Thánh-tựa, số và trương, Đuốc-Chơn-Lý đặng chư Quí-vị dò theo mà tầm ra.

Số Đuốc-Chơn-Lý Hội-Thánh in tới ngày nay có 4 năm là năm Mậu-Dần cho tới năm Tân-Tỵ.

Còn từ năm Nhâm-Ngọ tới năm Đinh-Hợi, Hội-Thánh in không kịp kế Tòa-Thánh bị cháy tiêu hết.

Nhiều người thấy làm lạ, hỏi tại sao cuộc của Thầy lập đồ sộ như Tòa-Thánh Định-Tường hãy còn bị hỏa hoạn và phá tán năm bảy phần không còn một phần mười; số là năm Ất-Dậu (1945) Đức Tam-Tôn Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài, Ngài ngồi định-tâm Thầy có cho ra chữ “TIÊU” nên qua tháng 9 thì Tòa-Thánh bị cháy một lần thứ nhứt hết phân nửa, qua năm 1946 Hội-Thánh tu bổ lại tốn hao rất nhiều, rồi qua năm 1947 bị đốt lần thứ nhì tiêu hết không còn chỗ thờ phượng hương khói nữa.

Đó là Luật Công-bình của Tạo-Hóa, vậy xin trong Đạo đừng trầm trồ mà phải mang tội với Trời.

Đức Gia-Tô chịu đổ máu mà chuộc tội cho loài người mà còn bị đóng đinh trên cây Thập-ác thay.

Ấy là mấy lời nói đầu vắn tắt và thấp thỏi của tôi, xin chư Quí-vị độc giả biết cho tôi là kẻ ra công soạn và lựa các lời Chơn-truyền của Trời, Phật giáng trần Phổ-độ chúng-sanh.


Xin chư quý vị biết cho
Trời Đại Ân-xá
NGUYỄN-VĂN-CA
Thánh danh: BỬU-AN-THIÊN
Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài

Mỹ-Tho, ngày 17 tháng 12 Annam 1948

CAO ĐÀI NHỨT NIÊN

******************

PHẦN I

ĐỆ NHỨT TIỂU THỜI KỲ

2. HỌA ĐỒ TÒA-THÁNH TÂY-NINH