THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN

QUYỂN III


CƠ VẬN CHUYỂN CỦA TRỜI

1. Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới

Ngày 22 tháng 2 annam 1938 (7 giờ tối)

-----o0o-----

Ớ nầy các con, ráng nghe Thầy dạy đây mà tự hối nghe mỗi con!!

1.- Sang Đại-Kiếp Mậu-Dần bước tới
Thầy hết lòng trông đợi các con
Lớn lo tự đại tự tôn
Nhỏ thì khoe giỏi khoe khôn cãi Trời.

2.- Xúm nhau nói nhiều lời phạm thượng
Thầy quở răn lại cượng chẳng tuân
Đua nhau lừng lẫy vui mừng
Vui rồi đến khóc con đừng trách Cha.

3.- Lời Thầy phán trước ba năm đó
Đến ngày nay coi có hay không?
Các con chẳng chịu ghi lòng
Cho nên nghi nghị sợ phòng quỷ ma.

4.- Các con ráng nhìn Cha cho kỹ
Cha với loài ma quỷ khác xa
Cha lo dạy trẻ hiệp hòa
Quỷ ma nó dạy Người Ta chia lìa.

5.- Con nào biết Tam-Kỳ Đạo chuyển
Con nào thông cơ biến tùy thì
Con nào cách vật trí tri
Các con được vậy khỏi nghi sợ lầm.

6.- Các trẻ chẳng để tâm vào đó
Làm sao cho biết rõ thiệt Thầy
Tu sao hờ hỏng quá vầy
Tu sao mười mấy năm chầy còn ngu.

7.- Vậy cũng tiếng là tu Chơn-Lý
Chơn-Lý sao xét lý không thông
Nhìn con Thầy rất đau lòng
Nhìn con Thầy thảm vô cùng cho con.

8.- Con chẳng hổ với non với nước
Con sao đành biếng nhớt vậy con?
Thầy thương hết sức chiều lòn
Sao con cứ việc méo tròn khen chê.

9.- Thầy muốn trẻ sớm về kẻo trễ
Kêu con hoài con kể ra chi
Quẩn quanh theo lũ níu trì
Thoát ra chẳng khỏi, A-tỳ phải sa.

10.- Nay Thầy hỏi riêng CA với PHẤN
Phận tu hành còn xứng đáng chưa
Xét coi Cửu-phẩm, Tam-thừa
Hai con có xứng phẩm thừa nào không?

11.- Trẻ chớ tưởng hao công tốn của
Mà thở than hằng bữa hằng ngày
Học hành khoe giỏi nói hay
Mặn chay, chay mặn lúc nầy ra sao?

12.- Châu-Thiên đó Đài cao nêu vọi
Phải xét coi phước tội cho rành
Khắp cùng Nam Nữ chúng-sanh
Than phiền vì đó Thầy sanh sự buồn.

13.- Đạo Thầy dạy đúc khuôn Chơn-Lý
Sao hai con lấy Lý làm quyền
Vậy nên trật tự đảo điên
Con quên trong lúc An-Thiên dặn dò.

14.- Giao làm chủ chiếc đò Chơn-Lý
Mấy năm rồi Chơn-Lý ra sao?
Xét coi đó tại chỗ nào
Thì Thầy lui tới ra vào với con.

15.- Thầy hỏi đó hai con ráng xét
Xét cho rành mới hết hồ nghi
Khuyên đừng chích mích nhau chi
Muốn cho hòa hiệp chớ khi dể người.

16.- Thầy dạy Đạo tùy thời nương cuộc
Thầy sửa Đời do Luật chí công
Con ngu, con dại thương đồng
Tội răn, phước thưởng Luật không tư vì.

17.- Hai con ráng nghiệm suy cho đúng
Đừng có lòng rẻ rúng nghe con
Hai con lo liệu không tròn
Làm sao cho có xác hồn tại đây.

18.- Nếu chẳng vậy chỗ nầy tiêu hủy
Ấy là điều hữu thỉ vô chung
Việc hư lúc trước tại PHÙNG
Ngày nay phá hoại tội đồng hai con.

19.- Thầy thường nói hai con hết sức
Việc tu hành có đức mới nên
Đài cao núi dựng làm nền
Là bền tâm chí như bền núi cao.

Thăng.


CHÚ GIẢI

Về tình đồng bào cốt nhục nên C.T.Đ, có Minh Chơn-Lý riêng cho em không nghe. Nên người phải gánh lời hỉ nộ của Thầy và xin dung chế. Thầy Quảng-đại Cao-dài sông biển, nên phục chức cho người và ban chức Ngọc-Đầu-Sư cho em không chịu lãnh. Đoạn Thầy mới trao cho anh cả Ngọc-NGÀN-Tinh làm tròn phận sự đến năm 1945 qui liễu gần Thánh-Địa, trong tay người Đạo nuôi dưỡng và chôn cất.

Vì Đức Tam-Tôn quá thương nên không tin bài Vận-Niên nầy trước bài năm Kỷ-Mão và đem bài "Rường Cột" thế vào cho Đạo học; nhưng mà C.T.Đ biết ngang bằng sổ ngay và Thầy có dạy:

"Lời nào Thầy đã dĩ hơi ra, Vàng ngọc gìn trau chớ bỏ qua …" Nên C.T.Đ phải in hết hai bài đều lời Châu Ngọc của Thầy.

Nhờ oai ân của Thầy nên ngày nay tôi Công viên Quả mãn, mà còn lo lập thành Thiên-Đạo Chơn-Truyền đặng chức sắc có gồm đủ bài vở ngồi Chủ-Tọa Đạo-Tràng, khác nào nấu đá vá Trời hồi đời Cơ-Phát.


******************

2. VẬN NIÊN NĂM MẬU-DẦN 1938

Thầy chọn trẻ ra làm rường cột

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 1 annam năm Mậu-Dần - giờ Ngọ năm 1938

-----o0o-----

Ớ các trẻ rường cột cho Trung-Ương phải ráng nghe lời của Bổn-Sư dạy mà tự xét.

1.- Thầy chọn trẻ ra làm rường cột
Thương mến nhau như một mới hòa
Đã rằng con ở một nhà
Mà không thảo thuận Mẹ Cha vui gì.

2.- Rất uổng tiếng tu my Nam-tử
Nam như vầy làm nữ cho xong
Đường đường một vị Thiên-phong
Lời ăn tiếng nói chưa thông Đạo-mầu.

3.- Trưa những sớm cơ cầu húng hính
Gái cùng trai lo tính mưu gian
Than ôi! họa phước hành tàng
Dể ngươi ắt phải vương mang lưới Trời.

4.- Tại Tòa-Thánh là nơi tu niệm
Lòng các con nham hiểm vẫn còn
Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn
Trong lòng tính việc chia môn rẽ vời.

5.- Thiệt các trẻ coi Trời quá nhẹ
Rất uổng công quì lạy đau mình
Còn thua mấy đứa làm thinh
Lòng không độc ác tánh tình thẳng ngay.

6.- Còn một nỗi phô bày chuyện lạ
Ắt có ngày mang họa hại mình
Thầy thương nên dạy đọc kinh
Mà con không đọc, đọc tinh chuyện xằng.

7.- Làm nhiều việc nhố-nhăng quá ngán
Cho nên đời ngạo báng Cao-Đài
Mình hư còn trở trách ai
Ôi thôi! uổng tiếng gái trai con Trời.

8.- Thầy nhắn nhủ một lời kỳ chót
Muốn tu thì bỏ bớt điều hư
Chí-Tôn là Đấng Đại-Từ
Hổ ngươi dòm thấy con hư cả bầy.

9.- Các trẻ gặp kỳ nầy là quý
Sẵn mối giềng Chơn-Lý ráng phăng
Dư muôn năm mới một lần
Gần Trời chẳng muốn, muốn gần quỷ ma.

10.- x Các con lớn nhỏ gần xa
Đạo dầu không Đạo ráng mà nghe theo
Đạo không chọn lựa giàu nghèo
Đạo là quyết cứu hiểm nghèo cho an.


******************

3. VẬN NIÊN NĂM KỶ-MÃO 1939

Năm nay đã mãn Mậu Dần

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 12 annam 1938 (2 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy các con Nam Nữ có lòng lo Đạo trở về Tòa-Thánh mà làm lễ Thưởng-Xuân. Vậy ráng nghe Thầy dặn đây làm cho y theo, có ngày hưởng phước nghe các con.

THI

Năm nay đã mãn Mậu Dần
Bước sang Kỷ-Mão tuổi lần thêm cao.

1.- Phần sanh tử nghèo giàu thay đổi
Đó là do phước tội cân trừ
Con nào có chút phước dư
Thì lo bước tới làm như năm rồi.

2.- Con nào muốn gây bồi tội ác
Thầy cũng vui chuyển phạt lưu đày
Hễ làm thì chịu không sai
Chớ kêu oan ức rằng ai hại mình.

3.- Thầy trước có đinh ninh lời dặn
Kiếp Mậu-Dần Thầy gạn từ tên
Việc tu là quí tại bền
Vững cùng không vững thưởng đền trừng răn.

4.- Làm việc phải Hồng-ân để sẵn
Làm việc nguy án nặng ghi rồi
Tu hành giải đải thả trôi
Thì mang thêm tội ngược xuôi ngạo Trời.

5.- Tu là để cứu đời cho tỉnh
Mình còn mê chưa định lẽ nào
Chẳng rành căn trước kiếp sau
Chẳng thông báo ứng, chẳng nao đọa đày.

6.- Con nào rõ lời Thầy nói đó
Xét phận mình coi có vậy không
Chớ ham tính việc đèo bồng
Cải canh bác luật khó phòng lập thân.

7.- Theo thế kỷ hết Dần thì Mẹo
Theo phận người hết khéo rồi khôn
Trước sau ngó lại xác hồn
Quanh qua quẩn lại Càn Khôn một bầu.

8.- Dầu cho chạy đáo đầu không khỏi
Dầu bạo hung đến đỗi không nhầm
Biết Trời đổi tháng thay năm
Mình sao lại chẳng đổi lầm ra nên.

9.- Chỉ có muốn tuổi tên cho lớn
Đặng xưng mình người lớn khôn nhiều
Thầy nhìn khổ biết bao nhiêu
Mảng xưng khôn lớn mà tiêu Linh-Hồn.

10.- Khôn mà chẳng rõ khôn là khéo
Lớn không rành chỉ nẻo dữ lành
Ích gì lớn tập cành nanh
Vì ưa khôn quỷ tội sanh ra nhiều.

11.- Một năm tính mấy nhiêu ngàn tuổi
Đếm số người số tuổi ghi dồn
Khắp trong một quả Kiền Khôn
Người đâu tuổi đó lớn đông vô cùng.

12.- Các con cũng có tùng Thiên-mạng
Thì phải suy cho cạn các lời
Bớt lần cái bịnh dể ngươi
Bớt lần cái thói ăn chơi qua ngày.

13.- Người muốn đặng lâu dài tên tuổi
Thì trước lo sửa đổi kịp thời
Mắt nhìn thấy rõ các nơi
Các nơi thì cũng một Trời như đây.

14.- Tại sao lại đó vầy đây khác
Lấy đó mà tự giác răn lòng
Thầy thương con Lạc, cháu Hồng
Phần đông ngu dại có lòng mộ tu.

15.- Mở Đại-Đạo vẹt mù sanh-chúng
Lọc lừa sau để dụng lâu dài
Con nào chịu nhọc là may
Là trong chỗ nhọc hằng ngày học tu.

16.- Cách lừa lọc sửa ngu ra trí
Là Vô-Vi nhi trị tâm phàm
Con đồng cả thảy Nữ Nam
Răn trừng dạy đủ chịu làm thì nên.

17.- x Đó Thầy muốn nối tuổi tên
Đó là Thầy buộc thiện duyên lâu dài
Con nào chẳng thuận lời ngay
Thì thôi đừng có níu ai theo mình.

18.- Để cho mình chịu một mình
Trước sau kết cuộc dễ nhìn, dễ xem
Đạo là qui-củ hốt-chiêm
Cao Kiên hữu dụng luật nghiêm từ nào.

19.- Làm người xem trước ngó sau
Có chi đâu lạ, có nào là xa?
Có tên, có tuổi, có già
Có khôn, có dại, đó là đường đi.

20.- Một đời chán ngán xiết chi
Vì trong khôn dại thị phi vô chừng
Lỡ lầm lại với oan ưng
Cả hai điều đó tại chưng hỏng hờ.

21.- Xét suy cho kỹ đặng nhờ
Trớ trêu thì hại, ai ngờ đặng ai
Ngày xuân dặn trẻ một bài
Để coi mà học phải vầy hay không?

22.- Đó là chỗ gặp Chủ-Ông
Chủ-Ông là chỗ cái không Ta Người
Ráng nghe từ tiếng, từ lời
Mỗi câu, mỗi vé, có Người, có Ta.

23.- Trong không mà có đây là
Có cùng không có tại hòa với kiêu
Mỗi con nghe đặng ít nhiều
Giờ dư suy xét rõ điều nhặt thưa.


******************

4. VẬN NIÊN NĂM CANH-THÌN 1940

An an biến biến đổi dời

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 12 annam 1939 (1 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy các con nghe Thầy dặn:

1.- An an biến biến đổi dời
Các con dầu Đạo, dầu Đời nhớ câu
Nhớ câu thiện ác đáo đầu
Nhớ rồi khuyên chớ cơ cầu bỏ qua.

2.- Cuộc Thầy lập gầy ra cơ thể
Dựng nền nhơn tại thế hiện thời
Đạo Đời, Đời Đạo hai nơi
Song đều răn thưởng một Trời phán minh.

3.- Các con chớ tưởng mình là đúng
Dám chê Trời lại dụng phàm tâm
Cả gan bày bác mưu thầm
Tưởng cho là phải, phải nhằm vào đâu?

4.- Câu thiện ác đáo đầu là vậy
Phải vào đâu chỗ thấy không nhầm
Chỗ vào tới đó tối tăm
Tối tăm rồi cứ họa lâm theo kề.

5.- Than phiền cuộc thảm thê là đó
Nhìn tấm thân còn có ra gì
Cũng là tại thói hiềm nghi
Hiềm nghi vô lý, đường đi quên nhìn.

6.- Rốt Kỷ-Mão, Canh-Thìn bước tới
Cơ Đạo-mầu ngày mới sắp sang
Hễ tu thì khỏi buộc ràng
Là tu cho thiệt, đừng bàn cãi riêng.

7.- Trong chỗ thiệt là duyên nối chặt
Nối chặt bền dầu ngặt cũng qua
Dặn dò con cả Giái-ba
Hễ tu Chơn-Lý đừng xa Đạo-Tràng.

8.- Mỗi ngày học là an tâm tánh
Được an rồi sức mạnh ngày thêm
Mạnh là vui đẹp vẻ êm
Thần tươi, Khí hạo, Tinh điềm dưỡng chơn.

9.- Nhờ nương học oán hờn không kết
Học rồi hành tự xét dò đon
Rõ thông sao mất, sao còn
Biết cơ Trời Đất độ tồn bảo Linh.

10.- Nếu biết được là vinh trong đó
Đó là tiêu nghiệt khổ tai nàn
Vậy rằng gọi học là an
Hễ an thì thấy sức càng mạnh thêm.

11.- Cả Nam Nữ ráng tìm mà học
Kinh của Thầy sách đọc càng vui
Đọc đâu hiểu đó rõ mùi
Đó là Thầy cứu độ đời tỉnh tâm.

12.- x Ráng coi, ráng xét, ráng tầm
Ráng làm theo đó cho nhằm gọi hay
Tuy là thời cuộc đổi xoay
Cứ nhìn theo đuốc Thầy khai dễ bề.

13.- Dễ là chẳng vướng thảm thê
Bề an theo vận đừng khoe sức phàm
Rõ bề rõ vận thì ham
Ham vùa theo Đạo chẳng nhàm, chẳng phai.

14.- Ngưỡng triêm lòng dạ lâu dài
Quyết tuân đường cả có Thầy độ cho
Qua ngày ngoài ấm trong no
Miễn đừng quên Đạo, đừng so sánh Đời.

15.- An qua biến lại cuộc đời
Muốn an thì học Đạo Trời giải mê
Là an tâm trọn không hề
Hề chi thế tục thuộc về tính quanh.

16.- Đi theo đường cả Đại-thành
Tục quanh tính lộn, ngày sanh biến hoài
Nghe rành hiểu đặng khỏi sai
Trong lời Thầy nói từ nay chẳng mòn.

17.- Nước non khi mất khi còn
Lời châu tiếng ngọc dạy đồng cổ kim
Tại chưng nhiều đứa chẳng tìm
Chẳng tìm thì chịu đắm chìm tục mê.

18.- Chỉ chừng Đất chở, Trời che
Chỉ cho có tiếng lòng mê vẫn còn
Kiếp đời tại đó thon von
Nghịch cơ Trời lập, thân mòn thể hư.

19.- Chẳng tường luật cả vô tư
Tưởng cho Trời Phật cũng như tay phàm
Đó là còn luyến tục tham
Nên đành theo vậy, vậy làm vậy ưng.

20.- Con nào biết trọng Oai Ân
Đó là đặng thoát tục trần rảnh rang
Canh-Thìn năm mới bước sang
Ra lời chỉ tột biến an mọi điều.

21.- Mỗi con nào học ít nhiều
Học khoa Đạo-lý rõ điều luật chung
Rồi đem ra độ nhau cùng
Đừng chia nhĩ ngã, ráng phòng tự tôn.

22.- Thói đời thì tính dại khôn
Đạo Thầy Chơn-Lý đừng trông lập quyền
Mỗi con cần nhớ chữ Hiền
Nhớ làm cho đúng, phỉ nguyền trọn vui.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo coi mà học, buộc phải trả bài từ ngày 15 tháng 1 cho tới 15 tháng 4. Bài nầy đừng có bỏ qua gọi là trái lịnh. Trừ ra kẻ dốt không thế học đặng, tuổi già hay là có bịnh thì phải để lòng nghe, nếu dể ngươi thì có tội.


******************

5. VẬN NIÊN NĂM TÂN-TỴ (1941)

Thầy thương nên mở Đạo-mầu

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 12 annam 1940 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy các con ôi! năm Canh-Thìn hầu mãn thì Tân-Tỵ bước sang, đó các con phải biết rằng Tuần-Ư Tế-Vận nghe các con.

Đây Thầy cho ra một bài đặng cho mỗi đứa nào có thích chí tu hành, lánh đời thống khổ thì ráng nghe mà coi cho kỹ đặng dè dặt lo lường, tới lui phải quyết, vinh nhục phải tường, chớ đừng có vội nói Thầy sao quá lời dụ dỗ nghe.

THI

1.- Thầy thương nên mở Đạo-mầu
Cứu Đời cho khỏi đáo đầu nạn tai
Tại chưng phàm tục luyến hoài
Luyến cho cùng bước thì tai nạn kề.

2.- Đến chừng đó vậy còn chê
Là chê Trời lập Đạo quê hơn phàm
Biết sao Thầy nói cho nhàm
Vì con nhiều đứa nhiều ham vọng cầu.

3.- Cơ Trời thời cuộc chẳng lâu
Mười năm dạy dỗ một câu chí thành
Tại sao mà lại chê đành
Vậy thì trong mỗi con nhìn hỏi nhau.

4.- Nhìn nầy nọ đó ra sao
Nhìn coi Trời Phật chỗ nào ghét ai
Hỏi sao mình lại chê hoài
Chê hoài rồi hỏi lại tài ở đâu?

5.- Tài chi tránh khỏi đáo đầu
Tài chi mà lại bỏ câu chí thành
Có tài thủ lợi cầu danh
Có tài đó vậy mới sanh đáo đầu.

6.- Cho nên Thầy mở Đạo-mầu
Là danh chẳng chuộng, lợi hầu chẳng mê
Trước sau là trọn an bề
Là đai bầu chịu hèn quê chẳng nài.

7.- Nhớ vầy làm vậy có ai
Tại không có vậy, tội ngày lớn lao
Lớn rồi muốn nhỏ liệu sao
Sẵn Thầy ra dạy tại sao cãi Thầy?

8.- Cao nầy thấp nọ không hay
Chừng cho tới lụn nói ai biểu mình?
Một năm rồi đó Canh-Thìn
Thì cơ họa phước dữ lành chẳng sai.

9.- Bước sang Tân-Tỵ rộng dài
Là trong tuổi lớn người đây nhớ người
Nhớ người đặng bớt ăn chơi
Ăn chơi rồi quá khổ đời vậy nghe.

10.- Vậy nghe lời vậy kiêng dè
Trời ra mở Đạo ráng nghe đặng nhờ
Quá ăn chơi quá hỏng hờ
Hỏng hờ rồi hết đợi chờ chịu thôi.

11.- Trời thôi hết đợi chờ rồi
Thì thân người đó vậy người hay ai
Hỏi nầy dầu gái dầu trai
Ráng mà nghe hỏi đặng ai nấy tuần.

12.- Tuần cơ vận chuyển mấy chừng
Mấy chừng rồi đó vậy ưng hay lầm
Cạn lòng hỏi lại tánh tâm
Thì con mỗi đứa nhớ thầm tự do.

13.- Tự do tín ngưỡng ráng dò
Dò theo lời dạy đặng cho biết Trời
Ngặt nghèo khó lắm con ôi!
Muốn ra cho khỏi vậy xuôi với Thầy.

14.- Xuôi bề gầy cuộc nối dây
Đặng làm cho vững lâu dài Đạo-tâm
Ráng phân ráng định mới nhầm
Ích chi lời nói giành cam lấn vùa.

15.- Giành là giành chẳng chịu thua
Cam nhiều tội lỗi gọi mua giống tà
Lấn người mà chẳng xót xa
Vùa theo hủ tục kể ra vô cùng.

16.- Mỗi con nào biết qui tùng
Sợ Thầy lo phận lành chung hưởng nhờ
Chẳng tùng qui luật vận cơ
Thì thôi đừng có ước mơ vái Trời.

17.- Nầy năm Tân-Tỵ tới rồi
Để lời khuyên nhủ Đạo Đời nhớ nhau
Nhớ nhau trong lúc nghèo giàu
Nhớ nhau nầy nọ chậm mau xa gần.

18.- Nhớ rồi thân tự nghĩ thân
Nghĩ thân người sống mấy lần thạnh suy
Nhớ coi tranh cạnh ích gì
Nhớ hồi nhịn nhục nghĩ vì tại đâu?

19.- Tại vì trong chỗ rún nhau
Tại vì máu thịt biết đau đớn đồng
Cho nên nhớ lại đau lòng
Nghĩ đời thêm cảm vầy trong đục vầy.

20.- Trong ngần vậy cũng người đây
Đục mù coi lại tiếng mày nói tao
Cả trong người lộn ta vào
Giành trong ghét đục cùng nhau cãi bàn.

21.- Muốn trong mà lóng chẳng màng
Làm hơi lánh đục lại toan quậy bùn
Đó là giành giựt khốn chung
Cũng vì không học Lý trung Đạo-mầu;
Mỗi con Chơn-Lý sẵn hầu
Hầu nghe Thầy tỏ sự đầu năm xuân.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho con một bổn, còn ba Đầu-Sư thì phải in ra phát cho Đạo Nam Nữ đặng học trả bài cho tới ngày lễ Tam-Tôn là mãn.

Trừ ra người dốt hay là tuổi già có tật không thể học đặng thì buộc phải lóng nghe đừng có bỏ qua mà có tội, đó là tội chê lời Thầy.

Còn Thập-Ngũ Linh-Đăng thì phải trả ngày lễ Thượng-Nguơn cho đủ.


******************

6. VẬN NIÊN NĂM NHÂM-NGỌ 1942

Hễ tu hành chớ cãi Trời

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 11 annam 1941 - 12 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm nay Tân-Tỵ gần mãn rồi thì năm Nhâm-Ngọ sẽ nối kế đây, nhưng mà Thầy xem lại cái chỗ tu hành phần đông vẫn còn sơ sót. Vậy Thầy cho ra ít lời để đọc cho nhuần đặng hầu lo bề cho trọn nghe mỗi con.

THI

1.- Hễ tu hành chớ cãi Trời
Hễ tu thì học theo lời dạy tu
Hễ tu đừng có oán thù
Hễ tu thì nhớ nhược nhu thắng cường.

2.- Hễ tu thì nhớ cho Thường
Hễ tu thì Thiệt Tin đường Đạo-tâm
Hễ tu thì định cho nhằm
Hễ tu thì dứt phàm tâm chớ buồn.

3.- Hễ tu thì nhớ cội nguồn
Hễ tu thì niệm đừng buông chí thành
Hễ tu thì lý cho rành
Hễ tu thì cứ phận hành chí chơn.

4.- Hễ tu khó nhọc chớ sờn
Hễ tu thì chớ phủi ơn dặn dò
Hễ tu thì nhớ phận trò
Hễ tu thì chớ sánh so lợi quyền.

5.- Hễ tu thì nhớ chơn truyền
Hễ tu đừng cậy ý riêng theo phàm
Hễ tu điều phải lo làm
Hễ tu đừng có vội tham quên Trời.

6.- Hễ tu thì phải thương người
Hễ tu đừng có dựa hơi thế thần
Hễ tu thì dứt tục trần
Hễ tu thì giữ tinh thần tốt tươi.

7.- Hễ tu đừng có biếng lười
Hễ tu thì ráng kịp thời mới hay
Hễ tu đừng nạnh tao mày
Hễ tu thì biết một Thầy ráng lo.

8.- Hễ tu chừa tật reo hò
Hễ tu đừng thói tự do khi người
Hễ tu đời sống biết đời
Hễ tu thì chớ ham lời thị phi.

9.- Hễ tu thì giữ nhơn nghì
Hễ tu thì chớ phân bì chuyện hư
Hễ tu thì hạnh nhơn từ
Hễ tu đừng sợ phước dư mà lầm.

10.- Hễ tu thì xét âm thầm
Hễ tu thì ráng nghiệm tầm cổ kim
Hễ tu thì quyết trọn niềm
Hễ tu đừng có lo tìm dị đoan.

11.- Hễ tu đừng có mơ màng
Hễ tu thì có Thiên-Đàng đợi trông
Hễ tu thì cứ một lòng
Hễ tu đừng vọng nghiêm phòng tự tôn.

12.- Hễ tu thì hiệp tâm tồn
Hễ tu nào có cậy khôn chê hèn
Hễ tu thì ráng tập rèn
Hễ tu thì tránh lời khen bợ lùa.

13.- Hễ tu thì chịu quê mùa
Hễ tu thì ngán sự đua thói đời
Hễ tu người phải nên người
Hễ tu đừng dựa vào nơi bất hòa.

14.- Hễ tu thì tránh mỵ tà
Hễ tu thì biết Phật, Ma cho rành
Hễ tu đừng có nói hành
Hễ tu đừng vị, đừng sanh chuyện nhiều.

15.- Hễ tu nói phải lựa điều
Hễ tu đừng có dệt thêu khoe tài
Hễ tu thì buộc mỗi ngày
Hễ tu thì nhớ một Thầy tại tâm.

16.- Chớ rằng tu niệm nhiều năm
Mà quên kềm thúc họa lâm khó trừ
Tu hành đừng để giờ dư
Ráng mà thâu mót đặng cư xử tròn.

17.- Hết lòng Thầy quá thương con
Hễ tu hành phận thì son sắc bền
Thương thì lo dạy cần nên
Phải nào thương để đặt tên có chừng.

18.- Thiệt nên Thầy quá đỗi mừng
Mừng cho con dại chịu vưng tiếng lành
Chớ đâu thì cũng tu hành
Nói ra thì vậy, buộc rành khó khăn.

19.- Định-Tường là Lý bổn căn
Nên Thầy thường giáng dạy răn thúc kềm
Đặng hòa một chỗ cho êm
Ngoài ra nhiều chỗ nghiệm chiêm ngưỡng lần.

20.- Bước sang Nhâm-Ngọ hầu gần
Ngày Xuân ráng học, đặng lần tới Thu
Đặng dò cho đúng lẽ tu
Đặng an bề một phá ngu ngộ hiền.

21.- Mỗi con chừng ấy phỉ nguyền
Là tu chịu thấp, nay liền thấy cao
Rồi trong phe đảng ồn ào
Quá hung thì lụy, đâu nào có sai.

22.- Gần sang Nhâm-Ngọ cho bài
Mỗi con cần học bề ai nấy làm
Hễ tu thì vậy không lầm
Hễ tu thì biết định-tâm có Trời.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho nhiều phát ra cho Đạo coi mà học. Thầy hạn cho con từ ngày Lập-Xuân bắt đầu học đặng trả bài cho tới ngày Lập-Thu là đủ (nhằm ngày 27/6 annam). Ngày 15 tháng 1 năm Nhâm-Ngọ trong Thập-Ngũ Linh-Đăng cùng Chức-sắc lớn bên phái Nữ phải trả ngày đó cho rồi, đó là trả bài thứ nhứt rồi cả thảy các nơi cũng phải trả cho đúng ngày định trên đó.

Phần Thiên-Sư phải gởi cho các chủ Thánh-Thất hay đặng truyền ra mà học, dầu Đồng-Nhi cũng vậy. Tại Thánh-Tòa phải dán Đông-Lang, Tây-Lang mỗi chỗ một bổn đặng trong Đạo coi mà học, phải đề tựa là:"Bài học ngày xuân" đặng mỗi người dễ kiểm.


******************

7. VẬN NIÊN NĂM QUÝ-VÌ 1943

Càn Khôn thế giới vận hành

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 11 annam 1943 - 3 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm Nhâm-Ngọ nầy tới đây hầu mãn. Vậy thì năm tới đây là năm Quý-Vì, trong đó mỗi con dầu Nữ dầu Nam ráng nghe Thầy dạy đây học rồi chiêm nghiệm nghe mỗi con.

THI

Càn Khôn thế giới vận hành
Mỗi con cần nhớ Đạo-thành Lý nhu.

1.- Tuy là chỗ hèn ngu quê dốt
Hễ biết tin Trời một ngôi hòa
Nghiệm lời tâm lý làm ra
Mỗi điều không hổ thẹn Ta với Người.

2.- Mỗi con nhớ Đạo Trời là đó
Đó hằng ghi chịu khó lo tròn
Ráng nhìn kia nước nọ non
Ráng coi Trời thưởng phạt trong lúc nầy.

3.- Coi rồi thấm, rồi hay vận hóa
Rồi mới thông thiệt giả hai điều
Thông rồi dò lý làm theo
Có đâu mà đến chuyện nghèo hiểm đâu.

4.- Nghe Thầy nói một câu thì biết
Biết nhờ không mài miệt của trần
Miễn làm cho có nuôi thân
Bề trong lòng chớ quên phần Đạo-tâm.

5.- Con ôi! cả dầu Nam, dầu Nữ
Ráng mà cân, mà xử lấy mình
Rõ điều tiêu trưởng hư vinh
Có chi rằng trọng, rằng khinh tiếng phàm.

6.- Tiếng phàm tục là ham bợ đỡ
Người ít tu chẳng sợ tiếng nầy
Bợ nhiều, đỡ lắm gọi hay
Mà không dè đó có ngày lụy thân.

7.- Thầy dạy ráng mà cân là đó
Mà xử thân mình nhớ phận mình
Nhớ mình tu thiệt là linh
Nhớ chừa phe đảng tâm bình hạnh an.

8.- Muôn năm có Đạo-Tràng Chơn-Lý
Mở mang lời khử mỵ hồi trung
Cậy nương vầy khỏi cuối cùng
Khỏi rồi khuyên nhớ sự chung thỉ thành.

9.- x Năm năm lời dặn hỏi rành
Từ câu từ vé nhọc nhành xiết bao
Hiện giờ là Lý chuyển giao
Định người không sái người mau hỏi người.

10.- Hỏi người ai tập ăn chơi
Hỏi người ai dạy dể ngươi chi vầy
Hỏi người ai biểu thày lay
Hỏi người ai nói, ai bày dị đoan.

11.- Hỏi người ai cậy làm ngang
Hỏi người ai vướng tội mang khổ dồn
Hỏi người ai mượn tài khôn
Hỏi người ai biểu giục bôn tranh quyền.

12.- Hỏi người ai chỉ thiện duyên
Hỏi người ai xúi quên hiền nhớ ngu
Hỏi người ai cản đường tu
Hỏi người ai quến, ai rù chuyện hư.

13.- Nghĩ từ cổ vãng kim như
Việc tu hành chánh thiện từ giúp nhau
Có thân thì có nghèo giàu
Có tu thì biết hạng nào cũng thân.

14.- Dầu cho Tiên, Phật, Thánh, Thần
Hiện nay sùng bái, xưa cần lý tu
Mới là danh để ngàn thu
Mỗi con xét lại sự tu nào hèn.

15.- Tại chưng nhiều đứa thất truyền
Nghe lời vọng ngữ làm điên đảo sầu
Từ khi Thầy mở Đạo-mầu
Mỗi con nào thuận gìn đâu có lầm.

16.- Quý-Vì năm đủ năm năm
Sự tu càng thấy diệu thâm có ngằn
Mỗi con Đời Đạo hay rằng
Rằng tu rằng cãi ai bằng Đạo chơn.

17.- Nghe rồi xét lại nguồn cơn
Dã tâm thì đọa, bất nhơn nào còn
Thế trần chung cả bầy con
Ráng nghe Thầy nói dạy trong dỗ ngoài.

18.- Tới lui đường cả rộng dài
Chẳng nghe thì hẹp đêm ngày quạnh hiu
Ví dầu cùng thế réo kêu
Đó là uổng tiếng quạnh hiu vẫn còn.

19.- Quạnh hiu là cớ mỏi mòn
Nhìn thân dường gỗ cây tròn chịu lăn
Bài nầy cho học Lập-Xuân
Thượng-Nguơn ngày lễ trả lần tới Thu;
Thu là ngày chánh Trung-Thu
Mỗi con nào trễ việc tu chưa tròn.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra nhiều, đặng gởi cho các chủ Thánh-Thất cùng là các khóm Đạo-Tràng đặng trong đó chép ra mà học. Còn tại đây thì phát cho mấy đứa có mặt làm lễ trong ngày Đàn rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra một bổn. Thầy dặn chung trong đó tới ngày Lập-Xuân sẽ học ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới Trung-Thu là ngày 15 tháng 8 năm Quý-Vì thì phải trả cho hết.


******************

8. VẬN NIÊN NĂM GIÁP-THÂN 1944

Trời sanh Trời sắp định thành

Ngày 23 tháng 11 annam 1943 - 12 giờ trưa)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, mỗi con phải nhớ lại rằng mỗi việc chi ở thế-hạ nầy đây mà gọi là Trời sanh thì mỗi con phải an lòng để cho Trời định, đừng có sanh lòng dục vọng, đừng có dạ cành nanh; hễ đứa trước thì có đứa sau, cả thảy cũng là ở trong vòng Tạo-Hóa; Thầy nói vậy mỗi con có hiểu chưa? Chớ Thầy thấy rõ phần đông trong cả thế-gian hiện giờ thường hay nói tiếng nầy: "Nếu mình còn sống đây, còn mạnh đây, không lo giành giựt để chết rồi không được nhờ trong đó, để già yếu làm sao mà chống cự cho lợi ai"; tại nói như vậy đành quên câu Trời định đó, mỗi con có thấy chưa? tính trước sợ e chết rồi không được hưởng, già yếu ăn chẳng đặng nhiều, mà không dè thân sống đây cãi Trời gây ra tội lớn, rồi cái thân đó nào có ra chi? Vậy ngày 28 năm nầy là ngày lễ Tu-My năm Quý-Vì gần mãn, Thầy nói đó cũng tỷ như lời dặn trước cho mỗi con nào có tu, có học Đạo-lý ít nhiều đặng nhớ mà an lòng, vì có học có tu mới có biết Trời sanh thì mới dễ cho mình để cho Trời định, chớ nói chi những đứa không biết Trời thì nào có rõ Trời sanh là chi? Trời định là chi?

Đây Thầy chỉ cho mỗi con nào còn mơ màng trong khoản đó, chưa quyết cái Lý Trời sanh thì xét lại như vầy: Như đêm ngày, nắng mưa, mau chậm phải đó là Trời sanh hay không? Vậy biết Trời sanh, dầu cho ban đêm có nóng việc chi cũng chờ cho Trời sáng, nếu không Trời định thì ai dễ làm cho Trời sáng được không? Nếu không phải Trời sanh đâu ai làm cho ban ngày mà cả đồng tối đặng? thì các lẽ cũng phải xét như vậy mới là dễ hiểu.

Vậy mỗi con nào nghe Thầy chỉ đó, nghe đặng hiểu liền, thì được vui lòng biết mấy, còn đứa nào nghe mà chưa thấu thì tự nghĩ lại mình, tại ít tu ít học, hoặc là lười biếng cải-canh, mượn tài khoe giác thì phải mau tự hối cho liền, đừng có để ý hờn riêng rồi tự mình làm cho mình thêm hại nghe mỗi con!

THI

Trời sanh Trời sắp định thành
Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm.

1.- Mỗi con chớ tính thầm khôn quỷ
Rồi thành ra đố kỵ gây thù
Vậy rồi ngu chịu dồn ngu
Dốt luôn đời dốt biết đâu vận thời.

2.- Thầy nói thiệt luật Trời không dễ
Thầy đã than đừng để chống kình
Trước sau mình ngó lại mình
Có chi là gọi phê bình ngược ngang.

3.- Phải sớm biết Trời ban sự sống
Đừng ỷ hay hờ hỏng không dè
Cuộc đời Trời Đất chở che
Là ai biết sợ biết nghe Lý Trời.

4.- Con mỗi đứa nghe rồi nghiệm lấy
Đừng bỏ qua ngày quấy thêm nhiều
Kìa kìa lớp hoại lớp tiêu
Thì đây mình biết bấy nhiêu giựt mình.

5.- Con mỗi đứa đừng khinh Đạo-lý
Đạo-lý đây thường chỉ tận tường
Cậy nhờ trong đó rành phương
Là phương mầu nhiệm khỏi vương khốn nàn.

6.- Con nào muốn bình an thì phải
Phải hết lòng nhớ lại Trời sanh
Chớ đừng dựa thế cầu danh
Mà quên Trời định tranh giành luống công.

7.- Con ôi! thấy Đại-đồng kiếp số
Thì ráng mau tỉnh ngộ cho liền
Đặng nhờ Trời định Bổn-nguyên
Đặng an bề trọn khỏi liên lụy trần.

8.- Trong cuộc thế xoay vần sau trước
Con nào tâm xét được thì nhờ
Chớ rằng cậy thói làm lơ
Làm lơ thì chịu lỡ cơ hội lành.

9.- Thầy nay chỉ ngọn nhành Chơn-Lý
Mười tám năm đặng nghĩ suy rành
Ấy là cơ hội Trời sanh
Một tay Trời định kết thành vẻ vui.

10.- Mỗi con chớ sụt sùi chi lắm
Mình xét ra rồi gẫm lại mình
Chỗ nào chơn thật thì tin
Chỗ nào gian, ngụy dầu vinh chẳng màng.

11.- Tiếng vinh mượn khoe càng dụng chước
Gẫm mà coi khó được lâu dài
Vậy thì con cả gái trai
Ngày nay Thầy nói nhớ hoài vậy nghe.

12.- x Rồi chung nhau một đề huề
Để coi Trời định đâu hề có sai
Tu-My Đại-lễ ngày nầy
Thầy cho bài đọc sắp bày Giáp-Thân.

13.- Nối nhau dò bước đi lần
Lần theo vận hóa tinh thần Đạo-tâm
Bước đường ngày tháng thậm thâm
Quyết tu Thầy chỉ tin nhằm độ hay.

14.- Đó rồi ai tự lòng ai
Tự lòng không hở môi bày mỵ ly
Hiếu tâm phải giữ trọn nghì
Thì ai cũng được tự tri giác đồng.

15.- Cho nên Thầy chỉ tự lòng
Lòng trong tự biết quan phòng nết sai
Quý-Vì là mãn năm nay
Mỗi con cần nhớ học bài Thượng-Nguơn.

16.- Gọi là năm thứ Giáp-Thân
Cuộc đời ai gẫm ai cần nấy hay
Gẫm Trời sanh định đời đây
Cần noi dò một Lý Thầy dạy trao.

17.- Rồi trong thấm sự nghèo giàu
Thấm điều vay trả mầy tao nực cười
Mới hay Trời định hơn người
Mới hay người mạnh qua Trời được chưa?

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát cho Đạo học thuộc lòng, đặng tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn năm Giáp-Thân Thầy hạn cho trả từ đó cho tới ngày lễ Liên-Hoa 22 tháng 9 thì mãn hạn.


******************

9. VẬN NIÊN NĂM ẤT-DẬU 1945

Đạo cao Trời sắp chia rành

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 11 annam 1944 - 1 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con, năm nay là năm Giáp-Thân tới đây hầu mãn, thì mỗi con phải biết năm Ất-Dậu nó cũng gần tới đây; đó có phải là năm nối dồn năm, còn tuổi phàm của mỗi con cũng có lẽ một ngày thêm lớn, đó mỗi con xét lại coi có phải vậy chăng?

Đã biết vậy là phải rồi, còn phần tu-hành của mỗi con dầu Nam dầu Nữ trong trường Chơn-Lý đây là quyết sao cho bền chặt Thiêng-Liêng. Vậy mỗi con mới xứng đáng là Ta Người tuổi tên gồm đủ.

Đây Thầy nhắc lại cho mỗi con nhớ, là trong lúc mới vừa bước qua đầu năm Giáp-Thân thì Thầy có nói trước cho hay là Trời sanh Trời sắp định thành, mà phải nhớ câu Trời ra lời chỉ học hành tỉnh tâm kia mới thấu hiểu đặng.

Vậy Thầy coi lại năm nầy nhiều đứa không muốn học, có ai hối thúc lắm thì gượng học cho có chừng, vì đó mà gọi mình là đứng trong trường Chơn-Lý cho được nhiều năm thì chẳng khác nào nhiều đứa hay lấy tuổi nhiều mấy chục, sống lâu đặng xưng mình là cao thượng đó, cái lẽ đó thiệt là tệ lắm.

Vậy mỗi con xét lại coi có quả vậy không? Rồi làm sao mà đạt được cái Lý Trời sanh Trời sắp định Thành. Đây Thầy nói thêm một lẽ nầy cho mỗi con nghe, Phàm làm thân con người, trước hết phải nhớ cái sự qua rồi, rồi rõ cái sự hiện tại đây, lại còn phải độ về tới là sự chưa tới đó. Đó mỗi con nghe Thầy nói vậy đừng vội cho là khó, không có khó đâu. Tại nhiều con còn cưu lòng lười biếng, hay tính giỡn chơi, tại đó mà cho là khó. Đây Thầy ví dụ cho mỗi đứa nghe: Mỗi đứa ở đời, nếu mình muốn đem trồng cây chi hay là làm sự chi, thì trước đó là sự qua rồi, còn hiện tại đây là mình trồng đây, mình làm đây, rồi độ lấy cái sự chưa đến, là độ trong đó cây đó nữa nó trổ ra trái gì, bây giờ nhiều hay ít, vật đó nữa nó thành ra cái gì, thì cũng trong hồi hiện tại mình đương làm đó, trừ ra nó chết hay là nó hư thì mình cũng thấy được hiện tại đó thì biết sự chưa tới nó không có vậy.

Vậy mỗi con nghĩ coi, nếu làm con người mà không nhớ sự qua rồi, thì làm sao mà răn dạy những đứa chưa biết sự đó. Còn sự hiện tại đây mà không rõ đó ra sao, thì làm sao mà quyết đoán cho được, rồi ai nói sao cũng đánh liều nghe vậy, thì uổng cái tiếng con người Trời sanh đó, đó là tại đâu, có phải là tại dốt không chịu học, dở lại muốn làm hay, rồi sự chưa tới càng thêm u ám nữa. Nói tóm lại cũng vì không chịu tỉnh tâm nên mới đành như thế.

Đây là ngày 10 tháng 11 năm Giáp-Thân là ngày lễ Tu-My, Thầy cho mỗi con một bài thuộc về năm Ất-Dậu nghe mỗi con.

THI

1.- Đạo cao Trời sắp chia rành
Người tu cần yếu dẹp ganh ghét phàm
Đặng do đường phải cho nhằm
Đó là Thầy chỉ diệu thâm xa gần.

2.- Con lớn nhỏ cuộc trần chung cả
Phần ít tu phần dã tâm nhiều
Lớn làm nhỏ lại nhìn theo
Chẳng thông thời vận cứ đeo tự cường.

3.- Vì vậy đó Trời thương, Phật tiếc
Tiếc người ta bỏ thiệt theo tà
Vậy rồi mê đắm trần sa
Ôi thôi! nào biết nói ra đặng nào.

4.- Người tu thiệt Đạo cao ngày thấy
Kẻ núp Trời tội quấy ngày thêm
Kể ra sao xiết nỗi niềm
Niềm tâm sự mỗi con tìm thấy chung.

5.- Thầy chứng rõ kẻ tùng người phản
Rồi nghiệm ra lời phán của Thầy
Con nào thấy được là hay
Tiếng chung nói vậy thấy vầy là riêng.

6.- x Thì trong đó được phỉ nguyền
Nguyền sao được biết nầy duyên nọ phần
Đạo cao nhờ lý hiểu lần
Là cao tại chỗ biết thân phận người.

7.- Trau giồi lành đẹp tốt tươi
Người chung mà phận tin Trời ít ai
Rồi coi gẫm lại hội nầy
Coi Thầy nói vậy phải vầy hay sai.

8.- Gẫm nầy dầu gái, dầu trai
Gẫm đời thêm thấy đắng cay chạnh lòng
Gẫm rồi thì ráng dày công
Tin Trời nghiệm Lý dẫn thông cơ mầu.

9.- Ví dầu thời cuộc tới đâu
Biết Trời trong định khỏi sầu khỏi than
Định rành biến vậy rồi an
Trong là máy tạo sửa sang xây vần.

10.- Ngoài ra rõ sự phong trần
Vất vơ rồi cũng tiêu lần từ đây
Vững lòng trong sạch đừng sai
Trời cao rọi kỹ người đây nhớ người.

11.- Nhớ trong đời sống gặp Trời
Người ta nào phải thua loài vật đâu
Bởi vì Đạo-lý cao sâu
Người ta hiểu đặng có đâu đê hèn.

12.- Hiểu thông tiên hậu nối liền
Đó người ta gọi Thánh-hiền đồng qui
Rạng danh Chơn-Lý Tam-Kỳ
Mỗi con cần nhớ trọn ghi mấy lời.

13.- Chớ nên lừng lẫy cái người
Rồi khôn hiếp dại hơn thời lấn thua
Cao sang đừng luyến bợ lùa
Vì trong biết sợ khó mua tiếng lành.

14.- Con người nhớ lại bình sanh
Nhờ đâu mà có phước lành hưởng đây
Nhớ mình rồi biết tới ai
Nhớ rồi đâu dám cậy tài ỷ khôn.

15.- Náo nương gầy cuộc bảo tồn
Trời vui được thấy con đồng biết thân
Mười năm cơ hội thấy gần
Mỗi con Đời Đạo khuyên đừng hiểm nham.

16.- Biết thân thì buộc phải làm
Làm y lời dạy tỉnh tâm trí nhàn
Bước đầu năm Ất-Dậu sang
Tỏ bày cho mỗi con hằng thấy chung.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy cho đây đặng con giao lại cho CA nó in ra cho con một bổn đặng đọc tại Đạo-Tràng ngày lễ Tu-My nghe chung, rồi dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi đứa chép ra mà học.

Còn phần Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi người một bổn đặng cho Đạo nghe, rồi cũng chép ra mà học.

Thầy hạn cho kể từ ngày 16 tháng 1 năm Ất-Dậu lễ Thượng-Nguơn trả bài cho tới lễ Hạ-Nguơn ngày 15 tháng 10 là mãn hạn, mỗi con cũng đều trả hết, trừ ra kẻ già yếu, bịnh hoạn không thể học được thì cũng phải ráng nghe đặng nhớ vào lòng gọi là mỗi năm Thầy có cho ra bài học.


******************

10. VẬN NIÊN NĂM BÍNH-TUẤT 1946

Lòng tin tưởng Đạo ít người

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 11 annam 1945 - 1 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy mỗi con ôi… Đạo Đời trong một lúc đen trắng lộn quá nhiều, tại đó mà cái khổ nó dồn theo; cái hiểm, cái nghèo không bao giờ bớt đặng; đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là Thầy hỏi sơ cho biết vậy chớ phần đông hiện giờ có chắc chi là hiểu, đây là gần ngày lễ Tu-My năm Ất-Dậu trong một cảnh buồn biết nói sao cho xiết; cái cảnh buồn đó nó đối với phần đông hiện giờ chưa hiểu lời Thầy hỏi trên đó, rồi mỗi con trong trường Chơn-Lý đây lúc nầy coi lại còn được là bao nhiêu thiệt hành Tâm-Đạo, nếu thiệt hành Tâm-Đạo thì đâu có quên lời Thầy dặn Thường-niên năm 1945 nầy là phải nhớ chuyện qua rồi, phải biết chuyện hiện tại, rồi chuyện sẽ tới mới chắc không lầm, thì trong đó đen trắng mới dễ cho là khác màu; dầu gặp cảnh khổ hay là chuyện hiểm, chuyện nghèo thì mình cũng dễ cho mình là biết tại đâu mà có ra đó, thì mình mới do đó mà gỡ lần, đó có phải là định-tâm đặng tầm ra lý thì Trời đâu có xa người, người đâu dám oán Trời hờn Đất; Người cho được vậy cả thì đời có lo chi mà chẳng đặng thái bình, là mình biết tự lập lấy mình trong đó cậy ơn Trời ban bố. Thảm thay cái thân người mà người chưa biết trọng, mà lại mong bày chuyện oán Trời, vì vậy mà người phải chịu tối tăm cho người đó, mỗi con có hiểu chưa?

Vậy ngày 21-22 tới đây nhằm ngày lễ Tu-My, theo lẽ mỗi con phải nhớ ngày đó nơi lòng cho lắm, đặng dò theo trong đó mà mình lập lấy thân mình, chớ 20 năm rồi Thầy dạy có bấy nhiêu điều, ngày hôm nay đành bỏ qua thì còn chi mà nói đặng.

Đây Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài cho nhớ nghe mỗi con.

THI

1.- Lòng tin tưởng Đạo ít người
Dạ hờn gây oán ngạo cười xiết bao
Cũng vì cái thói tự cao
Cũng vì không nhận mầy tao giống dòng.

2.- Nói ra Thầy rất chạnh lòng
Là con bầy một phần đông quá kình
Chẳng rành trong lý nhục vinh
Chẳng thông thời cuộc cứ nhìn dị đoan.

3.- Thành ra một lũ hoang đàng
Ôi thôi! đành chịu vầy an cho vầy
Còn phần Chơn-Lý ở đây
Nhớ Trời tin Đạo buổi nầy thấm hay.

4.- Thấm trong lời dạy của Thầy
Hay nhường, hay nhịn tháng ngày trải qua
Dầu cho lớn nhỏ trẻ già
Kỉnh lời chơn thật đó là tự tân.

5.- Rồi trông thấy được xa gần
Thấy đời thông cuộc mọi phần vẻ vang
Tuy là nhiều chỗ gian nan
Định thần suy nghĩ rõ đàng thị phi.

6.- Ráng tu hành trọn nhơn nghì
Thầy lo sắp dựng việc chi tới lần
Mỗi con nào hiểu ráng cần
Khuyên đừng khoe mạnh thế thần cầu danh.

7.- Thỉ-chung lành giữ vẹn lành
Một lời phi lý đừng sanh ý hiềm
Biết mình êm thấm vậy êm
Ngoài ra nầy nọ bớt thêm mặc dầu.

8.- Kìa kìa rõ cuộc đâu đâu
Nhớ lời chơn thật dầu đâu cũng vầy
Đặng mình yên vững là hay
Đó là Thầy nói phận ai nấy cần.

9.- Quản bao nhiêu chuyện phong trần
Có ra rồi cũng tiêu lần đó thôi
Biết Thầy, lo Đạo là vui
Trước sau mình tự thấm mùi ngọt cay.

10.- Việc chi đừng vội phô bày
Rõ thì lo sợ có Thầy dạy thêm
Thì trong mỗi việc dễ tìm
Khỏi lo ngừng ngại dầu kim cổ đồng.

11.- Mỗi ngày rồi một vẫn thông
Ráng đừng cho thẹn tiếng Hồng-Lạc chung
Đã hay là buổi cuối cùng
Có Thầy ra chỉ chịu tùng thì nên.

12.- Quyết tu thì nhớ sự bền
Phật còn mang tám nạn đền quả công
Trước sau dò Đạo-lý đồng
Phật tuy tiếng gọi ngoài trong cũng người.

13.- Chỉ cho tường tận rẽ ròi
Mỗi con đừng vội oán Trời tội thêm
Vận truyền sang Bính-Tuất niên
Đó trong Đời Đạo thấy riêng mọi phần.

14.- Việc chi đừng tập nhắm chừng
Phải dò cho kỹ sự gần lý xa
Trọn gìn thiệt đúng người ta
Trời cao, Đất rộng Phật Ma có ngằn.

15.- Nhìn câu sổ trọn ngang bằng
Một đời ai khéo lo cần thận thanh
Mỗi con nào ráng học hành
Rõ Đời, thông Đạo vui lành lẽ chơn.

16.- Dầu lâm khổ nạn không sờn
Biết rằng ai cũng một cơn phải vầy
Gần sang Bính-Tuất năm nầy
Các điều do một cơ Thầy tỉnh qui.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho trong các khóm Đạo-Tràng, các chủ Thánh-Thất đặng cho Đạo hay chép ra mà học trả bài Thường-niên. Thầy hạn cho tới ngày 15 tháng 1 lễ Thượng-Nguơn phải trả bài cho tới ngày 15 tháng 10 lễ Hạ-Nguơn là mãn hạn.


******************

11. VẬN NIÊN NĂM ĐINH-HỢI 1947

Vận cơ ngày lẹ vô cùng

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 11 annam 1946 - 3 giờ khuya)

-----o0o-----

Nầy nầy năm Bính-Tuất, thì năm Đinh-Hợi nó cũng gần đây, cơ hội sắp mười năm thiệt đà rất lẹ. Vậy mỗi con hiện giờ đứng trong trường Chơn-Lý đây, có đứa nào hiểu trước cái mau lẹ đó không? Đây Thầy nói lại cho mỗi con nghe, kể từ năm Canh-Ngũ (1930) Thầy ra kinh Tu-Chơn, trong đó Thầy có nói cho các con hay trước là, Thầy nói: "Thầy vì con Thầy mới đến đây", là Thầy vì các con có một điểm Chơn-Linh, không lẽ Thầy đành dạ làm lơ để cho các con sa vào Ngũ-lôi Hỏa-kiếp, nên Thầy phải cạn phân lợi hại, tỏ bày cho đủ lẽ thiệt hơn. Thảm thay! nay là mãn chín năm, tới năm Đinh-Hợi đây là đủ hạn mười năm Thầy định, mà Thầy coi lại trong Chơn-Lý ít đứa chịu tuân chịu xét cho trọn mấy lời Thầy nói trên đó. Các con nhớ kỹ lại coi từ xưa đến nay dầu cho bực Thánh nào giáng sanh hóa Đạo thì cũng vì thương, vì lo cho đứa có tội nên phải hạ mình kêu gọi đặng đứa đó mau tỉnh mà tránh bớt tội lỗi hay là khỏi thì mới vui lòng. Trong kiếp Mậu-Dần đây, trong mấy năm đầu Thầy có hứa với các con là Thầy hứa như vầy:

Các trẻ ráng nghe theo lời dặn
Ráng nghe theo làm đặng như Thầy;

Đó mỗi con trong trường Chơn-Lý bất luận Nữ Nam ráng tìm kiếm cho ra lời Thầy hứa đó đừng có bỏ qua đặng ráng mà làm theo cho được ít nhiều, chớ cơ vận không thể chờ được tâm phàm, rồi tội lỗi trong đó dẫy tràng dầu có réo kêu cũng là vô ích.

Đây Thầy chỉ sơ cho mỗi đứa nào còn chút Đạo-tâm ráng nghe, ráng độ là từ năm Thầy lập Đạo-Tràng cứu thế đến giờ trong đó Thầy quyết cứu cho hết các con nên mới bày ra sự học; có học mới có thông, có thông mới có sợ, có sợ mới có lo. Vậy mỗi con coi lại cho rành, có ai học là bao nhiêu đâu? Thầy cũng được thấy rõ những đứa có học, có tin làm theo lời dạy thì cũng được sáng suốt ít nhiều, đó là tại sao mỗi con có hiểu chăng? Đó là nhờ có học, có tin làm chuyện phải nên trừ bớt tội xưa, nên mới được ít nhiều sáng suốt đó. Trái lại nhiều đứa theo Thầy cần học cũng gần được tám chín năm, vì quá tư vị tâm phàm mà bày ra chuyện nghịch Thầy phản bạn, làm cho sự sáng mấy năm nay phải đành đổi vào chỗ tối; thiệt Thầy quá tiếc quá thương, nhưng tại nó không biết tiếc, biết thương thân phận của nó nên phải chịu đành. Đây là gần ngày lễ Tu-My ngày 23 tháng 12 bước đầu năm Đinh-Hợi nên Thầy cạn tỏ trước sau chỉ bày tội phước, tự ý con nào tin trọn làm theo Thầy cũng mừng cho, còn đứa nào không tin thì nó lãnh phần không tin cho trọn.

Thầy cho ra một bài đặng mỗi đứa học trả bài năm Đinh-Hợi nghe mỗi con.

THI

1.- Vận cơ ngày lẹ vô cùng
Người không dò đặng thỉ-chung khó rành
Một câu Thầy nói làm lành
Nhiều con chưa thạo đó đành liệu sao?

2.- Lầm sa chuyện dữ chen vào
Tối tăm nào biết đâu nào dở hay
Nghĩ từ vô thỉ tới nay
Đạo Trời Chơn-Lý đâu bày chuyện hư.

3.- Tại vì người quá dể ngươi
Rồi xa Đạo-đức dồn hư mãn đời
Buổi nay Thầy tỏ cạn lời
Người ôi! đừng vội khoe lời tự kiêu.

4.- Người ôi! ráng nhớ mọi điều
Bạo hung, hiền hậu ít nhiều nghiệm suy
Dập dồn vay trả nhiều khi
Tại đâu mà có hiệp ly oan sầu?

5.- Bao giờ người biết tại đâu
Thì trong đó đặng hưởng câu thái bình
Mỗi con Đời Đạo ráng nhìn
Nhìn coi Thầy nói rõ rành thiệt hơn.

6.- Cho thường thiệt đúng lòng nhơn
Dầu cho nạn khổ mấy cơn cũng mòn
Ích gì phiền phức thon von
Mà không rành phận khó trông trọn bề.

7.- Tới lui nhiều chuyện xiêu bề
Một màu không chắc ê hề thói mê
Đó là trước vị đảng phe
Sau lầm chịu trúng dầu chê cũng rồi.

8.- Mỗi con Đời Đạo ta người
Ráng đừng cho phạm Lý Trời mới nên
Một ngày thì mỗi lớn thêm
Chất dồn danh tạm này khôn dại nầy.

9.- Bước đầu Đinh-Hợi cho hay
Các điều trong chỗ định bày tới đâu
Đặng mà cư xử cùng nhau
Phải nhìn trong một đó nào có xa.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho NĂM đặng nó in ra phát cho mỗi đứa xa gần cùng khởi sự học, ngày 15 tháng 1 năm 1947 tới lễ Tu-My là mãn.


******************

12. THẦY ĐỊNH 8 CHỮ TRONG MỖI NĂM


1) Năm Mậu-Dần 1938 Đại-hội

2) Năm Kỷ-Mão 1939 Tuần-tra

3) Năm Canh-Thìn 1940 Thầy định chữ THẢM I

4) Năm Tân-Tỵ 1941 Thầy định chữ KHỔ II

5) Năm Nhâm-Ngọ 1942 Thầy định chữ NGUY III

6) Năm Quý-Vì 1943 Thầy định chữ KHUẨN IV

7) Năm Giáp-Thân 1944 Thầy định chữ KHỐN V

8) Năm Ất-Dậu 1945 Thầy định chữ TIÊU VI

9) Năm Bính-Tuất 1946 Thầy định chữ U VII

10) Năm Đinh-Hợi 1947 Thầy định chữ BÌNH VIII

11) Năm Bính-Tý 1948 (1)


(1) Chữ BÌNH rồi mà thế gian vì lợi vì quyền mới vào có hai tháng mà thôi nên chưa cho chữ khác.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM CANH-THÌN 1940

13. Con ôi đời THẢM tới gần (1940)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 9 annam 1940 (9 giờ trưa)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

Con ôi, đời thảm tới gần (1)
Tới gần mặc tới con đừng có nao
Bề nào vậy cũng không sao
Vì trong Thầy có định giao trước rồi.

Thảm là đó vậy con ôi!
Thảm cho đứa nghịch, con ngồi xốn xang
Định giao là bế mật tàn
Khuyên con cứ thẳng một đàng vậy đi.

ĐƯỢC, Thầy cho con hay trước là vậy. Vậy con phải nói lại cho vợ con hay rồi cũng giao lại cho CA đặng nó coi đó rồi nói lại cho trong gia đình nó biết.


(1) Chữ THẢM Thầy cho hay trước, hễ sợ thảm thì đừng kiêu.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM TÂN-TỴ 1941

14. KHỔ đâu có buộc người hiền (1941)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 5 annam 1941 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Ngồi đây con giữ phận ngồi
Ngoài ra sự thế Ta Người có Ta
Con bền nhìn ngó chuyện qua
Rồi coi dẫn tới đời ra đổi đời.

2.- Đổi thay trong cũng một Trời
Dễ ai mà đặng gầy nơi chỗ hòa
Đạo thành thì cũng không xa
Người hư tệ đó cũng là lối đây.

3.- Bởi chưng đó lại như vầy
Có nghe cùng chẳng sợ Thầy với không
Chớ nên vì vậy chẳng đồng
Con ngồi đây cứ trọn không với Thầy.

4.- Không rồi thấy chuyện có hay
Là hay có vậy nào ai biết nào
Một ngày một
khổ đừng nao (1)
Vì trong cái
khổ hạng nào nấy riêng.

5.- Khổ đâu có buộc người hiền
Thầy thương Thầy nói chỉ liền con hay
Với CA bày tận Lý Thầy
Ngoài ra đừng có phô bày nọ kia.

6.- Chịu hèn, chịu dốt đời khi
Khi rồi sau
khổ cũng vì vậy ra
Giả lơ làm phận thiệt thà
Thà an phận sống ngày qua mỗi ngày.

7.- Sắp truyền cũng một thời đây
Tồn vong định phán nào sai lẽ nào
Phận con đã chán nghèo giàu
Có chi là
khổ dầu sao cũng vầy.

8.- Nói rành con rõ lại hay
Đừng quên rồi lộn rồi hay ngán thầm
Để Thường cho Thiệt tính tâm
Một Trời nơi một ai lầm tại ai;
Dặn cho con nhớ một bài
Tỏ cùng thê tử nhớ vầy vậy xong.

ĐƯỢC, bài nầy con nói cho vợ con, nội nhà hay rồi giao lại cho CA đặng nó xét đó mà nó tỏ cho nội nhà nó biết.


(1) Chữ KHỔ Thầy cho hay trước, hễ sợ khổ thì đừng ỷ.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM NHÂM-NGỌ 1942

15. Là trong thời cuộc thêm hoài chuyện NGUY (1942)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 11 tháng 5 annam 1942 (5 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Thầy thương dặn trước là vầy
Là trong thời cuộc thêm hoài chuyện
nguy (1)
Phận con bền giữ nhơn nghì
Điều
nguy, nỗi hại đâu thì ở đâu.

2.- Ở đâu gầy chuyện cơ cầu
Thì đâu đó chịu ngày lâu hết cường
Dặn con đường vững một đường
Đừng xiêu lòng sợ rồi vương nẻo nầy.

3.- Thương lòng Thầy dặn cho hay
Tỏ cùng thê tử từ đây ráng dè
Phận hèn Đất chở Trời che
Cứ nhìn sau trước chịu quê qua ngày.

ĐƯỢC, bài nầy Thầy dặn con đây rồi giao lại cho CA nó coi rồi in trả lại cho con một bổn.


(1) Chữ NGUY Thầy cho hay trước, hễ sợ nguy thì đừng cường.


******************

BÀI ĐỊNH-TÂM NĂM QUÍ-VÌ 1943

16. Là cơn nầy KHUẨN khác hơn mỗi lần (1943)

VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 6 annam 1943 (1 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Ngồi đây lòng vững một lòng
Trên Trời, dưới Đất luật công đoán bình
Chuyện Đời nhiều thói bất minh
Lòng con biết vậy chớ khinh, đừng sờn.

2.- Đặng lần qua khỏi một cơn
Là cơn nầy
khuẩn khác hơn mỗi lần (1)
Mười năm trong kiếp Mậu-Dần
Khuẩn nầy nhơn loại muôn phần thiết tha.

3.- Khuẩn xong rồi mới thấy hòa
Vì nhơn tâm bạo thành ra đỗi nầy
Lòng con biết vậy hay vầy
Ngoài ra đừng ngán có Thầy định phân.

ĐƯỢC, bài nầy con đọc cho vợ con nghe, rồi giao lại cho CA đặng nó coi đó mà hiểu lời Thầy nói rồi in trả lại cho con một bổn.


(1) Chữ KHUẨN Thầy cho hay trước, hễ sợ khuẩn thì đừng bạo.


******************

17. Thầy để ra chữ KHỐN (1944)

Ngày 23 tháng 5 annam 1944 (6 giờ sáng)

-----o0o-----

Nầy nầy mỗi con trong trường Chơn-Lý phải nhớ lại cho rành, một ngày lụn một tháng qua, cuộc Đời cơ Đạo càng thấy khác nhiều, mà cũng không qua khỏi các lời Thầy đã nói trước cho mỗi con hay là thường năm thường có dặn từ năm Canh-Thìn cho đến năm nầy là năm Giáp-Thân, có lẽ mỗi con còn nhớ ít nhiều là năm nào hễ qua ngày lễ Tam-Tôn rồi Thầy có cho hay trước đó.

Vậy mỗi con nghe Thầy nhắc vậy rồi nhớ lại thử coi; nào là THẢM, nào là KHỔ, nào là NGUY, nào là KHUẨN thì cũng trong mấy năm nay mà Thầy nhắc lại đây coi lại ít đứa nào nhớ cho trọn đó, lại còn phần không kể không nhớ là khác.

Vậy năm nầy Thầy để ra chữ KHỐN đó, đặng trừ cái Thói Mạng, là cái thói của bọn võ-phu hay kiếm điều cãi bàn dối trá, thì mỗi con có tu có học ráng dặn nơi lòng, chớ thói võ-phu với phàm-phu nó cũng là qua lại trong đó, dầu cho Đời hay là Đạo nếu không xét Lý thì phải sai lầm; ngày hôm nay Thầy nhắc vậy, chỉ vậy đặng mỗi đứa ráng dò lại cho hết các lời Thầy thì mới biết Thầy vì thương mà nói, chớ không phải vì ghét mà bỏ liều.

Đây Thầy hỏi sơ một tiếng nầy rồi mỗi con nghiệm cho cùng tiếng đó, mỗi con có lẽ cũng thường nghe cái tiếng thế-gian thường hay gặp việc chi trước tại cái lời ngay, sau bị vào chỗ Khốn thì cho là đáng kiếp, cái tiếng đó mỗi con nhớ lại coi ai nói đó tại sao mà phải nói vậy, thì mỗi con nghiệm thấy rõ ràng rồi nhớ lại lời Thầy nói trước cho hay là "ví bằng kiếp số đến ngày" đó rồi gẫm lại coi những các điều khốn đó có đáng hay là không? Thì trong kiếp sống của mỗi con đây mới chắc sao lành sao dữ, Trời cao Đất rộng, Người mạnh tới đâu, Đạo-lý cơ mầu thưởng răn nào sái, đó Thầy hỏi rồi chỉ sơ chút ít đặng mỗi con thấm lại cho cùng, chớ việc cả thế-gian Thầy không thể nào nói cho nhiều đặng, đã biết vậy mà tự lòng mỗi con ít nhiều trong đó, đó tại tin với không tin, dầu Thầy có nói cho nhiều mà lòng mỗi con cứ lo gìn thói mạng thì nói cũng như không, còn Thầy nói ít mà mỗi con nghe trọn xét mình thì hóa ra nhiều chỗ biết.

Vậy ngày nầy là ngày Thầy cho ĐƯỢC nghỉ tại Cảnh Vô-Vi thường năm thường có, nên để ra lời nói mỗi con đừng tưởng vậy mà chơi rồi vương vào tội lỗi nghe mỗi con.

THI

1.- Đạo tuy là Đạo của Trời
Trời thương Trời chỉ cạn lời phải chăng
Trước sau trừ chế có ngằn
Đạo Đời hai ngã ngang bằng sổ ngay.

2.- Bởi vì nhiều chỗ chưa hay
Nhiều nơi thường nói Đạo nầy Đạo kia
Cãi bàn tranh luận xiết chi
Rốt rồi thành chuyện hiểm nguy cho mình.

3.- Chưa tường Chơn-Lý chánh minh
Đạo Trời khai hóa vẫn
tin thiệt thường
Cũng trong
kiêu ỷ tới cường
Rồi sanh tàn
bạo đâu tường phải chăng.

4.- Tung hoành vu mạng hiền nhơn
Đạo Trời trông thấy lắm cơn ngậm ngùi
Thảm sầu mà tưởng vầy vui
Khổ ngày thêm lớn lại đua nhau giành.

5.- Nạn nguy nhiều lúc tan tành
Rồi lâm cuộc
Khuẩn thôi đành phải tiêu
Khốn lây vì để người nhiều
Đạo Trời phân đoán dò theo mới tường.

6.- Mỗi con cần nhớ bước đường
Là năm Thầy lập tinh-thần Vạn-Linh
Trước sau đừng tính gập ghình
Hòa nhau một lý tâm bình tỉnh thông.

7.- Đó là rõ Đạo nhờ công
Quả bền chung học cho đồng chớ sai
Vẻ vui ngày đẹp thêm hoài
Của Trời cho sẵn đức tài hạnh chơn;
Trong tuần Ngũ-Ngoạt Giáp-Thân
Mỗi con nào biết tự tân ráng gìn.


Bài nầy giải nghĩa chữ KHỐN.


******************

18. Thầy cho ra một chữ TIÊU (1945)

Ngày 23 tháng 5 annam 1945 (3 giờ chiều)

-----o0o-----

Trong giờ nầy Thầy giáng bút đặng tỏ cho mỗi con dầu Nam dầu Nữ, có học có tu chẳng ít cũng nhiều trong trường Chơn-Lý đây, kể từ ĐƯỢC ra lãnh phận sự Hiệp-Thiên-Đài Tam-Tôn chánh-vị, thì mỗi con nhớ lại coi có phải là 8 năm rồi. Vậy phần đông mỗi con Thầy xét lại ít đứa để trọn lòng tin vào đó, rồi làm sao mà nhớ cho hết mấy lời mấy chữ Thầy để theo mỗi năm. Nếu không nhớ vậy làm sao mà biết sợ biết lo, đúng năm nầy là năm Ất-Dậu Thầy cho ra một chữ TIÊU đặng trừ thói nghịch. Dầu nghịch Trời, nghịch Đất, nghịch Chúa, nghịch Cha, nghịch Thầy thì cũng là trong tội nghịch.

Vậy mỗi con nghe Thầy nói đó xét lại mình coi có vướng vào tội nghịch nào không? thì mới dễ cho mình trong phận làm người mà khỏi vướng tội nghịch trái đó. Đây Thầy cũng vui lòng cho một bài văn vần đọc tiếp hiểu thầm trong trí nghe mỗi con.

THI

1.- Người ta sanh ở dưới Trời
Phạm trong Ngũ-nghịch phận người còn chi
Rõ ràng lời Thánh có ghi
Học nhiều không kể tội khi tấp vào.

2.- Mỗi con Thầy dạy từ nào
Tùng qui chánh Đạo cần trau xét mình
Mở lời ai cũng trọn tin
Gạn ra từ khoản khó in như lời.

3.- Con ôi! người ở dưới Trời
Nói ra còn dối sợ Trời hay khi
Vậy rồi con mỗi xét đi
Đặng chừa cho dứt tật khi tâm thần.

4.- Chớ nên bàn tính hẹn lần
Trời đâu có vị theo trần tục đâu
Nghịch Thiên là tội đứng đầu
Thờ Tâm-Nhãn Đạo tại sao dám vầy.

5.- Nếu rằng Trời Đất chẳng hay
Ngoài ra còn có gọi ai biết Trời
Tại vầy nhiều đám dể ngươi
Nhiều nơi dồn dập khổ đời nạn lây.

6.- Còn phần Chơn-Lý ở đây
Quyết lòng theo Đạo nhớ Thầy độc tôn
Đặng tin nhìn chủ Tam-Hồn
Đặng gìn tâm lý giữ lòng thuận xuôi.

7.- Con ôi! Thầy quá ngậm ngùi
Vì trong số nghịch lâu rồi quá đông
Ít ưa lời phải dặn lòng
Ưa điều ngang ngược ngoài trong chống kình.

8.- Chi chi thì cũng ỷ mình
Nầy mưu nọ kế không nhìn lẽ chơn
Sa hầm lạc hố nhiều cơn
Tới nay còn vọng ý nhơn thắng thời.

9.- Cho nên Thầy phải ngậm ngùi
Vì thương để dạ Luật Trời khó dung
Mỗi con nào quyết thuận tùng
Thì an bề giữ Đạo trung chí thành;
Rồi trong mỗi việc thấy rành
Trời ban sự sáng ngày sanh vẻ mầu.


Bài nầy giải nghĩa chữ TIÊU.


******************

19. Kiếp đời cam chịu cảnh U tới cùng (1946)

Ngày 14 tháng 5 annam 1946 (3 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy:

1.- Thầy quyết lập cơ mầu qui nhứt
Thế tình chưa rõ luật tuần huờn
Cứ giành cho một mình hơn
Mà không dè thiếu sự nhơn khó thành.

2.- Rồi biến sự ghét ganh hờn lộn
Quỷ quyệt bày mưu chống kình nhau
Quá hung rồi phải hóa sầu
Kiếp đời cam chịu cảnh
U tới cùng.

3.- Vì vậy biết đâu rằng chuyện phải
Mặc tình lo tính vậy ưng rồi
Quá buồn cho gọi là vui
Đó là
u ám nghe rồi ngẩn ngơ.

4.- Vì cơ vận ngày giờ sang tới
Hạn mười năm Thầy nói lâu rồi
Sắp bày cho trọn đầu đuôi
Dữ lành phân định cần nơi rõ chừng.

5.- x Phận con nầy chín năm gần
Tới đâu cần định tâm thần rõ thông
Dầu ai ganh ghét mặc lòng
Để phần riêng tự ai dùng nấy lo.

6.- Trải qua nhiều chuyện reo hò
Đạo Đời chen lấn ta người đảo điên
Đây năm Đinh-Hợi phỉ nguyền
Hiện đây Thầy nói độ liền hiểu mau.

7.- Ráng dò học hỏi từ câu
Mấy năm về trước nghiệm cầu lý sau
Thì trong rõ luật Thiên-Tào
Rõ điều nhơn nguyện dụng mầu nhiệm linh.

8.- Lần lần tiêu trưởng hư vinh
Một phen nầy khó phê bình thị phi
Trọn phần Đạo-lý Vô-Vi
Phận con gìn trọn điều chi có Thầy.

9.- Khó khăn vầy chịu phải vầy
Nhìn ra rồi thấm sự hay của Trời
Chỉ cho con nhớ vậy rồi
Trao bài NĂM đọc rõ thời cuộc chung.


******************

20. Trở rồi sau mới Bình-phân (1947)

Ngày 22 tháng 5 annam 1947 (3 giờ khuya)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:

1.- Con phải biết mười năm Thầy định
Định cho con tùng lịnh thi hành
Đặng làm cho trí huệ sanh
Đặng cho Đời rõ mối-manh Đạo-mầu.

2.- Đời tại quá ham mùi vật chất
Vì vậy nên còn mất không rành
Đến cùng còn luyến cạnh tranh
Ôi thôi! đời mạt kiếp đành hết trông.

3.- Thầy thiệt quá thương lòng trong đó
Xét từ câu châm chế đủ điều
Ngặt vì người quá tinh yêu
Khó bề thâu dụng, bỏ liều quá đông.

4.- Đây Thầy định trước phòng con nhớ
Cuộc đời tuy day trở không chừng
Trở rồi sau mới Bình-phân
Đó là Tạo-Hóa luật cân đoán hành.

5.- Thành tựu thấy Đời thanh, Đạo thới
Thì mới hay rằng tới luật nầy
Ráng mà định nhớ từ đây
Ráng coi Trời sắp, Trời sai khiến cần.

6.- x Thì trong chuyện khó dứt lần
Mới hay là luật Hình phân có Trời
Hiện giờ cười khóc nơi nơi
Là cho trọn thấm buổi đời dại khôn.

7.- Còn phần Chơn-Lý vẫn thông
Thì lo bề vững đặt trong chí thành
Việc chi cần ráng xét rành
Cần năng nghiệm lý thiệt hành đừng quên.

8.- Mỗi bài căn dặn thường niên
Ráng coi rồi hiểu sự khuyên bảo đồng
Thỉ-chung lòng chắc một lòng
Bợn nhơ đừng vấy ngoài trong phỉ nguyền.

9.- Rõ Trời Phật giải nhiều phen
Giải cho người hết đảo điên thuận hòa
Chán chường đó vậy gần xa
Đó là Thầy chỉ đặng ra sức tìm.

10.- Phận con niềm ráng trọn niềm
Với CA vừa vẹn, NĂM liền thế đây
Trước sau nhìn một Lý Thầy
Mới là không thẹn râu mày tuổi tên.

ĐƯỢC, bài nầy con coi rồi nói lại cho vợ con nó hay, rồi cũng giao lại cho NĂM một bổn, đặng nó coi rồi nói lại trong gia đình nó biết.


******************

LỜI TIÊN-TRI TAM-TIỂU-THỜI

21. Ngọc-Đình sắc tứ Luật điều qui


NGỌC Đình sắc tứ Luật điều qui
HOÀNG lịnh xa thừa kẻ tự khi
ĐẠI-Kiếp Đại-Thành kỳ tám chục
ĐẾ ân rộng mở Cảnh Vô-Vi.

Nền Đại-Đạo trang bằng rất quý
Mối Vô-Vi Âu Mỹ đương tìm
Thương con Thầy dạy tất tim
Sao con nỡ để sắn bìm phủ leo;
Thương con Thầy chỉ lái lèo
Con đành hơ hỏng cái dèo gió dông.

CHƯỞNG quyền thưởng phạt thay Trời
GIÁO truyền Đại-Đạo độ người trầm luân
THIÊN-Điều mắc mỏ muôn phần
TÔN đường Chơn-Lý gặp xuân tư mùa.

CHÚ GIẢI

Bài nầy đến ngày 15 tháng 12 năm 1944 ban hành đầu giờ cúng Tứ-Thời cho đến sau thì thấy có hiệu nghiệm nhiều vì Thầy làm Cha Thiêng-Liêng không muốn thưởng phạt Đại-đồng thế-gian.

KHƯƠNG lãnh lời vàng Chưởng-Giáo-Tông
THÁI thanh ráo lưỡi viện Hàng-Long
CÔNG tâm giúp vững An-Thiên-Hội
Giáng điển chung lo buổi rắn rồng.

Chào chư Thiên-mạng.

Từ đây Tạo-Hóa một lò
Rèn gươm Chơn-Lý diệt trò Quỷ-vương.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

13.- Rằng ở thế bạc tiền là quí
Thử đem lo với quỷ vô thường
Chi bằng tích đức tu nhơn
Dày công bố thí thập-phương giữ giùm.

14.- Trời rộng lớn bao trùm sông biển
Chẳng sót ai một chuyện ở đời
Tu hành lo học làm Trời
Phải nào kiếp kiếp làm người thế-gian.

15.- Lão đây hiệp toàn ban La-Hán
Rằng trước sau sẽ giáng phàm trần
Thay Thầy lập Đạo hóa dân
Những điều sẽ dạy khuyên cần chỉ theo.


******************

22. Hồn nào quá nặng đày ra nơi khóm Hải-quần

Ngày 6 tháng 5 annam 1938 (12 giờ khuya)

-----o0o-----

KHƯƠNG lãnh chơn truyền giáng Hiệp-Thiên
THÁI phân tu niệm độ Chư-hiền
CÔNG khanh Bác-ái tầm nhơn lộ
Giáng hộ Linh-đàn hỷ vạn Tiên.

Trước Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi, Lão kính chào Hàng-Long Chơn-Tánh, Bửu-An-Thiên, chào chư vị Đại-Tiên đồng vui cho thế cuộc cơn an rồi biến, lúc biến lại an. Hiện nay Lão vưng lời Từ-Phụ lãnh quyền Chưởng-Án tại Tòa-Thánh Định-Tường là nơi phán xét; thảm thay dòm vào sổ bìa đen ghi đầy tội lỗi, đã vậy mà nơi Lịnh-Tòa còn sửa soạn lo tuyên án rất nhiều; Lão dòm thấy quá buồn cho thế cuộc, ham chi danh lợi rồi Linh-Hồn phải chịu Luân-hồi, cho đến đỗi Ngũ-lôi tiêu diệt là khác nữa. Hiện nay bốn phía khói bay, năm Thần vỡ chạy, chạy đặng chi? Chạy đặng tìm kiếm các Chơn-Linh sa ngã vào ác nạn đều cũng còn biết ăn năn. Tại vậy nên Từ-Phụ sai năm Thần ấy ngày đêm chẳng nghỉ, kẻ đi chỗ này, người đến chỗ kia đặng dẫn các Chơn-Linh ấy đem về Đài-Châu-Thiên đặng cho Thầy phán xét. Hồn nào nhẹ tội cho tái kiếp tu hành đặng lập đời sau cho yên ổn. Hồn nào quá nặng đày ra nơi khóm Hải-quần đặng làm tôi tà quái mà lo trả quả cho rồi. Còn các hồn chưa trọn giác tâm thì phú cho Ngũ-Lôi tiêu diệt.

Chư-hiền ôi! Chư-hiền rất có duyên, có phước nên ngày nay còn đứng vững trong Chơn-Lý đây. Vậy Lão khuyên Chư-hiền ráng lo Công-quả chớ nên kình chống, so đo rồi sanh ra ác cảm, tội ấy có ai thế đặng không? Tại vậy nên Đông-Phương-Sóc Người có tiên tri trong lúc trước đó.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

CHÚ GIẢI

Đức Khương-Thái-Công là một vị Đại-Thần làm tay mặt hay là tay trái của Đức Chí-Tôn. Ngài chấp chưởng ba vật báu của Trời:

1- Đả Thần-Tiên.
2- Hạnh-Huỳnh-Kỳ.
3- Thái-Cực-Đồ (đỏ, vàng, xanh).

Báu Thái-Cực-Đồ (đen, trắng, tím, ngôi Vô-Vi Cảnh) cho nên An-Thiên Đại-Hội kỳ nhứt Ngài có quở mấy anh T.N:

Dầu cho mình đá dạ đồng
Đả Thần-Tiên xuống cũng không còn hồn.

Qua Canh-Thân (1932) lập Tòa-Thánh Trung-Ương, Ngài mở đàn có biểu hiệu Hạnh-Huỳnh-Kỳ. Đến năm Quý-Dậu kỷ niệm An-Thiên Đại-Hội, Ngài có xướng Thái-Cực-Đồ giữa Đàn, tại Châu-Thiên-Đài khánh thành thì có bàn thờ của Ngài ở giữa dưới ngọn đèn Thiêng-Liêng lục giác màu xanh, công lao của Ngài với Đạo rất lớn lao và công giáo hóa của Đức Sư-Tôn cũng rất to tát.


******************

23. Nầy Nam Nữ Chư-hiền nghe dặn

Ngày 3 tháng 6 annam 1938 (11 giờ trưa)

-----o0o-----

CHƯỞNG-Quản ba mươi sáu cửa Trời
ÁN từ phân định khắp nơi nơi
THIÊN công Luật cả tu thì hưởng
THẦN Đạo nào dung tội khuấy Đời.

1.- Nầy Nam Nữ Chư-hiền nghe dặn
Phải kiêng lời Trời đặng răn người
Hiện giờ cả thảy các nơi
Tại không tuân Luật, khuấy đời mới hư.

2.- Người Nam-Việt phước dư Trời để
Dạy tu hành học để sửa mình
Nhiều tay lại muốn hoành tung
Ấy là vô cớ tại mình gây oan.

3.- Ta nay hiệp toàn ban La-Hán
Xuống phàm trần Chưởng-Án thay quyền
Lời khuyên khắp cả Chư-hiền
Khá mau hối ngộ khỏi phiền khỏi than.

4.- Tây-Ninh trước vì mang tội lỗi
Chuyển Hậu-Giang lập Hội độ Đời
Lần lần sanh chuyện lả lơi
Vậy nên cơ Đạo định thời Trung-Ương.

5.- PHÙNG ỷ sức nên vương tội lỗi
Còn mình CA khó nổi lập thành
Hàng-Long phải chịu giáng sanh
Hiệp thân với ĐƯỢC ngày lành tháng hai.

6.- Đặng giúp việc đủ hai Chưởng-Quản
Thảm cho CA gần mãn kiếp trần
Cũng nhờ Từ-Phụ ban ân
Cho CA tăng thọ trọn phần hai năm.

7.- Ngày nay Lão ra cầm mối Đạo
Hiệp Hàng-Long sửa bạo ra hiền
Còn phần của Bửu-An-Thiên
Thì lo sắp đặt lãnh riêng phần Đời.

8.- Đặng qui hiệp các nơi một chỗ
Lo học hành mới rõ Đạo Trời
Nếu ai còn tánh lả lơi
Ta e khó tránh khỏi nơi tội hình.

9.- Vào Bửu-Điện ráng nhìn cho kỹ
Lịnh của Thầy cặm giữa Trung-Ương
Ngoài kêu là hiệu
Định-Tường
Đặng cho Đời rõ
Ngu-Đường trị dân.

10.- Nam cùng Nữ nghe phân tự xét
Xét cho rành lẽ thiệt điều hư
Quyết tu trước phải thiện từ
Nếu mang ác cảm ai trừ TỘI cho.

Ta xin kiếu.

Thăng.

******************

24. Hiện nay chuyển phạt Đại-đồng

Ngày 3 tháng 4 annam 1940 (6 giờ chiều)

-----o0o-----

Nầy mỗi con nghe Thầy dặn:

1.- Hiện nay chuyển phạt Đại-đồng
Lớp qua lớp tới một vòng này đây
Con nào muốn khỏi vòng nầy
Thì tuân lời dặn của Thầy đừng quên.

2.- Dặn là dặn cho bền tâm tánh
Đừng hớ hinh kiêu hãnh theo phàm
Đó là dặn cả Nữ Nam
Quyết tin thì buộc nhớ làm cho y.

3.- Trong một hội Tam-Kỳ luân chuyển
Là luân phiên cơ chuyển ra hoài
Chuyển tuần nầy rủi nọ may
Cả nhơn quần loại chẳng sai chẳng lầm.

4.- Mỗi con ráng hồi tâm nghiệm xét
Lý xa gần nầy thiệt nọ hư
Chớ đừng húng hính nhàn cư
Rồi sau ngửa mặt khó trừ tội khi.

5.- Tội khi đó thường ghi hằng bữa
Thầy ngó qua phân nửa Hoàn-cầu
Tại vầy nên phải chịu lâu
Là do lừa gạn trước sau có phần.

6.- Trước có phải sau lầm còn dễ
Sau biết lầm chẳng kể tại thêm
Hằng ngày thế sự khó êm
Vì lo chạy kiếm phương tìm cứu nguy.

7.- Chạy kiếm thuốc mà khi thầm tưởng
Tại vầy nên tội vướng hai đàng
Dập dồn khổ nọ nào an
Nên Thầy thường dặn phòng toan xét mình.

8.- Tiếng Thầy dặn không nhìn không kể
Cứ kể theo tình thế ngạo cười
Cho nên đồng tội khi Trời
Lớp qua lớp tới chẳng rời tại khi.

9.- x Mỗi con nào muốn tu trì
Thì lo bớt chuyện tự khi cho rồi
Đặng rồi thong thả con ôi
Con ôi! Thầy nói lâu rồi nỡ quên.

10.- Tu trì cho trọn là nên
Nên người hạnh đức mình riêng có phần
Chớ đeo chớ luyến nợ nần
Là theo dựa thế dựa thần chẳng xong.

11.- Thế chi tránh khỏi Đại-đồng
Thần thông tà thuật Luật Công chẳng vì
Thế thần cho quá rồi khi
Là cho Đạo-lý Vô-Vi biết tài.

12.- Mượn quyền thế lực là hay
Ham thần thông đúng có ngày phải vương
Ỷ cho đó vậy là cường
Cường vô quá lý lẽ thường chẳng sai.

13.- Khinh khi là gọi khoe tài
Khoe tài hại chúng gầy tai nạn nhiều
Nói ra cho rõ các điều
Đặng cho mỗi đứa nhìn theo thấy rành.

14.- Ngày nay Chơn-Lý đạt thành
Là nơi Thầy chọn giống lành để sau
Con nào sớm biết tỉnh mau
Thì lo dẹp bớt lời cao tiếng cường.

15.- Đặng lo an phận thủ thường
Gìn nơi Đạo-đức là phương cứu mình
Chớ đừng chê Đạo chẳng vinh
Mà quên chịu nhục lánh mình khỏi tai.

16.- Tuy là nhục ở bề ngoài
Còn trong vinh diệu nào ai biết vầy
Vì chưng ỷ chắc có Thầy
Tại lòng mơ mộng tưởng hoài sự tham.

17.- Chẳng dè chẳng biện mà ham
Vì cơ chuyển lập Kỳ-Tam lạ thường
Lạ vì không dụng cang cường
Thường đem Lý thiệt nhịn nhường dỗ khuyên.

18.- Nên chê rằng vậy quá hiền
Không vừa ý muốn sự riêng thói đời
Tại vầy mà dám dể ngươi
Vì không biết sợ Lý Trời là Không.

19.- Không không mà phủ bao đồng
Gạn riêng phần dữ một lồng nhốt chung
Vì cơ vận khí cuối cùng
Nên Thầy mở Đạo lựa dùng kẻ nhơn.

20.- Tại vầy mà chẳng khác hơn
Vì nhơn thắng bạo phần hơn sẵn rồi
Ráng lo Đạo-đức vun bồi
Bồi cao nền vững khỏi sùi sụt hư.


CHÚ GIẢI

Nước Đức khởi chiến bên Âu-châu tới năm 1944 mới có hòa bình (coi Vận-niên năm Canh-Thìn 1940) bài "An an biến biến đổi dời"


******************

25. ĐỒNG MINH

Tốt quá không gìn tốt phải hư
an sao chẳng nhớ nhơn từ
Ngày nay thấy vậy ngày nay biết
Nhơn
ngã cho bằng Đạo-lý dư


******************

26. CUỘC CỜ

Ngày 6 tháng 7 annam 1941 (12 giờ khuya)

-----o0o-----

1.- Cuộc đời càng ngó tới đâu
Ngó rồi dò Đạo-lý sâu nhiệm mầu
Ngó coi nầy thảm nọ sầu
Ngó cùng coi lại thì đâu cũng Trời.

2.- Tại cơ gầy dựng sửa Đời
Đời không nhìn nhận nên Trời quá thương
Quá thương nào phải sự thường
Bi thương Đời Đạo cang cường tự do.

3.- Thương nhiều vì nạn lớn to
Cũng là tại bởi sánh so lợi quyền
Cho nên cuộc đó chẳng hiền
Rồi trong đời đó chịu điên đảo hoài.

4.- Một Trời mà Lý có hai
Là hai điều thưởng phạt ngay buổi giờ
Thế-gian thường nói cuộc cờ
Mà cơ đắc thất hiện giờ chẳng minh.

5.- Chẳng minh mình buộc rối mình
Là không rành cuộc rồi tin chẳng nhằm
Cuộc cờ càng ngó càng thâm
Ngó mà quên xét ai làm có đây.

6.- Ngang bằng rồi lại sổ ngay
Thẳng băng rành rạnh phận ai nấy chừng
Tại đâu mà phải tưng bừng
Nầy Xe, nọ Pháo, Ngựa dừng, Chốt ngăn.

7.- Chẳng tuân sổ thẳng ngang bằng
Giành xuôi lấn ngược rồi lăn lộn lần
Lâu ngày họa kết cơ thâm
Rồi đâu cũng có sự hăm hở trừ.

8.- Trừ hoài không dứt lại dư
Mà quên ngày trước ý tư tạo thù
Quá chừng Trời giáng dạy tu
Cuộc Đời không đếm cứ đua vậy hoài.

9.- Cho nên ngày mỏn thêm hoài
Mà trong cuộc đó tưởng vầy gọi cao
Không dè làm trước thiếu sau
Chừng coi trở lại thì đâu cũng mòn.

10.- Chỉ rành cho đó vậy con
Con bền an một lòng son sắc thường
Cuộc lâu ngày thấm suy lường
Cơ Trời không vị, không nhường đám ngang.

11.- Chuyển xây rồi lập vững vàng
Nhưng đều khó lộ cho hàng đảng phe
Định thần Thầy nói con nghe
Cuộc đời gay trở éo le lạ lùng.

12.- Gây hoành rồi trở lại tung
Có lòng le lưỡi cũng chung cuộc nầy
Phải chi đồng đến lạy Thầy
Thì đâu có chuyển lưng đầy đổi thay.

13.- Tại vì ỷ mạnh cùng hay
Quên Trời sanh mạng mới lây nạn nhiều
Giờ khuya Thầy tỏ mọi điều
Trao lời CA rõ dò theo đó làm.

ĐƯỢC, Thầy dạy con định-tâm giờ Dậu, rồi giờ Tý Thầy chỉ cho con coi, còn giờ Mẹo Ngọ hai giờ trải lần lần tới phần đó độ đây sẵn Thầy trong đó.


******************

27. HOAN BI THẾ CUỘC

Ngày 6 tháng 9 annam 1938 (4 giờ chiều)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con chấp bút cho Thầy dạy con viết ra một bài gọi là: "HOAN BI THẾ CUỘC" đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu-Thiên-Đài mà phán xét các điều tội phước. Bài như vầy:

THI

1.- Châu-Thiên, Hiệp, Trùng-Đài cao vọi
Thầy giáng lâm Đại-hội Chư-Thần
Xét rành tội phước cân phân
Căn lành kiếp đọa thưởng răn đủ điều.

2.- Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
Đứa thì ngày trước dày công
Có tu mà lại có trông chuyện xằng.

3.- Có đứa muốn siêng năng làm phải
Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
Vì mê ma quỷ lả lơi
Tại vầy nên chẳng biết Trời là đâu.

4.- Phần quyết tính chơn tu thì ít
Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
Thầy xem thấy rõ đủ điều
Các nơi động phủ thảy đều về tâu.

5.- Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
Cả thảy nhìn vào án Ngũ-lôi
Cơ quan Máy-Tạo sửa đời
Luân qua chuyển lại đổi dời Hồn thay.

6.- Làm như vậy kịp ngày giờ phán
Dựng nên đời bỏ oán theo hiền
Tuần huờn Tiên, Hậu nhị Thiên
Đồng chung qui tại Châu-Thiên một bầu.

7.- Ai sớm biết hồi đầu sum hiệp
Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
Nếu còn lòng dạ tư riêng
Đạo chưa tới Đạo thấy liền yêu ma.

8.- Chớ lầm tưởng Người Ta là vậy
Người Ta nhờ tin cậy chủ nhà
Chủ nhà chẳng ở đâu xa
Là nơi Thầy định gọi là Chủ-Ông.

9.- Chủ-Ông đó là không đặng thấy
Còn thấy đây là thấy Cái Người
Cái Người nó ở phần đời
Đời nên nhờ chỗ sợ lời Chủ-Ông.

10.- Ta là chỗ có không còn mất
Ta lo gìn sự thật cho người
Cái Người nương đó phá đời
Cái Ta lại cậy cái Người là đây.

11.- Thầy chỉ tắt khoản nầy cho rõ
Trời có mây, Đời có Ta Người
Trời cao Đất rộng muôn đời
Đời quên Trời Đất hại người nào hay.

12.- Trời cao vọi mây bay từng dưới
Người đối Ta, mây đối với Trời
Ta đây cũng tỷ như Trời
Người như mây phủ cho đời lập công.

13.- Người phải rõ phải thông mây gió
Mây gió là chỉ chỗ sang hèn
Đủ màu xanh đỏ trắng đen
Là nơi màu sắc tục quen tranh giành.

14.- Chẳng lo hiệp lập thành Chơn-Lý
Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
Đọa đày khổ hạnh liên miên
Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy.

15.- Người Ta hiệp là thương nòi giống
Chẳng giết nhau đặng sống lâu dài
Người đây Ta đó có Thầy
Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên sa.

16.- Người muốn hiệp còn Ta không muốn
Là cái Ta nó chống lại Người
Ta nghe, Người cãi viện lời
Đó là tại chỗ cái Người cự Ta.

17.- Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẵn
Mà chưa xong một khoản Ta Người
Chê bai cười nói lả lơi
Vì vui, vì giận quên Người, quên Ta.

18.- Năm nầy đến kỳ ba Tam-Tiểu
Cả thế-gian còn thiếu đoạn nầy
Tranh giành ỷ giỏi khoe hay
Mà quên trong đó tao mầy hại nhau.

19.- Tại không nhớ mầy tao một giống
Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
Đã đành máu chảy thây phơi
Nhìn coi thấy rõ Đạo Người còn chi.

20.- Thầy chép để "HOAN BI THẾ CUỘC"
Vui với buồn lặn hụp sông mê
Đứa kêu đứa rủ đề huề
Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau.

21.- Sóng cuồn cuộn đua nhau hỉ hả
Chừng mỏn hơi thịt rã xương chìm
Một lằn nước đục đỏ thêm
Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà.

22.- Chác tội lỗi gầy ra quá ngán
Luật Chí-Công xử đoán thêm buồn
Tiếc gì mà chẳng chịu buông
Buộc đeo cho nặng trầm luân lại mừng.

23.- Thầy xem xét oan ưng các lẽ
Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
Ngọc-Kinh là chỗ Thiên-Đàng
Ít người dám đến vén màn lạy Cha.

24.- Lại ưa đến trần sa địa ngục
Kẻ đuổi xô mạ nhục lại gần
Đổ thừa thân hữu khổ thân
Khổ thân là chỗ ân cần học tu.

25.- Vì không rõ chữ ngu, chữ trí
Tại không thông chữ Lý, chữ Quyền
Đổ thừa viện lẽ ý riêng
Đặng cho vào sổ bìa đen cho nhiều.


******************

28. NẤU ĐÁ VÁ TRỜI

Ngày 9 tháng 7 nhuần annam 1938 (6 giờ tối)

-----o0o-----

ĐƯỢC, con sửa bài cho GIÀU đi đặng trả lại cho nó học. Vì bài đó nó làm nhầm Lý, mà câu nói không thông. Nên con phải sửa lại, trong đó có Thầy giúp cho.

SỬA

Xưa nấu đá vá Trời còn được
Nay há không giỏi bước tập rèn
Dày công muôn việc phải nên
Đào sông trồng núi vụ bền công phu.

Giải nghĩa câu đầu:

1.- Xưa để tích Cửu-Thiên nấu đá
Luyện ra đồ đặng vá Trời thưa
Ấy là lời cũ chuyện xưa
Lưu ngôn để lại ngặt chưa người rành.

2.- Nay Thầy chỉ ngọn nhành trong đó
Cửu-Thiên xưa chịu khó giúp Trời
Ra công truyền Đạo khắp nơi
Làm cho lũ nghịch rõ lời u vi.

3.- Vì bọn đó khinh khi Trời Phật
Nên phải vương vào luật đọa đày
Dập dồn xiết kể nạn tai
Cửu-Thiên thấy vậy ra tay vá Trời.

4.- Vá là dạy chớ rời tâm tánh
Hiệp hòa chung sửa hạnh khiêm từ
Chỉ rành thiệt thiệt hư hư
Thưa mà không lọt cũng như vá Trời.

5.- Chỉ rành rẽ mọi lời báo ứng
Đem Luân-hồi bằng chứng hiển nhiên
Hồi tâm kẻ bạo ra hiền
Cứng khư tợ đá nấu liền chảy tan.

6.- Dùng ngọn lửa ngày càng thử thét
Lửa không hình lẽ thiệt lời ngay
Thiệt ngay chỉ dạy hằng ngày
Kinh qua sám lại phô bày thảm thương.

7.- Làm cho lũ bạo cường vỡ mật
Mới rõ Trời là luật vô tư
Biết lo, biết sợ, biết chừa
Biết kiêng lộng lộng Trời thưa chẳng lầm.

8.- Chừng được tám trăm năm bịnh trì
Đạo-tâm sanh tà mị diệt lần
Hây hây cảnh tượng Trời Xuân
Bốn phương phẳng lặng quốc dân an nhàn.

9.- Lần lần chuyển biến an thay đổi
Nhơn tâm còn sôi nổi ra nhiều
Người thời tưởng tượng Thuấn Nghiêu
Kẻ mang tàn bạo quỷ yêu chen vào.

10.- Gây ra cuộc phong trào tranh đấu
Thất chơn-truyền Đạo-giáo lầm sai
Người tu ỷ giỏi khoe tài
Người đời khoe mạnh, khoe hay cãi Trời.

11.- Cả hai thảy Ta Người chia rẽ
Bởi tại tham quên kể Đạo người
Người sao trở lại giết người
Tại vì người tưởng có Người không Ta.

12.- Người tưởng vậy thành ra người dữ
Dữ đây rồi trở lại hại người
Chết nằm máu chảy thây phơi
Cũng vì quên chỗ mạng Người như Ta.

13.- Thầy nhìn thấy bỏ qua không nỡ
Khai Đạo-Tràng đặng sửa tánh phàm
Khắp cùng cả thảy Nữ Nam
Ráng nghe lời dạy đặng làm cho y.

14.- Còn những đứa tự khi chia rẽ
Thầy trước lo dành để nơi rồi
Đại-đồng là kiếp Ngũ-lôi
Thưởng răn tại thế người cai trị người.

15.- Chớ thầm tưởng Luật Trời không có
Có cùng không chỗ đó với Trời
Ngoan ngôn cường ngạnh phá đời
Đáo đầu ngửa mặt trách Trời không thương.


29. CHÚ GIẢI

Bài nầy rút trong kinh Nhựt-Trung hai vé đầu, Thầy dạy như vầy:

Thẳng một mực theo đường Chơn-Lý
Vẻ vang thay nhựt chí đương trung
Rạng ngời khắp cả non sông
Tuần huờn võ-trụ vô cùng vô biên.

Tiếng khen tặng Nghiêu-Thiên Thuấn-Nhựt
(Nghiêu là Trời, Nhựt là Cửu-Trùng-Thiên)
Hưởng thái bình nhờ Đức Chí-Công
Ban cho điểu thú côn trùng
Ấm no thân thể vẫy vùng thảnh thơi.

Còn bài Thầy giải nghĩa trên đây xin đọc giả xem trong Tam-Kỳ Thánh-Huấn. Các vé lục ra sao nầy thì mới rõ đầu đuôi.


1- NHỨT-KỲ PHỔ-ĐỘ

- Thái-Thượng sửa tánh phàm tà (Á-Đông)
-
Phục-Hy quạch quái (Bát-Quái nước Tàu)
-
Di-Đà giác mê (Thiên-Trúc)

Có lẽ cách một đôi ngàn năm độ ước chừng là sáu đời Ngũ-Đế, Phục-Hy, Thần-Nông, Huỳnh-Đế, Nghiêu, Thuấn thì Thầy có sai mở Đạo như sau nầy:

Thánh Nhơn cho giáng kỳ Tây.

Xin chép ba vé nầy là 117, 118, 119.

Còn trong bài giải thuyết Đạo-Nho, Ngôi-Chị có giảng như sau nầy.

Đạo thông từ lúc Phục-Hy,
Lần qua Đại-Võ đến kỳ Văn-Vương.
(Nhà Cơ-Phát tám trăm năm có)
Châu-Công Khổng-Thánh tiếp nương,
Lập thành mối cả mở mang con người.
Từ sanh có Đất có Trời,
Có Người mới đủ sánh ngôi Tam-Tài.
Âm dương một lý mà hai,
Như người một giống gái trai hai hình.

Coi theo Tam-Kỳ Thánh-Huấn dạy: xin chép vé 225 tới 229.


2- NHỊ-KỲ PHỔ-ĐỘ

- Thích-Ca.
-
Lão-Tử.
-
Khổng-Tử.
-
Gia-Tô (Jésus).

Muốn cho dễ hiểu cho đoàn hậu tấn rõ chút ít sử ký xin coi bảng thông qui sau nầy.

ĐẠO THẦN là của Đức Khương-Tử-Nha khai mở tại Nhựt-Bổn sau Chúa Giáng-sanh, lối 10 thế kỷ trở lại nên Thầy dạy để cốt của Ngài dưới cốt Đức Gia-Tô một cấp, về khoảng giữa.


3- TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ:

Thầy bổn thân khai Đạo, ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần, kêu hiệp Ngũ-Chi Đại-Đạo là Tứ-Đại Thánh-Nhơn và Đức Khương-Thượng (nguyên Khương-Tử-Nha).

Thầy lấy hiệu: "Ngọc-Hoàng Đại-Đế kim viết Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát".

Thầy lập Ngũ-Hành-Tòa Tam-Tôn làm gốc.

Coi Chuyển-Mê số 10 trang 49, Đức Tam-Tôn có huyền diệu bút viết ra Thánh-Ngôn cho Đạo học và dạy Đạo-Tràng cứu thế, nhơn sanh hết lòng kính trọng nên mới có Ấp-tổn Thuấn-Nghiêu chủ Tam-Hồn chánh vị Tam-Tôn, ngày 12 tháng 5 là Đại-lễ kỷ niệm của Ngài.

Còn ngày 15 tháng 4 là ngày Đại-lễ của Đức-Phật Hàng-Long giáng trần hiệp cùng Đức Tam-Tôn đặng cho huyền cơ giúp Thầy hành Đạo. Đạo thành là tại nhờ mấy mối Vô-Vi trước đây, nhứt là Đạo-Tràng cứu thế, nên Thầy lấy thêm hiệu mới là TAM-TÔN đại.

Có Thánh-Ngôn dạy như vầy:

Thầy thương con Lạc cháu Hồng
Phần đông ngu dại có lòng mộ tu.
Mở Đại-Đạo vẹt mù sanh-chúng
Lọc lừa sao để dụng lâu dài
Con nào chịu nhọc là may
Là trong chỗ nhọc hằng ngày học tu.


Vậy chức sắc Nam Nữ học cho khá đặng đi Chủ-tọa Đạo-Tràng khắp nơi.

******************

30. BẢN ĐỒ THÔNG QUI TÔN-GIÁO