Kính,
Lời cùng Chư Quý-vị Chức-sắc Thiên-phong lưỡng phái và Thiện Nam Tín Nữ hay rằng:
Vưng theo Thánh-giáo của Thầy dạy năm Mậu-Dần 1938, Bàn-Cai-Quản Tòa-Thánh Định-Tường chọn lựa các bài Thánh-Huấn sau nầy sắp một quyển tựa đề “LUẬT BÌNH-QUÂN” để giải mê phá tục, cầu cho Đời đặng mở mang thoát khỏi vòng cúi phục theo bọn quỷ ma.
Vậy trong đó anh em chị em ai có tuân thì làm bằng không chúng tôi không dám ép, dầu Đạo dầu Đời hai bên liệu mà xét lấy, phải cùng không phải trong hai chữ “BÌNH-QUÂN” đó là đủ, chớ nên ỷ thế cậy tài, buông lời lấn lướt mà sanh chuyện bất hòa, rồi thành ra Ta Người chia rẽ.
Đó là chúng tôi vì bổn phận phải làm cũng có điều bổ ích, song tại lòng người tin với không tin nên chúng tôi tỏ lời nói trước.
Nay kính
Ngày 15 tháng 4 âm-lịch 1955 (Ất-Mùi niên)
BÀN-CAI-QUẢN
******************
THÁNH TỰA
CHƯƠNG I
1. BUỘC PHẢI ĐỌC “LUẬT BÌNH-QUÂN”
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 12 âm-lịch 1943 (3 giờ khuya)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con biểu CA nó in Thánh-Giáo nầy đặng gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng. Còn tại Thánh-Tòa đây thì đọc cho Đạo nghe chung cùng phát ra cho Đạo và dán Đông-Lang, Tây-Lang đặng mỗi người coi rõ. Là kể từ ngày nay sắp lên buộc Chức-sắc, Đạo-Hữu hễ ai biết chữ thì phải coi LUẬT BÌNH-QUÂN, nếu không hiểu thì được phép hỏi Thầy chỉ thêm cho.
Tại văn phòng của Chức-sắc làm việc tại Tòa-thánh đây phải có luật đó, đặng Chức-sắc giữ gìn coi cho kỹ, dầu phái Nữ cũng vậy; coi từ tờ, từ trương, từ đầu chí đuôi, văn xuôi văn vần đừng cho bỏ sót.
Đó là Thầy buộc đặng nhớ mà tu hành theo Đạo Lý, nếu ai có nghe mà không tuân thì chư Thần ghi tội, sau đừng than thở.
******************
LUẬT BÌNH-QUÂN
2. HOAN BI THẾ CUỘC
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 9 âm-lịch 1938 (16 giờ)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con chấp bút đặng Thầy dạy con viết ra một bài gọi là “HOAN BI THẾ CUỘC” đặng dành để đời sau coi lấy đó mà nhớ rằng năm nầy Thầy ngự tại Châu-Thiên-Đài mà phán xét các điều tội phước.
THI
1.- Châu-Thiên, Hiệp, Trùng-Đài cao vọi
Thầy giáng lâm đại hội Chư-Thần
Xét rành tội phước cân phân
Căn lành kiếp đọa thưởng răn đủ điều.
2.- Đứa thì trước gây nhiều tội lỗi
Nay gặp Thầy tự hối răn lòng
Đứa thì ngày trước dày công
Có tu mà lại có trông chuyện xằng.
3.- Có đứa muốn siêng năng làm phải
Đứa thì lo phá hoại Đạo Đời
Vì mê ma quỷ lả lơi
Tại vầy nên chẳng biết Trời là đâu???
4.- Phần quyết tính chơn tu thì ít
Phần cạnh tranh ngỗ nghịch lại nhiều
Thầy xem thấy rõ đủ điều
Các nơi Động Phủ thảy đều về tâu.
5.- Thầy xem sớ ưu sầu chán ngán
Cả thảy nhìn vào án Ngũ-Lôi
Cơ quan máy tạo sửa Đời
Luân qua chuyển lại đổi dời Hồn thay.
6.- Làm như vậy kịp ngày giờ phán
Dựng nên Đời bỏ oán theo Hiền
Tuần huờn Tiên Hậu Nhị-Thiên
Đồng chung qui lại Châu-Thiên một bầu.
7.- Ai sớm biết hồi đầu sum hiệp
Thì tránh nơi lấn hiếp độc quyền
Nếu còn lòng dạ tư riêng
Đạo chưa tới Đạo thấy liền yêu ma.
8.- Chớ lầm tưởng người ta là vậy
Người ta nhờ tin cậy chủ nhà
Chủ nhà chẳng ở đâu xa?
Là nơi Thầy định gọi là Chủ-Ông.
9.- Chủ-Ông đó là không đặng thấy
Còn thấy đây là thấy cái người
Cái người nó ở phần Đời
Đời nên nhờ chỗ sợ lời Chủ-Ông.
10.- Ta là chỗ có không còn mất
Ta lo gìn sự thật cho Người
Cái Người nương đó phá Đời
Cái Ta lại cậy cái Người là đây.
11.- Thầy chỉ tắt khoản nầy cho rõ
Trời có mây Đời có Ta Người
Trời cao Đất rộng muôn đời
Đời quên Trời Đất hại người nào hay.
12.- Trời cao vọi mây bay từng dưới
Người đối Ta, mây đối với Trời
Ta đây cũng tỷ như Trời
Người như mây phủ cho đời lập công.
13.- Người phải rõ phải thông mây gió
Mây gió là chỉ chỗ sang hèn
Đủ màu xanh đỏ trắng đen
Là nơi màu sắc tục quen tranh giành.
14.- Chẳng lo hiệp lập thành Chơn-Lý
Lại chia nhau ích kỷ độc quyền
Đọa đày khổ hạnh liên miên
Cũng vì sa đắm trần duyên nên vầy.
15.- Người Ta hiệp là thương nòi giống
Chẳng giết nhau đặng sống lâu dài
Người đây Ta đó có Thầy
Tại Người Ta chẳng sợ Thầy nên xa.
16.- Người muốn hiệp còn Ta không muốn
Là cái Ta nó chống lại Người
Ta nghe Người cãi viện lời
Đó là tại chỗ cái Người cự Ta.
17.- Thầy chuyển Đạo mười ba năm chẵn
Mà chưa xong một khoản Ta Người
Chê bai cười nói lả lơi
Vì vui vì giận quên Người quên Ta.
18.- Năm nầy đúng Kỳ-Ba Tam-Tiểu
Cả thế gian còn thiếu đoạn nầy
Tranh giành ỷ giỏi khoe hay
Mà quên trong đó tao mầy hại nhau.
19.- Tại không nhớ mầy tao một giống
Gầy cuộc ra náo động lòng Trời
Đã đành máu chảy thây phơi
Nhìn coi thấy rõ Đạo người còn chi.
20.- Thầy chép để "HOAN BI THẾ CUỘC"
Vui với buồn lặn hụp sông mê
Đứa kêu, đứa rủ đề huề
Đứa sa xuống trước, đứa kề lặn sau.
21.- Sóng cuồn cuộn đua nhau hỷ hả
Chừng mỏn hơi thịt rã xương chìm
Một lằn nước đục đỏ thêm
Khách trần ưa mến kiếm đem về nhà.
22.- Chác tội lỗi gây ra quá ngán
Luật Chí-Công xử đoán thêm buồn
Tiếc gì mà chẳng chịu buông
Buộc đeo cho nặng trầm luân lại mừng.
23.- Thầy xem xét oan ưng các lẽ
Ưng thì nhiều ít kẻ chịu oan
Ngọc-Kinh là cửa Thiên-Đàng
Ít người dám đến vén màn lạy Cha.
24.- Lại ưa đến trần sa Địa-Ngục
Kẻ đuổi xô mạ nhục lại gần
Đổ thừa thân hữu khổ thân
Khổ thân là chỗ ân cần học tu.
25.- Vì không rõ chữ Ngu chữ Trí
Tại không thông chữ Lý chữ Quyền
Đổ thừa viện lẽ ý riêng
Đặng cho vào sổ bìa đen cho nhiều.
******************
3. CỨU VỚT ĐẠO ĐỜI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng giêng âm-lịch 1939 (năm Kỷ-Mão)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con chấp bút đặng nghe Thầy cho bài “CỨU VỚT ĐẠO ĐỜI” đây, đặng viết ra mà phổ-độ chúng sanh, đứa nào sớm tỉnh thì nghe theo, đứa nào quá mê thì chịu lấy.
THI
1.- Đời vì tục nên chìm nên đắm
Đạo chưa thông ứng cảm nên lìa
Tại vầy hai ngã phân chia
Đời xa bởi tục, Đạo lìa bởi mê.
2.- Cả hai thấy thảm thê chán ngán
Thầy đau lòng từ đoạn thon von
Cơ quan họa phước mất còn
Trời than, Đất thở, Phật buồn xiết chi.
3.- Trước Thầy chỉ “Hoan Bi Thế Cuộc”
Có đứa nào học thuộc hay chưa?
“Phá Mê Tầm Đạo” ngăn ngừa
“Nữ Ban Khuyến Hữu” Thượng-Thừa Đạo-Nguyên.
4.- Hoặc bài giải “Thiện-Duyên Tư-Cách”
Lý Vô-Vi giải thuyết “Khiếu Huyền”
Chỉ rành Đạo tướng thể nguyên
Chơn-Như Thiên-Đạo Thánh, Hiền, Phật, Tiên.
5.- Hoặc lời của Thể-Liêng Tiên-Nữ
Với Phổ-Đà kinh tự Phát-Minh
Chung-Ly Phương-Sóc luận bình
Mỗi con nam nữ được rành bao nhiêu?
6.- Đó Thầy nhắc chưa nhiều cho lắm
Đây Thầy than sao dám cãi Thầy?
Đạo Đời đều ở chung đây
Chia nhau là tục Luật Thầy khó qua.
7.- Kìa trước án Ngọc-Tòa còn để
“Luật Bình-Quân” cân chế sớt trừ
Đứa nào dám chắc phước dư
Đứa nào còn tội ai trừ chế cho???
8.- Trước phải biết ai cho mình sống?
Ai cầm cân mực gióng ngang bằng?
Thác rồi ai độ siêu thăng?
Ai hành căn bịnh trở trăn đêm ngày?
9.- Trong mỗi đứa hỏi ai làm đó?
Thì mới mong tránh chỗ tai nàn
Mơ màng quỷ vái Thần van
Mà quên luật cả thưởng ban tay Trời.
10.- Mỗi con mỗi đều người ở thế
Sao chưa thông tạo thế là Trời
Xác thân hình dạng là người
Đứng đi cười nói có Trời dạy trong.
11.- Mỗi mỗi việc tại không ra có
Ấy là không không đó là Trời
Tại sao lại dám nghịch Trời?
Đứa nào có dạn trả lời Thầy nghe.
12.- x Tại nơi chẳng dặt chẳng dè
Ngó theo xác thịt chịu bề trầm luân
Nạn tai than thở tưng bừng
Trời cao Đất rộng mấy từng chở che.
13.- Khó bề dạy dỗ không nghe
Vì ưa gây cuộc đảng phe nhạo cười
Ngó qua Đời thảm cho Đời
Nhìn xem bên Đạo còn rời Tánh Tâm.
14.- Đại-Bi Đại-Lực không tầm
Viên-Minh Đại-Giác tưởng lầm rằng chơi
Thương người Đạo chuyển xây dời
Người không tuân mạng Luật Trời nào dung.
15.- Tưởng cho sung sướng đến cùng
Vẻ vang xác thịt tạm dùng là ngoan
Đạo Đời tại đó dở dang
Bước đi lỡ bước ngồi than phận mình.
16.- Mảng đua chen cuộc thế tình
Lại khoe sức mạnh chống kình Trời cao
Cạn sâu Đạo-Lý phân hào
Ít ai rõ được khó vào đường Tu.
17.- Tranh giành quyền lợi trí ngu
Mà quên mình chịu thất phu lâu rồi
Một đời miễn đặng thì thôi
Kể chi họa phước Luân-Hồi về sau.
18.- Tại không rành chỗ ảo bào
Phù du cõi tạm khác nào chợ mai
Mỗi con ráng học bài nầy
Học rồi sẽ thấy từ rày sắp lên.
Thăng.
******************
4. TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO VỀ ĐỜI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 5 âm-lịch 1939
-------o0o-------
Nầy các con, từ Nam chí Nữ, từ trẻ đến già, mỗi đứa thảy đều có một cái chí tư tưởng riêng nhau, là một cái tư tưởng về Đạo, về Đời, tuy riêng chớ không ngoài hai lẽ.
Vậy mỗi đứa có biết hai lẽ đó gốc nó ở tại đâu hay không? Nếu các con không biết rồi cái tư tưởng đó nó sẽ kết quả vào đâu?
Đây Thầy trước hỏi thử mỗi con, đặng mỗi đứa đọc đến đoạn nầy rồi trầm ngâm suy xét trong một ít lời rồi sau sẽ coi thêm lời Thầy nói sau đây cho rõ, coi mình sai lầm hay là Trời không thương mà bỏ hủy???
Các con ôi! Cái nạn vô minh nó cũng ở trong vòng mê tín. Cái tục hủ tệ nó cũng ở chỗ dị đoan, mà mỗi đứa lại ưa đến đó mà vùi thân, vùi thể!!!
Còn Thầy lập Đạo ra cứu Đời, giải rành Tiên tục, chỉ rõ thiệt hư, nên mới lập vị Tam-Tôn tại Thánh-Tòa cho mỗi con coi lấy đó mà bỏ lần điều tục, xa tránh dị đoan, một là mình khỏi mang chứng bịnh u mê, hai nữa là được rõ mình nhờ nơi đâu mà tạo thành Đạo-Lý? Nếu Đạo-Lý tạo thành thì có chi qua nổi? thì cái tư tưởng của mỗi con đó nó cũng không ngoài chủ nghĩa Tam-Tôn, mà không có Thầy thì Tam-Tôn không vững, tại bấy lâu Thầy để cho các con lấy trí phàm mà làm ra đặng khoe tài hay học giỏi, sức mạnh qua Trời, nên Thầy không nói đến. Nay đến thời kỳ Thầy ra cứu độ, theo lẽ thì mỗi đứa phải hết lòng kính mến Tam-Tôn, vậy mới gọi con người nơi thế hạ, chớ có đâu tư tưởng riêng thì muốn, mà sự hảo hiệp lại không, rồi các con mới làm thế nào mà tạo thành Đạo-Lý? Ngày nào cho lánh khỏi Đại-Đồng, rồi thành ra cái tư tưởng đó nó trở lại hại các con, thì cũng không ngoài Đời với Đạo, tại đó mà Thầy đau lòng xót dạ chẳng nỡ ngồi coi, nên mới hết lòng lo cứu độ. Thầy nói cạn lời đây chẳng phải Thầy quyết kể ơn với các con, đó là Thầy quyết giải thoát cho các con đó, đứa nào muốn ra cho khỏi thì tuân theo, đứa nào muốn bước vào thêm thì đi càn vào đó; Thầy dặn trước chừng đến đỗi đừng có kêu Trời cho uổng tiếng; cứ kêu lấy cái khôn, cái mạnh, cái dữ, cái hay của mỗi đứa nào có bấy lâu đặng để mà chống Trời vọc nước đó, thì cứ vậy kêu la, coi nó có đó mà cứu các con hay không? Chớ phận sự của Thầy tới đây không còn chỗ nói nữa.
Các con mỗi đứa thường hay nói hai chữ Tu-Thân, Tề-Gia bình thiên hạ, nói nghe thì có mà hiểu lý thì chưa, đó là lời sáo ngữ ăn cắp của người nói nghe cho rộn, rồi lời nói đó nó trở lại hại mình là tại sao? Là tại không biết lý mà mở miệng xưng hô đặng cầu danh thủ lợi, thì tránh sao cho khỏi cái tội nói bướng gạt người, nên phải bị hại là vậy đó. Theo lẽ mỗi đứa phải bớt lần cái bịnh nói môi, để công đó coi Thánh-Huấn Chơn-Lý của Thầy đặng lưu tâm mà sửa lần điều tục, bỏ bớt sự tham, đừng chia phe đảng, hòa nhau như một, giữ trọn lòng thương, thì có chi là hơn nữa.
Các con ôi! Cái giàu sang của mỗi con ở thế hạ nầy không biết tới đâu mà phỉ tình mỗi đứa, cái nghèo khổ không biết hạng nào là cùng? Chỉ có cái Đạo-Đức là một thú vui riêng hơn hết, cái vui riêng đó nó sẽ thấy chán chường mà sao các con không bắt chước? Là nơi địa vị Tam-Tôn đó, các con có thấy không?
Thầy nói đây ít đứa chịu nghe, dầu có nghe thì cũng nghe vị lòng rồi bỏ, tại vậy mà các con ngày đêm lao khổ, đắm đuối sông trần, đứa leo, đứa lội, đứa nổi, đứa chìm, lặn hụp loi ngoi giống hình tợ cá ham mừng nước. Tại đó mà phải ở nơi chậu, nhốt ở kho đặng chờ ngày đem thịt xương ra xẻ đãi đằng cho khách trần ăn, rồi kẻ khen ngon người chê lạt, mà quên rằng cũng một giống thịt xương, xẻ ra từng miếng, miệng ăn mắt ngó mà sao chẳng cảm lòng thương, lại nỡ đành chê khen chi vậy??
Ôi Đời quá tham, mà lắm lúc Đạo mê tín nên chịu sai lầm, cả hai làm cho náo động Đất Trời, Tiên Phật thảm thiết, kẻ dụng thế nầy người lo cách khác đặng can gián nhủ khuyên, rốt cuộc cũng còn mê còn đắm.
Nay Thầy quyết dựng lại đời Thượng-cổ, nên mới lập vị Tam-Tôn, nếu con nào sớm biết xét mình thì mau kíp thoát thân đặng qui hồi cựu vị. Còn con nào chẳng chịu Thầy cũng vui cho, chớ trong vòng Tạo-Hóa có lẽ nào các con chạy ra khỏi đặng hay sao???
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: phận con làm chủ Tam-Hồn thì cứ vậy lo tròn, chớ nên than phiền chi cả. Còn bài nầy con biểu CA nó để vào mặt Đuốc-Chơn-Lý mùa Hạ nầy đặng chúng sanh coi cho rõ.
Thăng.
******************
5. KÌA CƠ HỌA PHƯỚC, NỌ BÁNH LUÂN-HỒI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 25 tháng 7 âm-lịch 1938
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Hiện nay Chơn-Lý chẳng đặng vững vàng, con có biết trong đó tại sao hay không ?
- Bạch: Con không hiểu vì con còn phàm, cúi xin Thầy chỉ dạy
- Nầy con, từ ngày Thầy đem con ra hành Đạo đến giờ trong mỗi tháng, ngày giờ, Thầy thường theo con từ bước, nhắc con từ lời, đặng kềm thúc con cho vững vàng bước Đạo.
Lời nói cho xuôi, đó là Thầy lấy lòng Từ-Bi mà thương đồng cả thảy, đặng cho mối Đạo mở mang, một ngày một rộng, cho chúng sanh dễ bề qui hướng, ấy có phải là một sự sống để cứu cho Đời không? Đã biết vậy là phải rồi, mà thảm thay trong phần đông đó, đã theo Chơn-Lý mà chưa được một màu, đứa trắng đứa đen, đứa vầy đứa khác, trong chỗ tin mà chưa Thiệt Thường Tin, đứa tin theo là phải, đứa thì nói là nhầm, đứa thì cho là trúng, đứa thì nói là hay, đứa thì khen là giỏi, nói thì có nói mà làm thiệt không có làm, như thường thì không nhớ mà hỏi ra thì trong chỗ đó, nào là giỏi, nào là hay, nào là nhầm, nào là trúng, nào là phải v.v… thì thảy đều chưa có đứa nào đặc biệt vào đâu cho trọn cả, tại điều đó nên Chơn-Lý thì có đông mà thiệt hành thì còn thiếu, lớn cũng chưa rành phận lớn, nhỏ cũng chưa xong, mỗi đứa đều có tật ngó chừng nhau mà sanh nạnh.
Đây Thầy tỷ dụ cho chúng nó nghe: Đạo của Thầy là một phương thuốc cứu sống Thiêng-Liêng cho cả thảy, mà trong cái sự cứu sống đó nó ở chung trong phần đông đó, muốn cho đặng cứu sống với nhau, thì phải ráng lo, nghe cho nhằm, làm cho giống, nói cho y, cho nhằm mà điều độ, cũng như có bịnh thì phải lo chạy thuốc, đặng cứu nhau, hễ có thuốc rồi thì phải lo chia nhau mà cứu cấp, trong chỗ chia đó đã sẵn có Thầy chỉ cho, chúng nó chỉ có ra công phát thuốc hay là uống thuốc mà thôi, uống thuốc đặng chi? Có phải là đặng sống hay không? Sống đặng chi? Có phải là sống đặng hưởng cho trọn một kiếp đời tại thế đây không? Biết vậy là phải rồi, mà còn chưa chịu uống, chưa chịu chia nhau mà tế độ, cứ lo húng hính, cãi thấp cãi cao, phân ngôi giành phẩm, mà đành quên rằng Đạo-Đức độ sanh tại đó, mà thiệt hành chưa đúng là vậy đó, nếu thiệt hành chưa đúng thì làm sao cho được vững vàng? Nếu không được vững vàng rồi chúng nó mới sao đây? Có hại hay không? Có được vui vẻ không? Rồi chừng đó trách ai?
Thầy thường răn chúng nó: Kìa cơ họa phước, nọ bánh Luân-Hồi, trong mỗi ngày thường ở quẩn quanh theo đường danh lợi, mà nhấp nhem cho khách mơ màng chưa tỉnh đó. Tại vậy nên Thầy quyết giáng thế kỳ nầy phải dùng Hàng-Long diệu bút, mượn xác độ đời, đặng thức tỉnh cho mau mà tránh cho khỏi cái nạn kêu Trời không dứt đó. Than ôi! biết kêu Trời mà không biết sợ Trời, thì chẳng khác nào biết mình đây là có bịnh với nhau, mà đã sẵn có Thầy, không lo uống thuốc thì trông chi lành bịnh đặng? Ông Thầy đó có thế nào đem thuốc đổ cho người bịnh đặng không? Đã vậy mà đến đỗi khốn cùng rồi cũng trách ông Thầy sao không cứu??? Trách đó là trách ai? Phải hay quấy? Nhầm hay không nhầm? Đã đành đứa đó chịu khốn rồi, còn đứa chưa khốn đây sao không lo tự hối, để chờ đến đó rồi kêu trách thở than như vậy nữa hay sao?
Thiệt là quá thảm!!! đèn khêu dầu cạn, người ngủ im lìm, trống đánh chuông rung, mặc tình du hí, tưởng thầm rằng sẵn đèn dễ ngủ, chuông rung êm tai, ngủ cho êm, ngao du cho toại chí, mà chưa hay rằng Trời sáng, ngủ hoài phải trễ ngày giờ, không ai làm mà nuôi cho mình độ nhựt, ngao du cho thong thả mà quên rằng xa cách cửa nhà, Thầy hỏi vậy rồi chừng quá giấc, thức dậy rồi có biết đói hay không? Chừng hết sức chơi rồi giựt mình ngó lại có ngán hay không? Ngán thì đã đành, ngặt vì không nơi nương dựa, rồi mới liệu sao đây? Chừng ấy cũng có một tiếng kêu Trời là trước hết, kêu cho lớn, thở cho dài, rốt cuộc ngồi khoanh nằm lăn theo đó. Ôi! Trời đâu cứu kịp, Đất chở không kham, người thiện từ ngó vào đó càng thêm thảm nữa, người nầy là ai? Người đó là ai? Kìa trên Trời, nọ dưới Đất, chen mà chôn xác, lấn đặng giam hồn, luật Vô-Tư khó bề cứu chữa.
Trời còn thì vẫn còn Chơn-Lý, mà muốn cho nhơn loại được an nhàn, nên Thầy hối thúc cùng nhau ráng mà chung lo cho vững vàng Chơn-Lý, là một phương thuốc độ chung, chiếc thuyền rước cả, nếu không đồng tâm hiệp chí mà để cho Chơn-Lý đến đỗi xây vần là đến luật Vô-Tư hành phạt rồi mới liệu sao???
Trời thì lo lập Đạo, mà người trong Đạo làm chưa được y theo lời của Trời, Đạo để cứu Đời mà Đời chưa tin Đạo, cả hai đều không hạp rồi làm sao cho đặng hóa sanh? Nếu chẳng hóa sanh thì cũng phải có hồi tiêu diệt, tại vậy nên Thầy phải cho con trở về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi mà tịnh dưỡng, đặng Thầy lo ung đúc Tinh-Thần, đặng một ngày kia sẽ có cần dùng việc khác.
Vậy con biểu CA nó in bài nầy ra cho khá đặng gởi đi các chỗ trong Đạo, đặng tường mà xét mình cho sớm.
Thăng.
******************
6. NHỜ ĐÂU MÀ ĐƯỢC NO ẤM Ở YÊN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 4 âm-lịch 1941 (4 giờ chiều)
-------o0o-------
Nầy các con chung cả trong một cõi trần đây, dầu cho Đạo hay là Đời, cũng là một cái thân hình như nhau cả.
Vậy mỗi con ráng suy nghĩ lại cho cùng coi cái thân đó nó được no ấm ở yên, Thầy hỏi lại coi tại đâu mà được vậy? Chắc phần nhiều trả lời là tại cái khôn, cái giỏi, cái hay, cái thế thần mưu sự mà ra đó. Nói vậy Thầy cũng cho là phải đi, là nhằm đi, vì Thầy không hơi nào mà đối khẩu với phần nhiều nói như lời đó.
Đây Thầy hỏi cái phần ít, mà chịu làm thinh, hay là biết trong đó có ai bày ra mà có, thì ráng nghe Thầy trả lời đây: Hiện nay nhiều chỗ thảm khổ, nhiều chỗ tai nàn, đói cơm khát nước, chết sống không chừng. Thầy hỏi vậy cái khôn, cái giỏi, cái hay, cái thế thần mưu sự đó sao không thấy đem ra đặng làm cho hết các điều ghê gớm đó? Đó là lời Thầy nói cho mỗi đứa dại khờ, chịu mình quê mà nghe lời Đạo-Đức, chớ cái bọn ngỗ ngang thì Thầy có nói chi tới nữa.
Đây Thầy nói cho mỗi con nào hồi tâm vì sợ khổ, thì ráng xét cho rành, cái hột giống Thần-Nông của Thầy gieo ra tại miền Nam-Việt, là giống để nuôi cho vững vàng cái thân xác người đây, đã đành ăn vào miệng mà lại phủi ơn Thầy, hỏi vậy có đáng tội hay là không đáng?
Nầy mỗi con nghe cho kỹ, cái luật tuần huờn của cơ mầu nhiệm, có dễ chi mà hiểu đặng, tại sao khó vậy? tại cái lòng tự thị, cái nết kiêu căng, tại đó nên phải lủi lầm đi về con đường tội lỗi, thì cũng có cái vui là vui thầm trong chỗ tội, tại vui thầm trong đó mà quên ngó trở về, chừng đến đỗi giông mưa, thì ngó lại cái thân đã ở vào nơi chỗ hiểm, chừng đó có quyền thế chi? mưu sự chi? hay giỏi chi mà ra cho khỏi cái khổ hiểm đó không?
Thiệt là tội nghiệp thay! thương hại thay! bài “Thế Cuộc Hoan Bi” không kể, chỗ Đạo-Tràng cứu thế không ưa, tại đó mà mình tự biệt đường đi cho mình là vậy đó .
Thầy nay thấy rõ, cơ hội xây vần, nên phải hở lời ra hỏi thử, gạn lòng mỗi con cho biết, chớ Đạo Trời là Đạo chánh, thì trong đó phải có Chơn là Chơn-Thân, Chơn-Lý, Chơn-Tánh, Chơn-Tâm v.v… mấy Chơn đó hiệp lại một gọi là Chơn-Thuận, là thuận với lý Trời, do theo phép nước, dìu dắt chúng sanh, lập thành quả vị, đó là cơ Đạo của Trời, vậy các con đều ở dưới Trời sao lại nỡ quên chỗ đó?? quên thì cũng cho là lỡ, còn đứa ở tại chỗ đó rồi, sao lại muốn sanh lòng phản? Thầy nói đó ráng nghe đặng xét cho nhằm, chớ cái tội phản Sư có dễ chi mà ao ước? như vậy ráng định tỉnh coi chừng, ngó trước nhìn sau, coi lại thử coi mấy đứa vì quyền quên nghĩa vì lợi phản Sư, thì chẳng có đứa nào mà lập nên cái danh lành chi cả, chỉ có một đảng phe vì đó mà hùa nhau, làm cho lỡ dở một đôi hồi, rốt cuộc cũng đi vào con đường tội lỗi. Ôi, vậy mà ham! vậy mà muốn! vậy mà đành thì rất uổng là có ăn cơm, thiệt là quá uổng!!!
Ngày nay là ngày Thầy Đại-hội Chư-Thần, đặng phân cho rồi cơ vận hóa, là cơ vận chuyển về Thượng-Cổ Huờn-Nguyên, đặng cho mỗi đứa tự nghĩ nơi lòng, thì có Chư-Thần hóa Tâm về Đạo, đó là một cách nhiệm mầu, mỗi con chớ có nghe qua rồi cho là lời nói nhảm, nói thì Thầy phải nói chớ lòng dạ mỗi con cũng còn ham theo thói dở hay khôn mạnh, mưu sự thế quyền, tại còn nhớ cái đó mà quên hẳn cơ Trời, nên phải chịu đến chỗ Đại-Đồng đặng làm cho vừa sức, đó có phải là tự tâm tác nghiệt hay là tự ai??? Thầy hỏi đó rồi mỗi con coi lại coi con người đây đối với Trời, thì có chi đâu là khó, có chi đâu là dễ? khó sao có người biết mà viết ra đây? còn dễ sao không ai làm được? đó có phải là tại nơi lòng tưởng không nhằm lý, vì lý đó là một lý huyền cơ gọi là chỗ trong không mà chỉ bày ra có thể, có thể rồi thì tạo thể thành nhu, là cái thể mềm cái thân yếu là tại sao? Là tại yếu mềm mà không khiếp nhược, nên đó gọi là thể thân, là cái đời sống mà được rõ tận nơi, có thân thì có Đời đó kêu là thể, thể thân nầy có phải dễ chi mà giành giựt? mà cũng không từ chối đặng nào? đó cũng là cơ vận hóa tân, kết làm nên cuộc, cuộc nầy là cuộc gì? mỗi con có hiểu chăng? phải là cuộc vui không? sao gọi là vui? là tại cái bền nhớ Đạo xa cách phong trần, đó là một cái vui ít người tới đặng, tại sao vậy? là tại chê chỗ đó không mạnh, không khôn, không thế quyền, không mưu sự, ít người tới đặng là tại đó, nếu không tới đặng đó rồi ở đâu? chắc phải ở vào chỗ khổ! mỗi con nghe đó rồi ráng định cho nhằm, đừng có hớ hinh rồi khổ làm thêm khổ nghe mỗi con.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày 15 tới đây, rồi phát ra cho mỗi đứa coi, hoặc là để dành tới ngày lễ An-Thiên phát ra cũng được.
******************
7. LUẬT BÌNH-QUÂN GIẢI MÊ PHÁ TỤC
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 5 âm-lịch 1939
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: con chớ quá buồn về các bài Thầy dạy con viết ra gọi là phá tục giải mê, đặng đem vào Luật Bình-Quân cho người đời thức tỉnh, trong đó có phần yêu trần mến tục, nó quyết phá con thì đã đành vì sợ mất miếng ăn, còn con lo sợ cho người đời không ưa mà mắng chửi, tại đó nên buồn mà sanh lòng dụ dự.
Đây Thầy nói con nghe, con là người Thầy sai, đứng ra thay quyền cứu thế, thì khác chi mấy bực Ngự-Y-Quan ở thế hạ nầy, có chí học hành, rồi thì được bổ đi làm quan giúp về tật bịnh con phải xét trong đó coi thiếu chi là bịnh khổ, mà quan Ngự-Y cũng vui lòng làm cho hết sức, rủi gặp bịnh đau chịu không nổi các điều mổ xẻ, chửi mắng thì người cũng vui lòng, miễn là cứu bịnh cho an, làm tròn phận sự là đủ, còn bịnh nào không chịu vào đó, thì phải mang lấy mãn đời, con coi đó rồi tỷ cạn xét sâu, thì cái sự vui trong mấy bài đó, là vui vô cùng vô tận, là chỗ con quyết hết lòng đừng ngại tiếng thế gian chê cười mà xét lý đó.
Vậy bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in rồi giao lại cho năm Thiên-Sư đặng đem vào Luật Bình-Quân cho nhiều người mau hiểu.
******************
8. THỨC TÂM HÀNH THIỆT
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 9 tháng 6 âm-lịch 1939 (6 giờ sáng)
-------o0o-------
Nầy các con cả thảy, ở thế hạ nầy, dầu Đạo dầu Đời hễ ngó mặt lên biết trên đó có Trời, thì phải biết con người đây là Chơn-Tánh, Chơn-Tánh đó nhờ ai ban cho? có phải là nhờ Thầy hay là vị nào ban cho được thì tự mình hỏi lại đi, hỏi rồi ngó lại xét coi, hễ biết có Trời ở trên không không đó thì phải biết có Trời cứu thế, là Trời ứng cảm tại tâm, đặng sửa đời phá tục, vẹt ngút rẽ mây, đặng cho đời được thuần phong mỹ tục, khỏi lấn hiếp nhau, đó là Vô-Vi nhi hữu chứng.
Vậy Thầy xem thấy phần nhiều hơn hết chưa trọn tin Trời, cứ tư tưởng có một điều cầu ma vái quỷ, đặng phò hộ cho giàu, cho sang, cho vinh, cho hiển, cho mạnh giỏi sống lâu, đặng hưởng nhờ gia tài của tạm, mà quên rằng trong đó người giành giựt giết người, Ta chẳng biết hổ với Ta, mà đem Chơn-Tánh mà quì lạy ma hồn quỷ xác, rồi trở lại công kích Đạo Trời, chê bai đánh đổ, bởi tại đó nên mới có cái tội lớn hơn hết là cái tội khi Trời, nên phải chịu nạn mấy chục năm dư, kêu Trời vái Phật mà cũng không chịu bỏ lòng tham.
Nay đúng thời kỳ phán đoán, Thầy cho Hàng-Long giáng thế đặng thay Thầy phá tục sửa đời, theo lẽ thì trước phải cúi đầu mà tạ ơn Tạo-Hóa, sau là hết dạ thương người như mình đây, vậy mới gọi là Một. Chớ có đâu đã chẳng biết ơn, còn lại sanh lòng ganh ghét, mình đã chẳng rõ điều hư hư thiệt thiệt, lại dám viện lẽ chê người ra lãnh gánh cứu đời, Thầy hỏi cái chỗ chê đó có đúng hay là chê càn? thì tự lòng mỗi ai xét lấy.
Thầy vì cơn mạt kiếp, đời chịu khốn nguy, nên buộc lòng phải ra cứu vớt, trước là dạy cho biết đường ngay, đặng tránh lần nẻo quấy, sau là thoát tục cho thân khỏi buộc ràng, hễ tin trọn làm theo, thì cả đời thong thả, còn chẳng tin thì phải ở vào trong đó mà chịu lấy cái nạn cúi lòn, chớ không ai vào chịu thế cho đặng. Than ôi! biết cái thân là trọng mà đành quên chỗ trọng đó là Trời, tại vậy nên người chẳng hổ với người là người quên căn bổn đó.
Đây Thầy cũng để hết các lời biện giải cho cả thảy nghe rành đặng tự lòng suy nghĩ, rồi sau sẽ thấy cái việc vui buồn nó cũng ở gần nhau trong chỗ chê khen khinh trọng đó.
Vậy Thầy cũng vui lòng vì thương cho đứa quá mê mà đành quên Chơn-Lý, nên cho một bài dạy gọi là: “Thức Tâm Hành Thiệt” đặng coi rõ mà tự giác giác tha.
Bài thi như vầy:
THỨC tỉnh cho con cả thế trần
TÂM phàm dục vọng với Tham Sân
HÀNH theo Chơn-Lý khuyên chừa bỏ
THIỆT trọn Thần minh rõ Huệ-Ân.
Tiếp cho thi luôn:
1.- Huệ-Ân Trời Đất ban nhiều
Tại lòng không dứt tự kiêu nên lìa
Ưa cầu khẩn nguyện sớm khuya
Lạy ma tế quỷ đặng chia lợi quyền.
2.- Thầy nhìn thấy rõ đảo điên
Con người sao lại bỏ duyên dụng tà?
Cho mình trọn kiếp người ta
Người ta phải biết Phật Ma cho rành.
3.- Phật là thương dạy chúng sanh
Hiếu Trung Đạo-Lý thiệt hành đồng cho
Chẳng dùng tiền lót của lo
Bày ma, bày quỷ muốn cho vẽ vời.
4.- Vẻ vui chuyện khác mê Đời
Đời cho người cách xa người với ta
Chẳng thông nẻo chánh đường tà
Cứ ham vui vẻ gọi là mở mang.
5.- Chẳng dè vào chỗ gian nan
Vì vui cho quá tới than là cùng
Làm người chẳng rõ thỉ chung
Thiên sanh Địa dưỡng sanh tùng tử qui.
6.- Phải lo đường cả tu trì
Có đâu đến đổi A-Tỳ đọa thân
Dầu cho Tiên, Phật, Thánh, Thần
Trước noi Chơn-Lý lập thân mới thành.
7.- Đạo Đời có diệt có sanh
Tại người không chịu nhứt thành khó thông
Học thường hai chữ Trung-Dung
Học cho có học, làm không chịu làm.
8.- Tại vì dục vọng tham lam
Thánh riêng Đạo-Thánh, phàm riêng ý phàm
Nay Thầy chuyển Đạo Kỳ-Tam
Lập cơ phá tục dựng làm Thượng-Nguơn.
9.- Điển Thần rộng rãi ban ơn
Thưởng cho người biết Đạo nhơn tâm hòa
Còn phần giả dối kiêu sa
Sẵn cho Đại-Kiếp hồn ma xác người.
10.- Làm cho báo ứng hiện thời
Sống coi thấy rõ biết Trời chuyển luân
Nhãn-Tâm là tượng chỉ chừng
Đặng cho người nghịch đừng xưng hơn Trời.
11.- Chuyển luân trong mấy kiếp đời
Ngày nay nhìn thấy rõ Trời tại Tâm
Thì tri hai chữ chẳng lầm
Nếu ai rõ đặng dễ tầm đường chơn.
12.- Cạn lời phân biện nguồn cơn
Đặng cho người rõ Thiên Nhơn Địa thành
Tam-Tài hiệp bảo tồn sanh
Lập Tam-Kỳ Giáo phát minh Chơn-Truyền.
13.- Nặng nề cho kẻ vô duyên
Khó khăn vì tại đảo điên nơi lòng
Làm người chẳng rõ đục trong
Bạ đâu tưởng đó luống công lao hình.
14.- Phước lành đức rộng minh minh
Khác hơn vật chất khó nhìn là đây
Mẫu tâm vẽ tượng thì Thầy
Người không rõ lý biếm bày rằn ri.
15.- Tại vầy lầm lỗi chẳng tri
Nhứt tâm kỉnh niệm nhiều khi dạy truyền
Ngày nay chỉ tột phỉ nguyền
Thiệt tâm diệu lý Cổ truyền Kim chung.
16.- Dạy chung cả thảy rõ cùng
Còn ai chẳng trọng Đạo-Trung khó gần
Luật Bình-Quân đủ Oai Ân
Ban hành phá tục xa gần đặng hay.
******************
9. KHUYẾN THIỆN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 10 âm-lịch 1939
-------o0o-------
ĐƯỢC, con sửa bài Khuyến-Thiện của Lương-Phú-Hộ đi đặng trả lại cho nó học, con sửa đi có Thầy giúp cho.
Sửa:
1.- Nầy nam nữ ráng nghe Khuyến-Thiện
Chớ tưởng cho là chuyện tầm thường
Đã rằng chữ Thiện là thương
Phải thương cho trúng nhằm phương mới lành.
2.- x Trước là mình phải thương mình
Thương là mình xét việc mình nên hư
Phật gia tiếng gọi Đại-Từ
Làm người trọn đủ các lời thiện ngôn.
3.- Tánh phàm vì chỗ ỷ khôn
Rồi sanh tự đại tự tôn quên lành
Hiện nay Thầy chỉ đã rành
Hỏi xem lánh dữ, làm lành thì không.
4.- Lời khuyên khắp cả Đại-Đồng
Nghe theo làm đặng tránh vòng họa tai
Mặc tình thương ghét bẻ bai
Phận tu thì giữ mực ngay làm đầu.
5.- Chớ nên húng hính cơ cầu
Công-Phu Quả hiệp mới hầu gọi duyên
Thiện căn quí tại Tâm-Điền
Giữ cho tươi tốt đặng truyền đời sau.
6.- Ở đời nhiều bực thấp cao
Bực nào cũng sẵn có trao duyên lành
Làm không là tại nơi mình
Phật Trời thường chỉ dạy rành độ chung.
7.- Lập thân trước phải thuận tùng
Thuận theo Thiên-mạng đặng tùng đường chơn
Bớt điều tính thiệt so hơn
Đồng tâm hiệp chí giúp cơn hiểm nghèo.
8.- Ra tay tế cấp ít nhiều
Tùy theo gia đạo cũng đều sự thương
Chén cơm bát nước lỡ đường
Lời răn tiếng dạy chỉ tường việc nên.
9.- Mỗi công làm đó cho bền
Làm đừng trông trả, trông đền tiếc công
Biết rằng của tạm đời chung
Giàu sang nghèo khó cũng trong một lò.
10.- Điều lành ít thấy ai cho
Bày ra chuyện dữ đặng no thân mình
Khuyến ngôn từ thiện nói rành
Tự lòng ai biết phận mình thì lo.
11.- Noi theo Thánh-Huấn dặn dò
Tu nhơn tích đức là đò độ chung
Trước Đàn phủ phục cúc cung
Xin Thầy sửa dạy độ chung để đời.
12.- Độ cho người biết thương người
Thương người cho trọn là Trời tại tâm
Lời ngay lẽ thiệt không lầm
Xảo ngoa tà mỵ khó tầm đường chơn.
******************
CHƯƠNG II
BÀI PHÁ TỤC
10. NẦY KHUYÊN CẢ THẢY DƯỚI TRẦN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 5 âm-lịch 1939
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: nay Thầy cho ra nhiều bài giải mê phá tục, trong đó có nhiều chỗ không hạp với tục tệ bấy lâu, tại vì mê, là do nơi lòng tham sanh húy tử, hoặc là coi theo truyện mà không xét cho rành lẽ thiệt hư, tại vậy nên ngày sau chúng nó cũng có nhiều đứa viện lời canh cải cho con là đặt điều hoặc là lấy theo Đạo Thiên-Chúa, là vì chúng nó còn ưa cúng tế heo, vịt, bò, trâu v.v… nên kiếm thế đem các lời như hồi Lưu, Quang, Trương kết nghĩa, sát bạch mã tế Thiên, tru hắc ngưu tế Địa, đặng đem ra đánh đổ giành giựt về sự tế chong đặng cho vừa lòng, làm cho cuộc mê không dứt, đó là tại chúng nó không hiểu thấu trong lý bạch mã, hắc ngưu cứ cho là cúng tế, đó là vì tại truyện Tàu muốn làm cho có vẻ đặng lưu hậu đời sau tin theo đó mà làm, đặng có ngõ bán buôn thủ lợi, chớ trong đó khác xa, là vì hồi ba người đồng thề với nhau thì Quan-Thánh có lòng cang trực, nên xin đem hai con thú đó ra làm bằng chứng là quyết lòng lo cho rồi bổn phận hết sức làm tôi, thân như trâu ngựa (Nho gọi là Khuyển mã chi lao là vậy). Trong đó thề cho trọn lòng Đạo nghĩa, giữ vẹn nhơn nghì như bạch mã thì không có loạn dâm; còn hắc ngưu thì hết lòng cày ruộng; nếu trong ba anh em mà lòng dạ không tròn thì phải chịu thua loài thú, còn phần sanh tử chẳng bỏ nhau thì phú có Đất Trời soi xét, nhờ vậy mà Quan-Thánh đắc Đạo với Lưu-Bị, Trương-Phi cũng đồng một ngôi tam nghĩa lưu lại cho đời sau sùng bái là tại nhớ lời thệ nguyện với nhau đó, chớ nào phải làm ra mà tế cáo Trời Đất chi đâu, đó là một điều lưu ngôn để lại sách truyện chép ra tam đồ thất lý.
Đây Thầy cho một bài đặng mỗi đứa nghe qua vui lòng mà bớt điều canh cải.
THI
1.- Nầy khuyên cả thảy dưới trần
Bớt mê điều tục, tỉnh lần chuyện sai
Từ xưa cho đến những nay
Thánh, Thần, Trời, Phật không nài vật ăn.
2.- Luật thường như sợi chỉ giăng
Thề đây là chứng đặng răn thói tà
Khuyên chung nhớ đó vậy là
Chớ nên mơ ước Trời xa quỷ gần.
3.- Hết lòng lo trọn nghĩa nhân
Dầu không tế lễ tội cân chế trừ
Quỷ thường hay xúi chuyện hư
Là do tâm vọng người mơ ước xằng.
4.- Ở đời ngay thật làm ăn
Trời cao Đất rộng Đạo hằng nhớ ghi
Sát sanh thêm tội ích gì
Đổ cho Thần Thánh tội ghi thêm nhiều.
5.- Từ nầy khuyên ráng làm theo
Là theo Chơn-Lý dắt dìu dạy nhau
Mạng căn kẻ khó người giàu
Phải nương theo vận khẩn cầu nào xong.
6.- Đã rằng Trời Phật chí công
Chí công thì chẳng có lòng vị tư
Con nào dạ nấy khư khư
Đặng suy xét lẽ thiệt hư liệu dùng.
7.- Cạn lời chỉ dạy dỗ chung
Ích chi canh cải mà không rõ lầm
Mỗi người đều sẵn lương-tâm
Tại sao không chịu hỏi thầm vì đâu?
8.- Tế Trời nào dụng ngựa trâu
Nhứt tâm hướng thiện một câu đủ rồi
Hương đăng hoa quả là đời
Phải cho dùng đỡ thấy thời biết lo.
9.- Ít người chẳng thấy mà lo
Chẳng nghe mà sợ làm cho trọn nghì
Ghế bàn trật tự lễ nghi
Đó là chỉ cách đứng đi coi chừng.
10.- Lạy quì là phạt xác thân
Tại ham chuyện lỗi đem thân lạy Trời
Tại vầy nên có chỗ nơi
Kỳ trung phải biết sợ Trời mới linh.
11.- Đừng ham khẩn vái lợi mình
Vái sao mình biết xét mình là hay
Đó là lời chánh tỏ ngay
Rằng thân xác thịt ai ai lỗi lầm.
12.- Phật Trời thương dạy chế châm
Chỉ đường phước thiện sửa lầm ra nên
Thi bài kinh sách dạy khuyên
Đó là phận sự Thánh-Hiền phải tuân.
13.- Ai nghe làm đặng cũng mừng
Còn ai ngỗ nghịch tội trừng sẵn ghi
Đó là cũng chỗ Từ-Bi
Từ-Bi là luật chép ghi hằng ngày.
14.- Từ nầy khuyên cả gái trai
Biết tu biết niệm chẳng ngoài sự chơn
Bớt lần tính thiệt so hơn
Hễ đua chen lấn lòng nhơn giảm nhiều.
15.- Ngày ngày tâm huệ sẽ tiêu
Mà chưa hiểu đặng cứ theo giựt giành
Nên Thầy khuyên nhớ kỉnh thành
Kỉnh tâm sợ tội chí thành trọn tin;
Bớt mê bớt vọng cứu mình
Thầy thương nên dạy chẳng nhìn thì hư.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra rồi giao lại cho 5 Thiên-Sư để vào nơi mặt Luật Bình-Quân đặng cho mỗi người coi mà mau hiểu.
******************
11. BÀI PHÁ TỤC TRONG CUỘC VẠN LINH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 10 năm Mậu-Dần (1938)
-------o0o-------
Nầy các con Nam Nữ,
Những đứa nào có dự trong cuộc Vạn-Linh nghe Thầy hỏi đây mà tự xét nghe các con. Các con ôi! kể từ ngày Thầy khai Đạo ra đến giờ, kể đà mấy muôn thế kỷ, nay Thầy chuyển lại Nam-Việt tại sứ Tây-Ninh, sau lần lần xây đến Kiên-Giang gầy ra Chơn-Lý mà đem đến Định-Tường, các con nghĩ sơ bấy nhiêu đó mà các con cũng đủ ngán cho cái xác phàm nầy, mà trong đó không có lạ chi là dạy các con ráng tu đặng cứu lấy Linh-Hồn cho khỏi đọa.
Các con nhớ lại coi có phải vậy không, nhưng từ đó đến giờ nhiều đứa chưa rõ thấu, nên phải bị Bàn-Môn Tả-Đạo nó bày mưu phỉnh gạt làm cho tốn của, hao công, lại còn gây ra náo động trong việc trị an là khác. Đứa thì lo thiêu đơn luyện hống, đứa thì bùa chú toàn phép ẩn thân, đứa thì nuốt mặt Trời, hớp mặt Trăng, đứa thì tính xa vợ, xa con mà lánh đường quan hệ; thiệt cả thảy cũng có công song làm không trúng lý, tại vậy mà nền Đạo không được vui là vậy đó. Vậy các con phải nhớ lại cho kỹ rồi sẽ hay chớ bôn chôn mà mang họa, rồi trở lại trách Thầy, Thầy đã nói với các con: Từ ngày nào cho chí ngày nào, Thầy cũng không cho bày dị đoan, bùa chú, rối loạn quốc dân, bỏ nhà lìa tổ, hễ tới đâu Thầy sẽ dạy tới đó cho, đã biết vậy mà trước phải Tánh Tâm hiệp một kìa mới được; hiệp một là hiệp với Chơn, là Chơn-Tánh, Chơn-Linh, Chơn-Hồn, Chơn-Thể, Chơn-Như, có biết cho đủ, có hiểu cho rành, dầu làm chưa đặng song cũng tính sẽ làm, thì mới thấy đặng chỗ Linh-Hồn là huợt bát. Nay tuy các con đây phần đông chưa làm đặng như lời nói trên đó, chớ cũng có nghe, có biết, có hiểu chỗ lời Thầy nói, cũng tính sẽ làm, nhờ vậy nên Thầy mới lập ra ngày hội Vạn-Linh, là ngày Tu-My đây đặng cho đúng theo luật Thiên-Điều phán đoán. Vậy mà các con phải nhớ rằng Linh-Hồn đó bấy lâu nó bị quẩn quanh theo phần vật dục của cái người, cho nên đời phải tồi phong bại tục, nay Thầy lập Tam-Kỳ Phổ-Độ là độ rỗi Linh-Hồn; vậy trong đó mỗi con phải đem chữ Linh mà nạp vào Tòa-Thánh. Thầy hỏi vậy có nhớ nó hay không, mỗi con trả lời trong lương tâm cho Thầy rõ?
Đây Thầy nói cạn cho các con nghe:
Cũng có đứa tính đem chữ Linh vào đây đặng nhờ Thầy dạy, còn đứa lại tính khác nữa, là nó tính theo ý riêng của nó, như bấy lâu đó, vậy Thầy hỏi mỗi đứa tính mừng như vậy có hạp với Thiên-Lý hay không?
Thầy đã đem CA, ĐƯỢC; hai đứa ra làm biểu hiệu chung cho các con coi mà bắt chước, một đứa chẳng kể giàu sang mà hiếp bạn, một đứa chẳng lấy nể nghèo hèn mà được thế, cả hai đều vì Đạo mà quên mình, đó là gương tươi tốt cho cả thế gian đặng rọi chung cho sáng; nhưng mà Thầy xem rõ phần rọi chung thì ít, phần kiêu ngạo thì nhiều, Thầy hỏi vậy rồi mới làm sao cho ra đời Thuấn Nghiêu, làm sao cho rõ mặt tôi hiền, làm sao cho ra người Đạo-Đức, rồi mấy tiếng bỏ tham, bỏ giận của các con nói đó có dính vào tâm hay không? Rồi chữ Linh của đứa đó đem nạp đó, nó có Linh hay không? Rủi mà gặp cơn day trở rồi lấy đâu mà chống cự cho vững vàng, vậy chẳng uổng công mình tu niệm hay sao? Đây Thầy nói xa tỷ gần cho các con rõ, đặng hồi tâm tự xét mà lo liệu cho lâu dài, chớ chi có nhớ chữ Linh đó là nhớ như vầy mới đúng; là nhớ từ ngày nào đến giờ, nhờ Thầy ung đúc mới có Linh-Hồn, ngày nay Thầy dạy đem về Tòa-Thánh là nơi sáng suốt, vậy thì mình phải cho công lao đó đặng lo gìn giữ cái xác nầy cho tử tế, đặng ngày cùng cho hạp với Linh-Hồn, thì chẳng có chi lạ hơn là phải hết lòng thương Đạo một dạ Kỉnh-Thành là chung nhau đừng để rầy rà chích mích, giàu nhờ của, khó nhờ công, gặp đâu trợ đó, thì có chi là chẳng đặng vui vầy, mà lại đặng Linh-Hồn hiệp Xác. Các con mỗi đứa nghe rồi tự xét cho rành, như phải thì làm bằng không thì nghỉ, Thầy chẳng ép buộc đứa nào, đừng để ngày sau than thở, Thầy cũng sớm biết lòng của các con phần nhiều nói câu nầy: Chừng nào chịu đọa sẽ hay? chớ bây giờ tốn hao cực nhọc quá không thể chịu đặng. Lời nói nầy nghe qua dường sấm, tưởng đến lạnh lòng, là vì trong đó đã đành kêu án cho mình rồi thì trông chi cứu đặng!!!
Vậy ĐƯỢC con phải giao hết cho Hội-Thánh đặng in ra cho nhiều, rồi nữa chỗ có Đạo-Tràng cũng nên đọc và phát ra cho Đạo biết, còn tại Tòa-Thánh thì đọc trong mỗi kỳ Đàn, trước giờ nhóm nhau mà học Đạo, hoặc là dán tại Đông-Lang cho nhiều bổn, đặng nhiều đứa thấy cho nó vui lòng kẻo ngày sau nó trách.
LỜI DẶN
Hễ có nhóm điều chi về việc Đạo, thì đọc bài nầy trước rồi thì sau sẽ bày chuyện nhóm, Đạo-Tràng cũng vậy, cứ đó làm hoài chớ nên bỏ qua kỳ nào hết.
Thăng.
******************
12. TỰ TRI KỲ YẾU
(Kiện thưa về dâu, con, chồng, vợ, tiền của bất hòa)
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 5 âm-lịch 1939
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: Hiện nay trong Chơn-Lý phần đông còn tính ngược lo ngang chưa chịu thiệt hành một Lý, tại vậy nên còn nhiều đứa hay đem việc nhà đến Thánh-Tòa hoặc là Thánh-Thất mà thưa gởi theo các việc dâu, con, chồng vợ, tiền của bất hòa, đến cầu nài cho Hội-Thánh xử, Thầy thấy trong bọn đó thường khi cúng lạy hay vái riêng là trông cho bên nầy đặng, bên kia thất, nếu y sở nguyện thì tu theo Chơn-Lý, bằng chẳng hạp thì thôi; thật là một bọn giả tâm Đời không rành, Đạo không biết, vậy cũng xưng hô Chơn-Lý thờ tượng Trái-Tim, mà trong lòng trái hẳn với lời răn tiếng dạy, tại vậy mà phải chịu ở hoài trong cái vòng lúng túng chạy qua gặp kiện, chạy lại gặp rầy, đi tới thì thua, đi lui thì thẹn, rồi ngồi lại ngó Trời than thầm chắc lưỡi, đứa lo tự vận, đứa tính bỏ nhà, mà quên hẳn trong Tim của mình là có Đạo. Vậy con phải nghe theo lời Thầy dạy đây mà viết ra một bài gọi là TỰ TRI KỲ YẾU trong đó Thầy có nhắc đủ các lời đặng nhiều đứa có học hành coi rồi xét lấy.
- Bạch … Con vưng theo lời Thầy.
Thầy cho bài mỗi đứa có lòng như vậy nghe rồi thì biết, từ đây chẳng nên đem các việc đó tới Thánh-Tòa hay là Thánh-Thất mà thưa nữa.
TỰ nghĩ về đâu kết chuyện sầu
TRI tình thế sự ở đâu đâu
KỲ ngôn tiên triết tường hư thiệt
YẾU trọng ư hòa vạn lý thâu.
NẦY:
1.- Các con nam nữ dưới trần
Xét trong thưa kiện có phần nào hay
Hoặc là chồng vợ trở day
Chẳng ham hòa thuận cãi hoài vui không?
2.- Với nhau thường nói một lòng
Nói ra thì vậy chỗ dùng được chưa?
Sui gia tình hạp nghĩa vừa
Giả câm giả điếc đặng ngừa nói gian.
3.- Ngồi chung vui một đồng bàn
Phía dâu, phía rể hai đàng cũng con
Hễ thương khỏa lấp méo tròn
Dầu cho việc dữ cũng mòn, cũng tiêu.
4.- Vợ chồng là chỗ mến yêu
Xướng ngôn tùy phận giàu nghèo cũng vui
Chồng khôn vợ dại cũng đời
Vợ lanh chồng dốt cũng Người với Ta.
5.- Nương nhau dạy bảo cho hòa
Đó là Chơn-Lý Đạo nhà mở mang
Kiện thưa thì khổ hai đàng
Thất công tốn của rồi mang đám khùng.
6.- Của tiền ruộng đất là chung
Mẹ Cha để lại dùng trong một thời
Chia nhau nhiều ít tại lời
Nhắm sau ngó trước nhớ lời Mẹ Cha.
7.- Anh em nhìn đó mới hòa
Sá chi vật chất gầy ra đau lòng
Hãy nhìn như kẻ tay không
Ngày ăn hai bữa cũng xong một đời.
8.- Nói ra ai cũng thương người
Mà trong dòng họ xúi người hại ta
Tại vì chẳng xét gần xa
Giàu nghèo tại chỗ thuận hòa với hung.
9.- Kể cho mình hưởng đến cùng
Mà quên cùng thế tại dùng quá khôn
Ỷ mình phe đảng phần đông
Phần đông mà hại tại không xét thầm.
10.- Tại vầy Thầy để Lương-Tâm
Cải lương về bạo thấy lầm thấy sai
Nhơn-Tâm Thầy đã chỉ hoài
Là nguy là hiểm biếm bày dại khôn.
11.- Đã cho ai cũng có Hồn
Hồn mê, Hồn tỉnh vong tồn chẳng thông
Thờ Cha thờ Mẹ hết lòng
Anh em không thuận viện lòng kiếm ăn.
12.- Nhiều con dại dột vô ngằn
Đã thân vào Đạo còn lăn theo vầy
Vầy là chẳng hổ cỏ cây
Làm điều vô dụng không hay không nhằm.
13.- Thờ Trời Thiên-Nhãn tại Tâm
Hỏi sao mà chẳng tủi thầm lại ưa
Vầy đoàn hiệp lũ sớm trưa
Đánh Nam dẹp Bắc tội đưa theo mình.
14.- Làm người lãnh trọn sự Linh
Đã Linh sao lại đem mình vào hang
Thầy thương rọi đuốc chỉ đàng
Là do Đạo-Lý khỏi ràng buộc thân.
15.- Ai ai cũng có phước phần
Ít nhiều theo phận phải cần thương nhau
Phận nghèo đừng có ước giàu
Phải suy số mạng trước sau tại Trời.
16.- Sang giàu đừng có lả lơi
Phải thông báo ứng vận thời trả vay
Mỗi con vào Đạo Cao-Đài
Ráng nghe Thầy dạy một bài Tự-Tri.
17.- Cho hay chánh yếu Tam-Kỳ
Khải thông Đạo-Đức chuyển nguy vi tường
Bớt hờn ngang dọc cự đương
Thuận Thiên hòa Lý là phương Thái-Bình.
18.- Con nào biết phải thì tin
Tin làm cho đặng Thầy nhìn giúp cho
Con nào lòng dạ chẳng lo
Tới đâu hay đó cũng cho là rồi.
19.- Con nào ngạo báng Đạo Trời
Thì mau hỏi lại sống đời nhờ ai?
Đó là lời thiệt chẳng sai
Cứu cơn mạt kiếp phận ai nấy nhìn.
20.- Trời cao Đất rộng công bình
Vì thương dạy trước giữ mình gọi tu
Đuốc khêu tỏ rạng phá mù
Đã không theo tỏ lại thù oán riêng.
21.- Đó là lòng dạ chẳng hiền
Cậy Trời giúp ngược phỉ nguyền bề trong
Trách sao lòng chẳng thẹn lòng
Hại nhơn, nhơn hại sách còn cổ kim.
22.- Đứa mê trôi nổi đắm chìm
Thầy ra cứu vớt lại hiềm lại nghi
Biết Thầy là bực Từ-Bi
Từ-Bi thưởng phạt nhiều khi dạy rành.
23.- Tại sao mình lại quên mình
Nói ra không sợ rồi tin chỗ nào
Ngó chừng Đất rộng Trời cao
Dại khôn quấy xảo ngõ nào chạy ra;
Từ đây khuyên nhớ chữ Hòa
Nhứt tâm về Đạo đó là sự vui.
Thăng.
******************
13. HIẾU TÂM VỀ ĐẠO
(Lục tuần đáo tuế)
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 8 tháng 1 âm-lịch 1939
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Nay DƯƠNG nó muốn xin làm lễ chúc thọ tuần cho Thân-Phụ của nó, việc đó là theo thế tục, làm đặng cầu vui gọi là đáo-tuế, theo phép đáo-tuế thì người được hưởng thọ đến bực đó, buộc phải làm lễ tạ ơn Trời Đất cho hưởng đặng đến tuổi nầy, ấy là theo tục xưa vừa qua rồi đó. Nay là thời kỳ Chơn-Lý khử Ngụy tùng Chơn, dầu sống đặng bao lâu đi nữa thì buộc phải lo làm Công-Quả sửa nết tu hành, đặng trừ tội cũ, mà còn dư Công-Quả chút nào thì lo nối Thiêng-Liêng về tới nữa, đặng ngày sau khỏi vương nợ trần, đó là lẽ thiệt. Nay DƯƠNG nó vì chưa dứt tục, muốn làm cho ra vẻ hiếu tang, Thầy cũng đáng khen cho nó, song trong Luật của Thầy không có cho làm điều chi cầu vui mà gọi là báo hiếu.
Vậy Thầy vui lòng cho nó một bài thơ để gọi là HIẾU TÂM VỀ ĐẠO, đặng nó đọc cho Cha Mẹ nó nghe, hoặc là cho người khác rõ mà tránh lần điều tục.
THI
1.- Người sanh trong cõi Đất Trời
Sống nương xác tạm giúp đời nhờ chung
Tuổi xuân khí tráng lực hùng
Tỷ như xuân thọ ngộ phùng tường vân.
2.- Tuổi cao hình vóc yếu lần
Khác nào thuyền khẳm giữa chừng gặp giông
Lớn thì kính trọng vai ông
Bực trung chú bác, hạ tùng đệ huynh.
3.- Xét coi lấy đó hỏi mình
Khi sanh khi trưởng khi bình mấy khi?
Thể thân người cũng ba kỳ
Nhứt sanh tráng kiện, hạ thì giảm suy.
4.- Xét rồi cũng chẳng lạ chi
Có thân, có thể, có kỳ hạn riêng
Khác nhau kẻ dữ, người hiền
Thọ yên thay đổi hậu tiền cũng đây.
5.- Tới lui trong cõi tạm nầy
Là do nhơn quả đọa đày thưởng răn
Tuổi già thì phải ăn năn
Xét trong lúc nhỏ nhố nhăng tội nhiều.
6.- Xuân thời chớ tập hiu hiu
Sợ e không trọng đời kiêu ngạo nhiều
Thánh xưa Người có để lời
Lão lai tài tận ở đời đừng quên.
7.- Trẻ già đều có tuổi tên
Kính thưa nhường nhịn dưới trên cho hòa
Làm con mới trọn thảo cha
Trước tuân lời dặn, sau hòa đệ huynh.
8.- Sửa sang đầm ấm gia đình
Khó nghèo chẳng luận khuyên nhìn một cha
Giàu sang gia đạo bất hòa
Sánh so lễ vật gọi là cầu vui.
9.- Ít ai Đạo-Lý rõ mùi
Phụ nghiêm Mẫu thuận trọn đời làm con
Sự vong như thể sự tồn
Ban y tiếu vỏ phụ tồn hữu phương.
10.- Hiện nay Đạo-Lý bày tường
Tục mê bỏ bớt một đường đồng tu
Chẳng thông nào khác kẻ mù
Nghe đâu làm đó gọi cầu chúc thân.
11.- Nếu ai tuổi đến lục tuần
Phải suy, phải xét nửa mừng nửa lo
Mừng vì bữa đói, bữa no
Từ đây trở lại cũng cho khỏi rồi.
12.- Lo là ngày tháng khúc nôi
Rủi lâm hoạn nạn sợ hồi cô thân
Tự tâm suy xét xa gần
Tới lui hai lẽ lo mừng là đây;
Thầy cho DƯƠNG một bài nầy
Đọc cho giải tục đặt bày từ xưa.
Thăng.
******************
14. THƯỢNG-NGUƠN PHÚ
Kiên-Giang, đêm 9 tháng 7 năm Canh-Ngũ
-------o0o-------
Xuyên châu Liên-Huờn điệu
DĨ - Bươn bước lần bực, may lối vô được HAM
Chỉ chừng thiệt hơn, dắt đường Đạo Chơn
Cổ cầm sánh duơn, VI VẬN.
TRÍCH - Từ phước tầm. Ngô Giáng Tiên, Phú, Ngũ
Hổ cô nhứt tiếu, Điệu.
NHẬP ĐỀ
1.- Hội Thượng-Nguơn nhứt phẩm,
Người mừng ca Thánh thọ vô cương.. (bươn)
Lệ trung giái tứ phương, Lễ ứng chực
Thiên quan tứ phước . . . . . . . . . . . . . (bước)
2.- Gái dầu đèn, trai sáp đuốc, ngược xuôi
lo trả nợ quỷ thần . . . . . . . . . . . . . . . . (lần)
Già nọ cúng, trẻ hương dưng, tở mở
tính kể ơn Trời Phật . . . . . . . . . . . . . . (bực)
3.- Tôm, vịt, thịt, tam xên lễ chất, dưới
xê lên, trên xích xuống, tranh đua
dường quỷ chực giàn chay . . . . . . . . . (may)
Chuối, bánh, xôi lục cúng cỗ bày,
kẻ lấn tới, người xô lui, chen chúc
tợ trẻ dòm rạp bội . . . . . . . . . . . . . . . (lối)
4.- Phiên tào kê, phiên chủ hội, lên thì nhang
đèn, xuống thì cứ tụng Nam-mô. . . . . (vô)
Lớp tín chủ, lớp tăng đồ, trước hễ quì
lạy, sau hễ thấy mòi coi bắt chước … (được)
5.- Vái van càng lấy được, hước xin bùa, hùa
Xuyên xin niệt, cầu ngày yết, liếc ông sư, bộ hiền
từ, mưu đỉnh đạc, phát phái đỏ, xỏ quai
Châu xanh, khoanh giấy vàng, tràng son thắm,
cấm lằng nhằng, vái ngũ qui tam . . . . . . (Ham)
Liên Vay trả chả tham lam, ham số vốn,
bốn số lời, của Phật Trời, nơi bổn phố,
Huờn Tiếng mượn mỏ, thể chung càng, dùng
pháo hồng, bồng giấy bạc, phát sổ trắng,
Điệu rặng chữ đen, biên ắt chất giáp năm
bội nhị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (chỉ)
6.- Cho vay chưa mấy quỷ
Đoán xăm mới thiệt Thần . . . . . . . . . . . . (chừng)
7.- Một năm có một lần, coi xăm một thử
coi cho biết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .(thiệt)
Trăm quẻ đều trăm quyết, cá tiền trăm
cũng cá chẳng sờn . . . . . . . . . . . . . . . . . . (hơn)
8.- Bụng cầu Trời, tai lóng như đờn, lòng
dối thế miệng ngon tợ mật . . . . . . . . . . (dắt)
9.- Bề ăn ngay ở thật, sao không lo tích
đức tu nhơn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (đường)
10.- Thế so thiệt tính hơn, sao chẳng sợ
lời trên đà dặn bảo . . . . . . . . . . . . . . . . . (Đạo)
Khuyên dưới chớ khinh lờn . . . . . . . . . . (chơn)
11.- Chớ tu vào kiếm thọ đao sơn
Phải tu đến Liên-Đài tịnh thổ . . . . . . . . (cổ)
12.- Cái ham mộ
Muốn thiện tu tâm . . . . . . . . . . . . . . . . . . (cầm)
13.- Mau đọc lấy bài ngâm
Ta cho đây cho chánh . . . . . . . . . . . . . . . (sanh)
14.- Trời phú gương minh cảnh
Phước của Hội Thượng-Nguơn . . . . . . . (duơn)
NGÂM RẰNG:
Tu sao chơn bước cõi Di-Đà
Tu muốn ngày càng thấy Thích-Ca
Tu dốc trau mình yên cội nước
Tu cho rạng đức mới dân nhà
Tu mong trọn vẹn lòng ngay thảo
Tu lánh tà tây thói quỷ ma
Tu quyết một niềm nơi Tánh Mạng
Tu theo đường thẳng thể Thầy ta.
******************
15. THEO THẦY HỌC ĐẠO, THEO THẦY CẦU DANH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 2 âm-lịch 1939
-------o0o-------
Nầy các con nghe Thầy hỏi:
1.- Mỗi con nào quyết theo Thầy
Theo Thầy học Đạo, theo Thầy cầu danh
Xét đi xét lại cho rành
Cầu danh học Đạo cứu mình hay hư?
2.- x Chỗ học Đạo thì ưa vui vẻ
Chỗ cầu danh thì kẻ tôn sùng
Hai điều nầy khó ở chung
Kẻ chơn, người ngụy có tùng thuận đâu.
3.- Đạo tại vậy mà lâu mà trễ
Người không quen nên hệ xiết bao
Tranh giành tu niệm lao xao
Cầu danh học Đạo đua nhau chống kình.
4.- Người học Đạo thì tin theo Lý
Đứa cầu danh hiệp ý so quyền
Mỗi ngày hằng mỗi tính riêng
Lo sao mình đặng mối giềng gồm thâu.
5.- Một là muốn kẻ đầu người lụy
Hai là đem chuyện sỉ nhục người
Chẳng màng Người tốt Ta tươi
Cứ lo tìm kiếm móc bươi cho nhiều.
6.- Kẻ học Đạo chịu điều cay đắng
Dầu khó khăn cũng ráng dò lần
Quyết làm cho trọn tân dân
Không ham quyền lợi chẳng phân nghèo giàu.
7.- Quyết là quyết mình sao đắc-quả
Lo là lo khỏi đọa luân-hồi
Tại vầy cực nhọc chẳng thôi
Là tâm biết một đời vui trọn đời.
8.- x Hỏi sơ chỉ cạn ít lời
Mỗi con nào tính Đạo Đời thì ngăn
Rõ rồi khỏi thở khỏi than
Cầu danh thì phải chịu mang danh nhiều.
9.- Danh là tật đố với kiêu
Danh người phá Đạo để nêu lâu dài
Tu chung một Đạo Cao-Đài
Cầu danh với học từ rày khác xa.
10.- Đó là lừa lọc để ra
Có nơi có chỗ gọi là thưởng răn
Thưởng cho người mến Đạo hằng
Hằng lo sửa nết, việc xằng chẳng ưa.
11.- Răn trừng cho bọn đỏng đưa
Dể ngươi kình chống tội xưa thêm chồng
Cả hai dồi dập Đại-Đồng
Hành thân chịu khổ đến cùng đời xem.
12.- Con nào lòng dạ cẩn nghiêm
Thấy đâu sợ đó dễ tìm đường ngay
Đã đành thời cuộc đổi thay
Song trong thưởng phạt chẳng ngoài lẽ công.
13.- Phần nhiều chưa đặng suốt thông
Còn mê, còn vọng tiếc công so tài
Kể công nào chẳng trọn ngày
Đó là chẳng thiệt với Thầy nơi trong.
14.- So tài mà Đạo chẳng thông
Tài khôn tài xảo rủ đông cậy tài
Vọng tâm Thầy đã răn hoài
Muội mê rồi trở nói Thầy hại con.
15.- Tại vầy lòng dạ thon von
Thảm cho nhơn loại dò đon không nhằm
Đọa đày thì biết khổ tâm
Ngặt sao Thầy dạy tu tâm lại hờn.
16.- Hoặc là tích đức tu nhơn
Dạy đâu bỏ đó chẳng tuân phần nhiều
Thương con hết sức dắt dìu
Lòng ưa ngỗ nghịch Thiên-Điều nào dung.
17.- Mỗi con nào xét cho cùng
Mới hay tội phước tại lòng gây ra
Khác nào như Phật với Ma
Tại Tâm chẳng định thành ra hai đường;
Dặn chung mỗi trẻ cho tường
Từ đây khuyên bớt tật lường kể công.
******************
16. PHỤ TỪ TỬ HIẾU
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 5 âm-lịch 1939 (năm Kỷ-Mão)
-------o0o-------
Nầy các con nghe Thầy hỏi:
1.- Mỗi con đọc Phụ-Từ Tử-Hiếu
Nghĩa Phụ-Từ Tử-Hiếu ra sao?
Mảng đua chen lấn nghèo giàu
Mà quên đạo nghĩa cùng nhau bất hòa.
2.- Cha chẳng rõ Đạo cha cho đúng
Con không rành nhau rún là đâu
Dại khôn khôn dại làm đầu
Khó răn khó dạy tại giàu tại lanh.
3.- Trong gia đạo chưa rành trật tự
Lại ham lo kình cự tranh tài
Tại vầy mà lạc mà sai
Tưởng ăn tưởng mặc qua ngày là vinh.
4.- Chữ Tử-Hiếu khó gìn cho thuận
Cha hiền lành giữ phận thương con
Khuyên răn dạy dỗ mất còn
Nghĩa phương Đạo-Lý cho tròn đừng quên.
5.- Dạy con biết điều nên lẽ quấy
Mình buộc mình trước thấy sau chừa
Dứt rồi đừng để dây dưa
Cho con coi đó đặng ngừa giữ thân.
6.- Gặp việc phải, phải cần làm phải
Quấy thì răn sửa lại cho hòa
Đó là bổn phận làm cha
Từ-Nghiêm Ái-Dụ trị gia chi quyền.
7.- Còn chữ Hiếu Thầy khuyên phải nhớ
Đạo làm con phải sợ tội Trời
Cha sanh Mẹ dưỡng nên người
Đó là tỷ cập như Trời Đất riêng.
8.- Dầu Cha Mẹ chẳng hiền đi nữa
Cũng phải lo bào chữa cho tròn
Cạn lời can gián là con
Chẳng nên ngỗ nghịch ỷ khôn không màng.
9.- Trọn chữ Hiếu đừng toan tranh đấu
Bề anh em một máu thịt đồng
Giàu nghèo đều cũng thương chung
Hễ con hòa thuận đẹp lòng Mẹ Cha.
10.- Rủi nghèo khổ đó là tại số
Giữ phận nghèo đừng cố giận riêng
So nhau vì bởi bạc tiền
Vì quên căn mạng đổi hiền làm ngu.
11.- Dầu sang trọng rún nhau đừng bỏ
Chỗ tới lui cho có trọn niềm
Đã rằng cốt nhục anh em
Đừng so sang trọng quên niềm sơ sanh.
12.- Giữ cho trọn tình anh nghĩa chị
Biết phận em chung thỉ cho hòa
Ngó nhìn đều một Mẹ Cha
Giàu sang nghèo khó đó là tạm đây.
13.- Biết của tạm kẻ vay người trả
Thì đừng chia nhĩ ngã sanh rầy
Hãy nhìn trong một sợi dây
Khúc lơi khúc nhặt tại tay thợ làm.
14.- x Trước Thầy hỏi cả nữ nam
Mỗi con nào xét hiếu tâm phận mình
Tu hành quí tại đức tin
Lời Thầy có dạy có gìn hay không?
15.- Có nghe thì có dặn lòng
Chớ nên xao lãng uổng công cho mình
Phụ-Từ Tử-Hiếu lưu danh
Dầu trai dầu gái phải rành là hay.
16.- Con chung học có một Thầy
Làm ra chẳng hạp tội nầy tại ai?
Tam-Tôn Thầy chỉ một bài
Con nào biết sợ từ nầy mở mang.
17.- Đạo nên Đời bớt bạo tàn
Là trong biết sợ ngoài can gián lần
Đã nhìn Quân Phụ Sư ân
Thì lo sửa tập cho gần trọn ba;
Ước ao con dại cho hòa
Đừng ham tranh cạnh đó là Đạo Chơn.
Thăng.
******************
17. CÁI TỤC MÊ TÍN DỊ ĐOAN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 11 âm-lịch 1938 (4 giờ khuya)
-------o0o-------
Nầy các con nam nữ, mỗi đứa có lòng mộ Đạo, quyết chí theo Thầy, xin ráng nghe Thầy dạy đây mà tự xét.
Nầy các con! Kể từ ngày Thầy chuyển ĐƯỢC nó ra cầm mối Đạo là ngày 15 tháng tư đến giờ, thì trong mỗi con cũng có chỗ vui, nhiều đứa được học nhiều bài vở, đứa thì lo Công-quả Công-phu, Thầy xem thấy rõ cũng có chỗ mừng cho các con đó, song ngặt có một điều là chưa được hòa cùng nhau, là còn tánh chê bai kình chống, nói méo nói tròn, khoe hay ỷ giỏi, chẳng trọn hòa nhau là vậy đó.
Đây Thầy nói cho các con rõ: Hễ tin Thầy dạy Đạo, muốn bực hiền lương thì phải kềm thúc tâm phàm, nhịn nhau nhường bước, bớt việc nói hành, vậy mới gọi là trọn phải đó.
Đây Thầy chỉ thêm cái tục mê tín dị đoan, cho những đứa nào còn sa vào đó ráng nghe mà tự tỉnh, phải nhìn thấy CA ĐƯỢC hiệp nhứt, mà chưa rõ hiệp nhứt ra làm sao? Cứ tưởng thầm cho hiệp nhứt đặng hô phong hú võ, chỉ cọp thành rồng, ngó cồn ra biển, nên cứ ngày đêm tư tưởng cho việc đó đắc thành, đặng hưởng nhờ ân huệ, thật cái thiết tưởng của mỗi đứa đó rất sai lầm, nên phải chịu lao tâm mà không nên việc, tại vậy nên ít lo học hỏi, để ý ngó chừng, rồi có đứa đợi lâu ngày ngã lòng thối bước, Thầy quá thương hại cho những đứa đó, mảng mê phép lạ mà chưa rõ thiệt hư, nên phải chịu đành phủi công tu niệm.
Đây Thầy giải nghĩa cho những đứa đó nghe, kể từ xưa đến nay, những bực Thần Tiên mà có tài hay phép lạ, để tiếng lại đời nầy, coi theo truyện thơ mà nhắc nhở, đó là người đã đặng tiêu diêu khoái lạc, khỏi ở dương trần, tới lui thong thả, muốn có thì có, muốn không thì không, đó là đã mãn kiếp rồi, song những vị ấy trước đều tu như ngày nay Thầy dạy các con đây, là phải lập xong danh phận, trên vưng lịnh Thiên-Tài rồi làm ra hạnh đức, lấy hạnh đức đó mà ban bố ra cho đời tỉnh gọi là Nhơn hòa, hễ Nhơn hòa thì thắng bạo, nếu bạo tàn không thắng được thì đức lợi tự nhiên, đó là không dạy tài hay phép lạ, bùa chú dị đoan, mà được an hòa, thì đó gọi là thạnh đức, nếu một kiếp làm như vậy cho được hoàn toàn, rồi qua cho đến Đại-Thành thanh tịnh, thì tâm tánh vẫn hư không, chừng ấy mới có thể làm ra các điều của mỗi con tưởng đó.
Đây Thầy hỏi có đứa nào làm được như mấy lời Thầy nói trước đó chưa, nếu chưa được thì lo tu theo lời Thầy dạy hiện giờ đây, đặng cho an cư lạc nghiệp, cộng hưởng hòa bình, đó là một điều vui chung cho cả Hoàn-cầu Thế-giái, còn việc ao ước như lời Thầy quở răn đó thì bỏ quên đi, những đứa nào không nghe, Thầy quá thương cho có ngày mang hại.
Vậy con biểu Hội-Thánh in ra cho nhiều gởi cho các nơi đặng cứu vớt những người nào biết hối ngộ.
Thăng.
******************
18. PHẢI CHỊU HẠ MÌNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 7 nhuần âm-lịch (1938)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói cho KHANH nó rõ, nó chớ nên than thở tuổi già tác yếu, nhọc sức lao tâm, mà vội quên mình là tôi Tạo-Hóa, kìa nó thử xem muôn vật ở trong Võ-Trụ nầy, thảy thảy đều cũng giữ theo bổn phận mà làm, làm đó đặng chi? Có phải là làm đặng trả ơn cho Tạo-Hóa không?
Nay Thầy cũng vì luật Công-Bình mà cũng tùy theo thời cuộc, nương máy Tuần-Huờn nên mới để Sa-Giang là yếu trọng, hễ yếu trọng thì phải có người làm chủ cho vững vàng đặng chống ngăn tà mỵ, mà lo dìu dắt chúng sanh đặng một ngày kia trở nên là một nơi Linh-Địa, hễ là Linh-Địa thì phải có Chơn-Truyền, bởi vậy nên Thầy lo sắp đặt tại đó cho hoàn toàn, nên Thầy tính cho Hàng-Long tá lâm truyền Đạo là vậy đó, đã biết ngày nay tuy nhọc việc đó thấy rồi, nhưng nó phải xét, có nhọc mới có danh, có danh rồi nương danh mà lập thế, lập ra cho có thể là do máy tạo thành trung thế tạo, thành là thành qui vị Thiên, muốn làm cho tận thiện thì phải chịu hạ mình, trong cách hạ mình sẵn có Thầy ung đúc, nó biết có Thầy ung đúc thì phải gia tâm, làm được vậy mới gọi là Tam-Tài giao hiệp, thì lo chi mối Đạo không thành? Nên Thầy thường nói, Đạo thành cùng không thành là do nơi các con muốn cùng không muốn là vậy đó.
Vậy con biểu CA gởi cho nó đi.
Thăng.
******************
19. BẤT TRI TẮC VẤN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 11 âm-lịch năm 1939 (4 giờ khuya)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải cho KÍNH nó nghe, trong 4 điều nó xin hỏi Thầy đó gọi là “Bất Tri Tắc Vấn” thì đã phải, song Thầy giải ra cho rành thì buộc nó phải làm cho y theo đó mới gọi là chẳng uổng cái lời của nó hỏi cùng là công Thầy chỉ ra, vì chữ “Bất tri tắc vấn cập tri hồ, tri hồ hành hồ, tri hành hiệp nhứt” đó là lời Thầy nhắc cho nó hay, sau đây Thầy giải nghĩa ra cho nó rõ trong 4 điều xin hỏi đó.
Câu thứ 1: Thiên mạng vị chi tánh, xuất tánh chi vị Đạo, đó là tánh mạng song tu, nghĩa là tánh của Trời phú cho mỗi người ban sơ là sự sáng, nên mới biết học biết hành, song có học mà hành chưa đúng theo chỗ học đó, nên nhà Phật gọi là “Tu-Hành”, Nho gọi là “Học-Hành”, Đạo gọi là “Lý-Hành” thì trong đó thảy đều noi về một chỗ.
Còn Thầy dạy “Tánh mạng song tu” thì phải nhớ lời nói sao thì buộc phải làm y, cả hai đều gọi là tu cho trọn, nên chẳng dám nói dối cùng là không dám nói cho quá nhiều lời, thì e cho làm không trọn, hễ làm trọn thì tánh mạng thành, tánh là của Trời ban, mạng là vưng lời làm cho trọn, đó là tùng mạng thuận Thiên, làm cho đặng gọi là hòa lý.
Câu thứ 2: “Hồn nương với Xác”, chỉ tắt và rẽ cho dễ hiểu: Hồn là hơi thở, Xác là cái thân đây, hoặc Hồn là máu, còn Xác là thịt xương, cả hai đều có riêng nhau đặng lo làm phận sự. Còn về phần hành Đạo cho đúng Chơn-Lý chỉ ra cơ thể thì Hồn là Hiệp-Thiên-Đài, Xác là Cửu-Trùng-Đài, thì cũng phải nương nhau đặng dò theo cơ Tạo-Hóa.
Câu thứ 3: “Thầy đâu con đó”, nghĩa là: Tâm thường nhớ lời Thầy dặn bề cư xử như thể lòng Trời, đó là Thầy dạy đâu con làm theo đó, nên gọi là theo Thầy.
Câu thứ 4: “Con đâu Thầy đó”, nghĩa là cái Xác nầy là Xác của con nương nhờ cha mẹ của phàm mà tạo thành cơ thể, còn trong thì có một điểm Linh-Quang gọi là Hồn hễ cái Xác thân nầy, mỗi việc đều Định-Tâm mà xét, đó là chỗ hỏi Thầy, nên gọi là con làm tới đâu, hỏi Thầy tới đó, là chỗ hỏi Lương-Tâm, định nhằm một lý, là buộc cho phải trọn lòng thương, mới gọi là Trời chung trong Một là vậy đó, làm được như các lời nói trên đây gọi là “Tu Tâm dưỡng Tánh”.
******************
20. THẦY CÓ 4 CÁI TÒA-THÁNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 19 tháng 7 nhuần âm-lịch 1938
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải gởi bài của ĐIỀN đó cho CA nó coi nó sửa lại chút ít, đặng nó in ra cho Đạo rõ, vì từ khi Thầy ra vấn đề nầy đến giờ, chưa có ai tìm cho ra.
Nay vì ĐIỀN nó cũng có dày công học Đạo nên nó mới tìm ra.
Vậy con biểu CA nó in rồi trả lại cho ĐIỀN một bổn, còn bao nhiêu phát cho Đạo học đặng mà thức tỉnh.
Thăng.
Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn
Mở lòng Bác-Ái thương con với cùng
Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi
Xin thương con dại ngu si phàm trần.
Giáo-Hữu Thượng-Điền-Thanh ở làng Hòa-Định
Con cúi lạy Thầy rộng lượng cho con học, con xin trả bài học Tâm của con dưới đây, hầu trong có Thầy . . . . .
Trong Chuyển-Mê số 9 trương 34 Thầy có nói:
Thầy không phải có một cái Tòa-Thánh...
Thầy có đến bốn cái Tòa-Thánh,
Ba cái vô hình và một cái hữu hình,
Là 4 cái Tòa-Thánh của Thầy, các con ráng tìm mà hiểu…
- Con cúi đầu bạch:
* Tòa-Thánh thứ nhứt: một cái Tòa-Thánh của Thầy
Bạch-Ngọc-Kinh Điển Linh Thầy rọi
Hiệp-Thiên-Đài ánh vọi Thần-Phan.
Là chỗ Thầy ngự mà phán xét cả thế gian, tội phước thưởng phạt.
* Tòa-Thánh thứ hai: Tòa-Thánh tại Tâm của người… để cho êm, cho thanh, cho tịnh, cho trong, cho sáng mà học Đạo-Lý tự nhiên của Thầy họa ra đó, thì mới biết có Thầy nơi Tâm của người.
Thánh-Ngôn Thầy có nói:
Cao-Đài vốn ở lòng con đó
Bỏ tánh Tham Si sẽ gặp Thầy…
Nên trong tâm của mỗi người muốn tính làm bài vở chi, tâm muốn hay là tay viết ra Thầy đều biết hết, nên cái tâm của người đó thuộc về khí Tiên-Thiên nơi Trời.
* Tòa Thánh thứ ba: “Vô-Vi Hiệp-Thiên-Đài” là chỗ thanh tịnh Thầy giao cho Chưởng-Quản, chỗ Thầy để trao các Thánh-Ngôn và ban hành các Thánh-Huấn, đặng đem qua Cửu-Trùng-Đài mà truyền bá Đạo-Lý của Thầy, đặng cho biết nguồn cội của Chơn-Lý.
* Tòa-Thánh thứ tư: Tòa-Thánh Trung-Ương sửa lại là Định-Tường, vì là hữu hình, Thầy để hiệu Định-Tường là nơi Thầy định quyết một chỗ để phán xét tường tận cho chúng sanh ngó thấy rõ sự thưởng phạt của Trời tại thế gian.
******************
21. RÁNG HẾT LÒNG VỚI ĐẠO
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 1 tháng 1 âm-lịch 1939
-------o0o-------
Thầy mừng các con nam nữ, cũng vì lòng Đạo-Đức mà chẳng kể chơi xuân theo tục, vậy từ đây Thầy khuyên các con hãy ráng làm cho thêm tỏ rõ các điều cách cựu duy tân, đặng tránh cho qua lần Đại-Kiếp.
Nầy các con ôi! Thầy hết lòng thương mà dìu dắt chắt chiu khuyên nhủ, đặng các con vui lòng bước lần theo con đường Chơn-Lý, mà hiện nay thấy rõ cũng có phần nhiều tuân theo lời dặn, song lòng còn ngơ ngáo, chưa bước thẳng cho đồng, tại vậy nên phải có hồi lặn mọc, là trong lúc Thầy ra lịnh dạy làm Hạ-Hiên Bát-Quái đây. Nầy các con, chớ nên yếu dạ mà tưởng rằng của đó là của riêng, thì khó gần Chơn-Lý, trong cuộc nầy Thầy không cho ép, đó là vì Đạo thì để cho tự xử lấy mình nếu mỗi con mà để trọn đức tin, của đời người tạm, còn Chơn-Lý là vạn cổ lưu danh, thì có đâu là nặng, tại vì trong chỗ có tu mà chưa trọn niệm, tại vậy Tâm Tánh rẽ chia, thì ngày nào cho hòa hiệp? Nếu không hòa hiệp thì Đạo sao cho đặng mở mang?
Đây Thầy nói cạn cho các con nghe, rủi mà các con ở nhằm chỗ vô duyên vô phước, nay chiến mai tranh, thì các con mới liệu làm sao? Đó là Thầy thấy rõ lòng dạ của phần đông mỗi đứa than thở, nên Thầy nói trước cho hay, còn việc tu niệm thì các con xét lấy.
ĐƯỢC, con đem đọc tại Bửu-Điện nghe.
Thăng.
******************
22. HỌC ĐẠO-TRÀNG
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 2 âm-lịch 1939
-------o0o-------
Nầy các con nam nữ, những đứa nào có học Đạo-Tràng, ráng nghe Thầy phân rành các lẽ, đặng hồi tâm suy xét mà tự cứu lấy mình nghe các con.
Các con ôi! cái tục phàm nó đã nhiễm vào óc của mỗi con đã lâu rồi, cái vàm danh khóa lợi nó ràng buộc các con cũng là có dấu tích rồi, tại vậy nên các con nhiều đứa không quyết học hành theo Đạo, đặng lo dưỡng tánh tu tâm, đứa thì tưởng theo việc đời, học đặng làm quan, làm công nghệ kiếm lương bổng nuôi thân, nuôi gia quyến, đứa thì mơ màng, ngày đêm học đặng cho tới chỗ Thầy đặng ngồi gần Bạch-Ngọc, có đủ chư Thần Tiên ngồi chầu chực, vui vẻ vô cùng, có đứa muốn học đặng Thầy truyền phép lạ đặng làm cho người đời kính phục, trông cho như hồi lúc Da-Tô hay là Thái-Thượng, thiệt các con mỗi đứa nào có lòng trông tưởng theo lời Thầy nói trên đó cũng là phải đi, là cái phải của mỗi đứa tiếc công đặng lường Trời mà quên mình chưa vững đó.
Đây Thầy cũng phân hết lẽ cho các con nghe chung, dầu cho cách học theo đời, đặng cầu công danh phú quí đi nữa, thì trong đó cũng phải có chút lương tâm mới được, nếu ai mà thiếu sót, thì dầu có công lao cho mấy cũng khó trông cho đặng hoàn toàn, còn muốn đến gần Thầy thì cũng không khó, là tại chỗ nghe lời Thầy mà làm theo cho y thì có ngày sẽ đặng, còn đứa ao ước phép lạ như Da-Tô hay là Thái-Thượng thì phải xét lại trong thời cuộc đổi dời xây chuyển, rồi sẽ thở than, nghĩ vì trong lúc Da-Tô giáng thế, hay là Thái-Thượng hóa kiếp Lão-Đam, cả hai đời đó đều còn quê tiện hơn thời cuộc hiện giờ đây, nên Thầy mới cho làm phép lạ đặng chỗ nầy đi qua chỗ kia cho mau lẹ, chớ hiện giờ đây đã đủ các thứ vận tải giúp vùa cho mỗi con đường đi nước bước, lui tới lại qua cũng đều mau lẹ, ngặt có một điều là các con phần đông không biết thương nhau, nương lấy cái hay đó mà toan mưu giết lẫn, sẵn của mà chẳng lo tu, ỷ có tài mà không thương kẻ dốt, tại vậy nên Thầy lo thúc kềm tâm tánh hằng ngày là nơi Đạo-Tràng dạy dỗ đặng cho các con đứa nào nhiễm đặng mà quên lãng cái tục phàm đặng tránh khỏi bước đường tội lỗi hiện giờ đây, các con phải hồi tâm cho sớm đặng tự cứu lấy mình, chớ nên quá vọng ước mơ mà làm cho đến đỗi Thầy đau lòng thì các con khó mà thoát ra cho khỏi khổ.
Vậy Thầy giáng đàn giờ nầy đặng phân rành hư thiệt chỉ nẻo đem đường tự ý mỗi con muốn cứu mình thì nghe theo, muốn hại mình thì không kể.
ĐƯỢC, con giao lại cho CA in ra đọc tại Đạo-Tràng và gởi cho các nơi đọc cho Đạo nghe mà tự xét.
******************
23. KIẾP MẬU-DẦN ĐẠI-THÀNH ĐẠI-KIẾP
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 12 âm-lịch 1938
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn: Kể từ ngày Thầy đem con ra hành Đạo đến giờ thì đã đặng một năm, đó là ngày lãnh trao Chơn-Lý, Thầy thường nói với mỗi con, trong kiếp Mậu-Dần khó khăn nhiều nỗi, song con chưa hiểu kiếp Mậu-Dần là bao lâu? cũng còn nhiều đứa chưa hiểu như con là khác.
Đây Thầy chỉ cho con nghe, từ lúc Thầy khai Đạo tại Tây-Ninh, rồi chuyển đến Kiên-Giang, đó là Tiểu-Kiếp Trạch-Thành, rồi từ Nhâm-Thân lập Thánh-Tòa, CA lên cầm quyền Chưởng-Quản với PHÙNG, đó là lập Trung như tuần Đại-Kiếp là một cơ bí mật, bực Hiền khó mà quyết đoán, đặng đem qua Mậu-Dần là Đại-Thành Đại-Kiếp, vì từ năm Mậu-Dần đây kể tới năm Đinh-Hợi, đó là gối đầu chữ Mậu, ấy là một kiếp Mậu-Dần là vậy, gọi là Thập-Can trong đó có Thiên-Can Địa-Sát ở ẩn theo nhiều đặng khuấy Đời phá Đạo; hồi đó Thầy sai PHÙNG ra lãnh trách nhậm, Thầy có dặn nó như vầy mà nó không nghe, cứ việc hiu hiu tự đắc, nên Thầy giảm lộc cho nó hưởng có ba năm mà không trọn, ấy cũng là một nỗi éo le cho sanh chúng, kẻ kết thảm người ngậm hờn, mà chưa hay chuyển kiếp. Nay đã đúng thời kỳ Thầy phải bổn thân dạy Đạo, nên chỉ rành cho con rõ.
Vậy từ đây, con phải giữ y theo lời Thầy, đừng có than phiền chi nữa, việc đến còn nhiều áo não, con đã thấy rồi dầu cho đến thế nào cũng có Thầy che chở, đó là một kiếp lập xong danh phận cho phối thuận Tam-Tài, vững an nhơn vật thì có phải dễ chi đâu? Trong một nước Nam mà đã 13 năm rồi còn chưa đặng vẻ vang một chỗ, huống hồ gì nói chuyện cao xa, đó là tại phần đông cũng có chỗ tu, mà chưa rõ sao là tu quyền, sao là tu thế, sao là tu giỡn, sao là tu chơi? Đã biết vậy mà không chịu tìm Chơn-Lý mà học cho rành, đặng thoát thân ra khỏi tục.
Thầy thiệt cũng quá buồn cho bọn nghịch Thiên mà lại khoe tài ỷ giỏi, có thân mà chẳng biết lo thân, cứ tư tưởng những điều quấy mỵ, nay trông tháng nầy, mai đợi ngày kia, rồi thỏn mỏn bỏ tu hành, cũng trở về nơi tục. Ôi thôi! nói sao cho hết, than thở không cùng, ấy là tại cái ý riêng của bọn nó làm thì bọn nó chịu. Vậy thì con cũng nên khỏa lấp trong các việc ưu sầu về việc gia thê đái tử, lần lần lo Đạo cho xong, hễ Đạo xong thì việc chi cũng rành đặng, đó là Thầy vì quá thương mà chỉ trước dặn sau, đặng con lo làm cho trọn, việc chi trong đó có Thầy chỉ cho, khó là tại nơi lòng quyết cùng không quyết.
Một ngày qua, một tháng lụn, hễ quyết chí tu hành thì Đạo-Đức cao siêu tinh thần phát triển, việc ấy con cũng đã hiểu rồi thì có chi đâu mà phòng than thở.
Vậy con giao lại cho CA đặng đọc tại Đạo-Tràng ngày 30 nầy cho Đạo nghe, hoặc ấn hành vào Đuốc-Chơn-Lý ngày Xuân tới đây, cùng là gởi cho các Thánh-Thất rõ sau khỏi trách Thầy sao không nói trước.
******************
24. DẤU THỎ ĐƯỜNG DÊ
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 14 tháng 6 âm-lịch 1943 (7 giờ tối)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nó lại cho CA nó hay, trong lời nó hỏi con “Dấu thỏ với đường dê” đó, thiệt là buổi hiện thời khó đem ra mà nói cho cạn.
Vậy Thầy chỉ cho nó coi mà biết, là qua năm Mậu-Dần rồi tới năm Kỷ-Mão, Thầy cho bài học ngày Xuân là: Năm nay đã mãn Mậu-Dần, thì đó là làm dấu trong năm đó gọi là dấu Thỏ, đường Đạo đi cho tới năm Quí-Vì là đường Dê, trong năm Quí-Vì nhiều nỗi khó khăn, nếu ai muốn khỏi lạc dấu tu hành, thì cứ bài Thầy cho năm Kỷ-Mão, cứ theo dấu đó ghi lòng đừng cho sái, thì năm Quí-Vì sẽ được vui về phần Đạo-Lý, Thầy nói vậy thì nó cứ đó độ ra rồi hiểu chuyện sắp sang về tới.
Vậy con giao lại nó coi rồi in ra dán Đông-Lang, Tây-Lang, đặng Đạo chép ra mà học. Còn Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh-Thất đọc Đạo nghe cho rõ.
******************
25. ĂN CHAY ĂN MẶN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 7 âm-lịch 1938
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Nay mấy đứa nó luận giải thanh trược mà chỉ về chay mặn, theo món ăn đó con liệu sao?
- Bạch: việc đó con chưa dám để tâm vào, cúi xin Thầy dạy.
Nầy con, con không để tâm vào đó thì phải, vì nó là món ăn thuộc về vật chất, ai dùng cách nào cũng được. Nhưng mà khác hẳn là phân biệt, hễ người thường trụ tại chùa hay là Tòa-Thánh thì phải dùng chay là phải, còn phần riêng của mỗi đứa thì phải coi theo chứng bịnh của mình mà điều dưỡng, chớ nên quá ép mà làm cho các món đó nó phạm đến ngũ tạng rồi thành ra chứng bịnh lao thân. Đã biết vậy mà người muốn tu hành thì phải năng dùng đồ chay mới có thể tu hành được, ấy là mượn cái món ăn đó nó nhắc nhở cho biết trong mỗi ngày mà kềm thúc tánh phàm, hai nữa khỏi dùng rượu thịt thì tránh khỏi sự rầy rà mà hóa ra tranh đấu.
Từ nay sắp lên, chẳng nên nói sự ăn chay ăn mặn mà gọi là thanh trược, rồi hóa ra vì món ăn mà công kích chê bai, đó là vì đua chen so sánh sự ăn mà sanh lòng ác cảm. Đạo của Thầy dạy là: Tùy thời biến diệc, tùy ngộ nhi an, tùy cơ ứng biến, biến như vô vọng, biến thử thành an, an nhi năng tịnh, tịnh dục vạn loại quần sanh, đắc thỉ chơn truyền, cứu nguy tế khổn, độ chúng qui hồi, do kỳ trung nhi hành kỳ ngoại, cảm ư tịnh nhi ứng ư thanh, dụng hành hữu trược, trược tẩy huờn thanh, thanh qui ư vị, do vị di quyền, do quyền nhi hóa, do hóa nhi thành, thành tựu lưỡng toàn, chi nhi bất tuyệt, hữu sanh hữu diệt, hữu trược hữu thanh, thanh trược bất tranh, thành do ư thiệt, lập công tiêu nghiệt, phi chấp thức nhi thành thử thị vạn an chi bí dã, nhĩ khả tri hồ.
Con giao lại cho chúng nó coi đi.
Thăng.
******************
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 11 âm-lịch 1938
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: Hiện nay trong phần đông có nhiều đứa cho ăn chay là phải, cũng có đứa cho ăn mặn là trúng, vậy con luận lẽ nào cho phân biệt, thì con cứ việc bạch ngay cho Thầy nghe, con trả lời đi …
- Bạch: theo lẽ con biết thì việc chay mặn đó là để phân biệt Đạo với Đời khác nhau, còn sự phải cùng không ấy là do theo lý mà quyết định.
Nầy con, nói đó là theo chỗ biết của con, chớ lấy cho thiệt lý thì không phải dùng chay mặn mà phân biệt Đạo Đời. Con xét đó coi, cũng có nhiều đứa chưa vào Đạo nào hết, mà cũng lo tập ăn chay đó, rồi con liệu sao? Con chưa rõ điều ấy rất nên khó khăn hơn hết, nên Thầy không biểu con sửa Kỷ-Luật chi cho mất ngày giờ.
Đây Thầy chỉ rành cho con rõ, cái việc ăn chay mà lo tu niệm là lẽ cố nhiên, còn đứa giả dối mà tập ăn chay, đặng bày điều gạt gẫm phần đó lại nhiều hơn cái phần ăn chay mà tu niệm. Vì tại đó nên Đời với Đạo khó mà phân biệt cho rành, tại vậy nên Thầy phải hạ mình cho đến đỗi đứng ra làm Giám-Đốc mà chỉ dạy Đạo-Tràng đặng cho Đời mau nghe thức tỉnh, như ai quyết tu thì phải học, còn không học thì thấy đó mà phân biệt. Trái lại nhiều đứa có học, có ăn chay mà không chịu làm là khác nữa, tại vậy nên khó mà sửa cho rành. Đã biết vậy chớ luật Thiên-Nhiên cũng là lo sắp đặt dành riêng có chỗ, giả thiệt có phần, mà bọn đó không rõ, nên mới dể ngươi như thế.
Đây Thầy nói qua việc chay mặn cho con nghe: từ xưa nay, hễ có Đạo dạy tu hành thì cái sự kiêng ăn, cấm sát sanh thảy đều là một bài học đứng đầu trong các việc, song không có bó buộc, ít nhiều tùy theo sức mà làm trọn, còn kỷ luật trong khoản ăn chay đó, Chưởng-Giáo cũng nói như khoản nầy, song KIÊN với PHÙNG nó muốn thêu dệt cho nhiều đặng làm cho người rộn trí, hai lẽ nan phân, đặng nó binh vực cái xác phàm của nó. Tại vậy nên từ ngày ban hành Kỷ-Luật đến sau, hai đứa nó phải giảm tinh thần mà nó không biết, đó là Thầy phạt hai đứa nó đó.
Nay tới thời kỳ con ra gánh vác, Thầy cũng có nhiều khi nhắc nhở, con cũng vì quá sợ sự mang tiếng mà bỏ qua, tại con không nghe lời Thầy nên trễ lắm làm cho nhiều đứa đổ thừa cho Kỷ-luật dạy ăn mặn.
Nay con đã biết lỗi, vậy con phải nói cho CA nó hay, phải dán Bố-Cáo tại Đông-lang, Tây-lang. Kể từ ngày nay sắp lên, không ai được phép nói Kỷ-luật của Thầy dạy ăn mặn nữa, khoản đó phải bỏ trôi, chớ nên đem ra mà diễn giải; vì việc đi tu, ăn chay là lẽ thường, khỏi lo nhắc nhở. Còn mấy chỗ éo le trong đó Thầy cũng có dạy con rồi, như gặp dịp nào nói đặng thì con đem ra nói cho rành, chớ không nên giải chi nhiều vô ích.
Con biểu CA gởi bổn nầy cho các chủ Thánh-Thất truyền bá ra cho Đạo.
Thăng.
******************
26. TU HÀNH ĐẶNG TỰ CỨU LẤY MÌNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 20 tháng 9 âm-lịch 1939
-------o0o-------
Nầy các con nam nữ, dầu Đạo dầu Đời, ráng nghe Thầy hỏi đây mà tự xét, trong đó đứa nào xét đặng, nghĩ nhằm làm cho trúng thì đứa đó tự cứu lấy mình. Nghe Thầy hỏi đây không có điều chi lạ, song chẳng rõ các con có nhớ không? Kể từ Vô-Thỉ đến giờ, Thầy cho Tam-Tông, Tứ-Thánh, Tam-Trấn, chư vị Thánh Thần giáng thế truyền Đạo cứu Đời cũng là nhiều kiếp, sách ghi chép để lại chẳng biết mấy pho mà kể. Trong đó có lẽ mỗi đứa hiểu đặng ít nhiều, hoặc là các lời sám-ngữ, mấy tiếng tiên-tri, kể ra cũng là nhiều lắm. Mà hiện nay Thầy hỏi lại các con, mỗi đứa muốn tu hành đặng tự cứu lấy mình thì rất phải, song hỏi lại người cứu đó là ai? Người đó ở đâu, tên gì? Các con có biết không? Nếu biết sao không tìm người đó mà nương dựa? Nếu không thì đi tu đây chi? Tu đặng cầu danh hay thủ lợi, hay là kết đảng, kết phe? Hay là rủ nhau làm cho nhơn tâm bất phục? Tu vậy gọi là cứu mình hay sao? Còn nói rằng không chịu làm quấy, vậy chớ làm phải là làm sao? Ai dạy phải cho mà làm? Cái phải đó ở đâu mà ra? Ai làm ra cái phải đó? Có nhiều đứa cũng biết nói tại tâm, thiệt là đúng lắm, song nói đó cho có chừng, chớ lời nói một nơi còn công việc làm thì một ngả, chẳng khác nào người đui mà không chịu cho người sáng dắt, cứ nghe tiếng nói theo, chắc có ngày cũng sa đường gai nẻo gốc.
Các con nhớ cho kỹ, từ xưa đến nay, những bực giáng sanh cứu thế thảy đều dạy đời có một chữ Tâm là đủ, mà trong đó phải biết rằng muôn ngàn lời nói phải, cả các việc làm lành cũng đều do các lý thiệt tâm đó mà ra, thì buộc mình phải nhìn Tâm đó cho kỹ, coi có sai siểng điều chi không? Mà được phát minh như vậy? Nếu Tâm đó không sai siểng mà đặng phát minh thì phải cứ đó đi theo, gọi là trúng chánh lý độ đời. Còn như Tâm đó không thiệt mà cũng gọi là phát minh thì sự phát minh ấy nó sẽ có ngày trở lại hại mình cho thêm khổ, rồi làm sao mà tự cứu lấy mình. Các con nhiều đứa nghe qua cái tiếng tự cứu lấy mình thì có ý mừng thầm rằng chắc mình đây lo đặng có trường sanh linh dược hay là Thầy cho huyền diệu phép mà nên mới gọi là tự cứu; thiệt là nhiều đứa quá mê nên lầm mà chưa rõ, lại thêm có tánh hiu hiu là khác nữa. Vậy các con ráng nghe cho rành, ráng nhớ cho dai, đừng bỏ qua thêm hại nghe, mấy đứa bị án đó cũng vì tại ỷ mình mà mang tội lỗi đó thấy chưa?
Cái tiếng tự cứu lấy mình là cho biết tự tâm sám hối, rồi phải rõ nhờ đâu mà được tự tâm sám hối đó thì phải do theo chỗ đó mà liên kết cho đồng tâm, đặng coi chừng mà xây theo cho kịp, đừng cho lơ lãng, giờ khắc phải kềm, mỗi đứa đã thấy rõ rồi sao lại còn trông mong điều chi khác nữa. Nếu các con rõ đặng nhớ hoài, thì các con chớ nên lo mưu đánh đổ bức tượng Trái-Tim mà đau lòng Trời, lại có phần chẳng vui cho các con là khác nữa.
Thầy thương để huởn ngày giờ cho các con suy xét, trong ít lâu đây Thầy sẽ cho ĐƯỢC đem bài giải Thiên-Nhãn tại Tây-Ninh hồi trước cho các con coi cho rõ mà tự xét lấy mình.
Thăng.
******************
27. CÁI THÓI PHÀM PHU TỤC TÁNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 7 âm-lịch 1939 (7 giờ sáng)
-------o0o-------
Nầy các con cả thảy nghe Thầy hỏi đây rồi tự mình nghĩ lại coi cái thói phàm phu tục tánh của mỗi con nó còn ở nơi mình mỗi con hay là nó đi xa?
Các con ôi! từ xưa đến nay, dầu cho bực Thánh-Hiền Tiên Phật, trước khi cũng có một lòng lo dứt cái thói tục tánh phàm phu, là cái thói ai nói điều lành không biết phục (là LY đó), nghe ai nói mình là quấy hay là sái lỗi, thì không chịu để lòng nghe cho kỹ, nghiệm cho rành (là NƯƠNG đó), chỉ có biết một điều là khôn hơn hết, giỏi hơn nhiều, hiu hiu tự đắc, chẳng nể chẳng kiêng. Thầy hỏi vậy rồi cái lời của Thầy dạy với cái tiếng của mỗi con học đó nó có kết quả vào đâu không? Mỗi khi, hễ các con mở miệng ra thường nói: Biết lẽ phải thì kiêng mới phải, nghe điều hay thì lại mới hay, đó là lời nói từ khi nào cho đến giờ, dầu cho các sám kinh cũng còn dành để, đặng cho người đời hễ nghe hay là đọc, đặng kềm chế cái thói phàm, mà hiện nay trong mỗi con phần nhiều cũng có học, có nghe, có đọc, có biết cũng là nhiều, mà tại sao cái thói phàm phu tục tánh không chịu dứt. Đó là tại sao thì mỗi con tự nghĩ lấy mình, rồi có hổ hay là vui? thì cái sắc mặt của mỗi con nó lộ ra tỏ rõ, đó là Thầy quyết lòng muốn cho mỗi đứa ở thế hạ này được làm hiền ngõ tránh khỏi luân hồi, kiếp sống đây lập thành Quốc-Đạo, khi thác rồi Hồn đặng tiêu diêu, đó là một cái vẻ vui cho Đời cho Đạo.
Vậy mỗi con tự hỏi lại mình muốn bên nào thì nhứt định đi, chớ luật vô tư của quyền Độc-Nhứt thì khó nỗi chế trừ cho những tội nghịch Trời như thế. Đã bấy lâu là phàm phu tục tánh, nay Trời ra khai Đạo, lập thành Chơn-Lý, phá tục sửa phàm, đặng mở mang cho nên Hiền mà lại còn canh cải, thì luật nào mà lại dễ bỏ qua?
Vậy mỗi con dầu Đạo dầu Đời, ở các chi phái nào cũng phải xét suy cho kỹ, đặng lo tự cứu lấy mình, đó là bảo thân chi yếu đó. Chớ rằng Trời cao không thấy, Đất rộng không tường, mà cứ tưởng cho mình là đúng, lại quên rằng Trời Đất là một đấng Cao-Dày, mà thân xác phàm của mình đây là đồ để làm gương cho Đời đặng rõ điều lành điều dữ, báo ứng thưởng răn, kẻ bần người phú, kẻ xảo người lanh, kẻ khôn người dại, cũng thảy đều ở dưới quyền của một Đấng Cao-Xanh lộng lộng đó, mà hiện nay Đấng đó ở tại phàm gian này đặng chi? đặng cho Đời rõ là Trời ra cứu thế, là ra đủ hết các lời châu tiếng ngọc, quở phạt thưởng trừng, đó gọi là ra là vậy đó. Nếu mỗi con biết có Trời ra bài dạy Đạo sửa Đời thì lo thì sợ, thì trong đó sẵn có Thần Lương-Tâm che chở, giúp vùa đặng chỉ ngay con đường hạnh phúc, là chỗ hiệp hòa, còn đứa nào không kể không kiêng thì trong đó cũng có sẵn ác Thần nghiệp chướng chỉ chỗ mê đồ đặng đi vào cho phỉ chí. Tại vì lòng dạ của mỗi con đã được người ta mà chưa muốn trọn, là trong ý tứ không ngừa theo lằn sóng gió, tại vậy nên chưa trọn thiệt người ta là vậy đó. Nếu người ta chưa trọn thiệt thì phải biết lo biết sợ, đặng làm cho đúng thiệt của loài người, vậy mới gọi là tri giác, chớ có đâu chẳng rành lại cãi, chẳng học lại chê, rồi biểu sao cho mình đặng thoát ra cho khỏi cái vòng tục lụy?
Nay vì trong tuần lễ Trung-Nguơn, mỗi đứa cũng có lòng ao ước theo cổ tích gọi là Phật ân xá cứu Đời, tại vậy nên Thầy phải giáng Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi mà cho ra ít lời trần thuyết đặng mỗi con nghe rõ, biết trong đó có Trời hay là có ai, thì tự nơi lòng mỗi con suy xét lấy.
ĐƯỢC, con giao bài nầy lại cho CA đặng nó in ra, để vào kinh, cùng phát ra cho Đạo Đời coi mà tự xét.
******************
28. TUẦN HUỜN THẾ CUỘC, BIẾN ĐỔI VI NHƠN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 4 tháng 7 âm-lịch 1939 (12 giờ khuya)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: con chưa rõ mấy chữ “Tuần huờn thế cuộc, biến đổi vi nhơn” tại vậy nên con phải lắm lúc vui buồn là vậy đó.
Đây Thầy dạy cho con rõ: Con ôi, ai cũng biết tuần huờn thay đổi, mà thảm thay không chịu tuân mạng Vô-Vi, tại vậy nên phải chịu khổ cho mình, rồi trở lại trách Phật Trời sao không thương, không xét??? Đó là một bọn cãi ngược tham đời, mà không rành Đạo-Lý đó nghe con, chớ chữ tuần-huờn biến đổi xưa nay thường có, mà trong thế cuộc tại vì kẻ tỉnh người mê, nên mới có câu “vi nhơn nan” là vậy đó. Vì kẻ tỉnh được mộng trần thì mau sửa đổi, người còn mê trở lại than phiền, thì cả hai người đó cũng là người hết, mà có chỗ khác nhau, là khác cái nhơn tâm đổi lại Đạo, còn người thì không chịu đổi, cứ lo giồi sửa nhơn tâm, đặng cho thành quỷ ý rốt cuộc rồi không thành tựu chi cả trở lại kêu la nói rằng hết sức làm người mà không được thỏa lòng toại chí.
Ôi thôi! cái than, cái thở, cái khóc, cái la đó thiệt ai thấy cũng thương, mà ngặt cho luật tuần huờn không tư vị đặng, tại vậy nên đành chịu điêu tàn, thảm thê chán ngán, đó là vì đâu? Có phải là vì bẻ nạng chống Trời không? Hiện nay đây thấy rõ mà lòng người cũng còn thói dể ngươi, lại dám hẹn chừng cho qua buổi, tưởng cho rằng lời nói đó không ai cãi với mình rồi cho là đủ, tại đó mà nó dẫn thêm nhiều đứa đi vào cửa ngục quá đông mà trở lại vui thầm cho là tự toại hơn kẻ tu hành là vậy đó.
Vậy con chớ nên buồn, đã biết rằng ai thấy cũng thương, song lại ỷ sức phàm, cãi Trời thì phải chịu, cái thương của con cũng phải, nhưng mà phải bớt cái buồn đặng để tâm trọn hòa mà xuôi theo cơ vận chuyển, trên Thầy dưới bạn, hai lẽ cân đồng, lấy chỗ không không mà làm ra chỗ có là chỗ có nhơn từ, đời yêu theo Đạo-Đức, là nhờ trong mỗi đứa thấy chỗ không mà có, nên biết sợ Thầy không dám cãi, biết thương con không để ý chê cười. Cái đời mà trở nên đời Đạo-Đức là đời đó con hiểu chưa? Còn đời không nên Đạo-Đức là tại chỗ khi thầm mà tổn đức đó, khó bớt cái phàm tâm là tại nhiễm lâu đời, nay đã đành khó dứt, nên Thầy thường nói gọi là yếu trọng chẳng rời là vậy đó.
Vậy con giao lại cho CA đặng in ra phát cho Đạo học, còn ngày Đạo-Tràng hay có nhóm điều chi, thì nó cũng nên đọc tại đó nghe cho rõ.
Thăng.
******************
29. XẢ PHÚ CẦU BẦN, XẢ THÂN CẦU ĐẠO
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 11 tháng 7 nhuần âm-lịch 1939 (7 giờ sáng)
-------o0o-------
Nầy các con nam nữ, mỗi đứa nào thường hay nói cái tiếng “xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo” nói đó thì nhiều mà Thầy coi lại ít có đứa nào hiểu cho hết lý trong đó đặng đem ra mà thiệt hành cho đúng, đặng làm gương cho người khác coi chừng, mà giữ gìn chung trong chỗ tội lỗi, chỉ có học nói đặng chê bai, kích bác, ngăn cản đường tu, cho mình là đúng, đặng kiếm thế cầu danh; đó là học nói cho có nói, tại vậy mà thành thử ra Nho hữu dị đoan là vậy.
Đây Thầy chỉ rành cho mỗi đứa rõ, chữ “xả phú cầu bần” nghĩa là xả các điều vi phú bất nhơn, dầu cho có giàu sang đến bực nào cũng không khoe, không ỷ, hằng sợ chữ bất nhơn, đặng cho mình tránh khỏi điều trược phú; đó là bực giàu mà lòng dạ còn nhớ thương hạng nghèo; cũng tỷ như hồi sanh ra ai cũng là thân không cả thảy, lớn khôn nhờ có phước dư ông bà để lại, đặng hưởng giàu sang, chớ lòng vẫn biết cho mình là con chung của Tạo-Hoá, hằng lo học hỏi Đạo-Lý lễ nghi đặng làm người cho tươi tốt, đó là chỗ cầu bần là vậy.
Còn câu “xả thân cầu Đạo” là chỉ về hạng vua quan danh cao phẩm trọng, vì nước vì dân làm cho tròn phận sự, rồi cũng tìm phương ẩn tích, dưỡng tánh tu tâm đó là cầu Đạo, đó là xả thân, là xả hết các điều thân thể trong buổi cao sang, đặng lo tầm mối Đạo mà tránh cho khỏi mê đồ, nếu còn tham luyến tục danh thì phải chịu đắm sa vào biển khổ; ấy là người có chí thoát tục tầm Tiên là vậy, nên gọi là xả thân cầu Đạo.
Đó là lời Thầy chỉ rành cho mỗi đứa thấy rõ rồi tự hỏi lấy mình coi có làm đặng vậy hay chưa rồi sẽ nói, chớ thầm tưởng cho là nói, nói đó gọi hay, rồi chẳng hổ với Thần Lương-Tâm thì gọi là nói bướng.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra phát ra cho Đạo coi mà học, cùng gởi cho các chủ Thánh-Thất đặng đọc cho Đạo nghe đặng rõ điều hư thiệt.
******************
30. BẤT HIẾU HỮU TAM, VÔ HẬU KẾ ĐẠI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 2 tháng 3 âm-lịch 1944 (4 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho XUÂN QUYỂN nó hay, là câu nó xin hỏi Thầy đó, cũng là nhiều chỗ giải ra nhiều cách. Như hồi Đạo-Chích là một người ăn trộm mãn đời, có sanh được một đứa con tên là Đạo-Sanh, đứa con nầy nó lại không ưa nghề trộm cướp, lại có chí tu hành, theo phường Tả-Đạo, bỏ nhà cửa, vợ con, đặng thành Tiên cho sớm, tránh khỏi nợ trần, đó là tham Đạo. Mỗi khi Đạo-Chích xúi đi ăn trộm về nuôi mình, thì đứa con đó không chịu vưng lời, nên Đạo-Chích viện câu của Thầy Mạnh-Tử nói đó mà làm tội cho con; sau đứa con đó bỏ Đạo-Chích mà theo Tả-Đạo, rồi lại không chịu cưới vợ, thành ra ba cái tội:
Một là không vưng lời cha mẹ, là xúi đi ăn trộm đó, với tội bỏ cha mẹ là hai, tội không có con nối đời về sau là ba. Đạo-Chích mượn tiếng nói của Thầy Mạnh-Tử, mà không rành lý Chơn-Truyền, đem ra hô hào bắt tội con; rồi cũng nhiều hạng người nghe theo lại cho là phải, chớ lời Thầy Mạnh-Tử nói như vầy: “bất hiếu hữu tam, vô hậu kế đại”, nghĩa là Thầy Mạnh-Tử để lời than là biết cái phận làm người đứng trong Tam-Tài thì phải cho trọn Thảo với Trời Đất đặng nối Đạo-mầu cho đời được thái bình, vì người thấy rõ Đạo-mầu tới người biết đó, thì ngoài người ra không còn được người nào biết nữa, thì chắc cả thế gian phải chịu tội chẳng trọn Thảo với Trời Đất. Rồi từ đó về sau Thầy Mạnh-Tử qua đời, Đạo-mầu thỏn mỏn, ai nói sao cũng được, phe đảng mạnh là hơn. Tại vậy nên nhiều người quá mê đi tìm thuốc uống cho có con, hoặc là vợ lớn không con kiếm vợ bé cho có con, lần lần thành ra tà dâm nịch ái, là nhiều khi không phải thiệt con của mình, mà cũng đem vào đặng nối dòng; rồi vì đó mà hai giống cho hư là do tại đó, chớ có con cùng không là tại phần của mỗi người, đem vào tội bất hiếu sao được? Còn một lẽ nói cho nhằm Lý là như cha mẹ hiền từ mà con không nghe lời, đó là tội cãi cha mẹ, nghe lời vợ hoặc là ăn chơi mà bỏ cha mẹ, không nuôi dưỡng, không giữ gìn nghề nghiệp phải của cha mẹ đặng nối điều lành, trở lòng nghe theo điều quấy, thì cũng là ba tội bất hiếu đó, mà phải cho nhằm Đạo-Lý kia, chớ Thầy Mạnh-Tử than trước đó là cái hiếu làm người đối với Trời Đất cho xứng đáng Tam-Tài, chớ nào phải là việc nhỏ đâu? Thầy nói đó rồi xét coi trong thiên hạ hễ bất hiếu với Trời-Đất, làm sái hạng Tam-Tài, thì có đâu là bình yên vui vẻ đặng? Vì đó nên Thầy Mạnh-Tử mới than, vì Người cũng là bực Thánh nên Người mới thấy xa như vậy.
Đây Thầy cũng cho ra ít đoạn văn vần đọc nghe rồi xét.
THI
1.- Nầy trong Đời Đạo xét vầy
Xét coi mình có thân nầy để chi?
Có thân thì có nhơn nghì
Là thân người phải xét suy vận thời.
2.- Phải nào thân đó để chơi
Ngày đêm giồi tập lõa lơi cang cường
Ỷ mình nhiều của phô trương
Ỷ mình khôn quỷ tính lường gạt ngu.
3.- Gọi là đời sống sánh đua
Mà không dè vướng tội đưa tới cùng
Tiếng thường nhơn loại nói chung
Gạn ra phần đúng thiệt dùng mấy ai.
4.- Cứ mê lời phỉnh đặt bày
Còn trong Đạo Chánh lấp tai chê đành
Cho nên lời phải khó rành
Viện điều phi lý giựt giành cầu cao.
5.- Tới nay thấy rõ Đạo-mầu
Còn chưa chịu xét người đâu trọn người
Người trong cuộc thế Đất Trời
Người quên dòm lại tấc hơi vắn dài.
6.- Mảng ham màu sắc bề ngoài
Trung trung hiếu hiếu đặt bày quá đông
Vì chưng lòng chẳng thẹn lòng
Nói ra thì nói lời không xét lời.
7.- Biết sao thế hạ con người
Nói ra nào kể Đạo Trời là chi?
Cũng vì người quá tự khi
Cũng vì không học luật qui Chơn-truyền.
8.- Nghĩ xưa là bực Thánh Hiền
Còn lo bất hiếu sự nguyên bổn thành
Chép ghi lời nói để dành
Người sau ít học đâu rành nghĩa thâm.
9.- Tưởng cho nói bướng là nhằm
Rồi đua nhau chịu nhiều năm lỗi lầm
Gạn lời cần hỏi lại tâm
Tội chi bất hiếu đó làm người nên?
10.- Mẹ Cha cúc dục lo đền
Trời cao Đất rộng đừng quên tấc lòng
Buổi đời thường xét đục trong
Tấm thân đừng vấy bụi hồng mới cao.
11.- Hiếu Tâm nào luận nghèo giàu
Xử bề cho vẹn, hạng nào cũng vui
Nghĩ thầm phàm tục khó nguôi
Dốt không chịu học trải mùi tại kiêu;
Cho nên nhiều vướng tội nhiều
Ngày nay Thầy chỉ dò theo thấy rành.
******************
31. ĂN MẶN NÓI NGAY, ĂN CHAY NÓI VẠY
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 17 tháng 6 âm-lịch 1942 (3 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho LUẬN nó hay rằng: cái tiếng của người thường hay nói: “ăn mặn nói ngay, ăn chay nói vạy”, đó là người không ưa ăn chay rồi học lóm mà nói ra đặng người ăn chay nhẹ tánh nghe vậy rồi không dám ăn chay, đặng ăn mặn cho đông người, là có giành giựt cái tiếng nói ngay đó, chớ hỏi những người đó tại sao mà có tiếng nói vậy thì chắc ít ai hiểu rành.
Vậy đây Thầy cũng vui lòng chỉ cho LUẬN nó rõ, cái tiếng nói đó là hồi nhà Lê trị nước hay tập săn bắn, một ngày nọ có hai vị công tử là con nhà quan đi săn, gặp một con thỏ có chữa, lại có ý mừng, muốn bắt sống đặng đem về mổ lấy thỏ con ở trong thai đặng chưng ăn cho bổ, nên áp rượt con thỏ, con thỏ chạy quẹo qua gặp một cái chùa Phật rồi chạy tuốt vào trong chùa, hai vị công tử rủi bị té, chạy không kịp. Trong chùa, mấy vị sãi thấy con thỏ có thai mà chạy trốn lại có tiếng người ta rượt, nên cũng để cho con thỏ trốn đó, trong lúc đó lại có một người ở ngoài vào chơi cũng thấy vậy; mấy người sãi nầy quyết cứu con thỏ cho sống, nên chừng hai vị công tử vào chùa hỏi mấy người sãi có thấy con thỏ chạy vào đó không? Thì mấy người sãi trả lời rằng không thấy, rồi hai vị công tử ra về, có ý không vui, nói chuyện với nhau tiếc vì con thỏ có chữa phải bắt đặng ăn bổ khỏe lắm; thì trong lúc đó người vào chùa chơi thấy con thỏ trốn đó, rồi cũng đi ra về, khi nghe hai vị công tử nói vậy, lại có ý muốn ăn chung cho bổ nên nói nhỏ với hai vị công tử rằng: nếu hai ông cho tôi ăn với thì tôi chỉ giùm cho; hai vị công tử chịu thì người đó mới bảo rằng: con thỏ đó nó trốn sau vách chùa, tại mấy người sãi không muốn cho hai ông bắt nên nói dối. Hai vị công tử nghe rồi trở vô, ra sau vách chùa thấy quả thiệt con thỏ nằm đó, nên áp lại bắt trói rồi hô lên rằng: “người ăn mặn nói ngay, người ăn chay nói vạy”, là tại duyên cớ đó rồi đồn lây ra hoài, mạnh ai nấy nói, vì dựa thế con quan, nói nhiều hơn nữa. Đó là vì sự thương mà phải mang tiếng đời chê vạy, chớ nào phải người ăn chay mà nói vạy hết bao giờ? Còn người ăn mặn là nói ngay hết hay sao? Nếu nói càng như vậy, thì tại thế đây mấy người bị hành phạt, kẻ tội nầy người tội nọ, đó cũng là tại ăn chay hết hay sao?
Sự tích đó lâu đời, Thầy chỉ ra cho hiểu đặng LUẬN nó khi nào gặp ai nói vậy, hỏi thử cho rành coi có ai biết được như lời Thầy nói đó không? Còn việc tu hành thì phải cho bền tâm vững chí, hơi nào mà nê cố sự ghét thương, Thầy chỉ đó hiểu rành là tại do vì vậy.
Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho LUẬN.
******************
32. HÀNH CHÁNH ĐẠO, DƯƠNG DANH Ư HẬU THẾ
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 13 tháng 9 âm-lịch 1941 (1 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe theo lời Thầy giải nghĩa mấy chữ trong bài Giác-Mê-Ca của TRỪ đặng viết ra gởi trả lại cho mấy đứa ở Ngọc-Phát ráng coi mà độ xét.
- Bạch: con vâng theo lời Thầy.
1.- Hành chánh Đạo dương danh ư hậu thế
Tám chữ nầy không dễ ráng tu
Trước là thân thể phát phu
Thọ chi Phụ Mẫu hiền ngu cũng người.
2.- Người lo xử Đạo người cho đúng
Đúng là do sở dụng theo thời
Đặng nương đó lập ra Đời
Đời nên người thiện nhờ nơi biết hành.
3.- Hành là chánh đạo sanh hòa hảo
Hảo Nam-Bang nền Đạo rất mầu
Một lòng cho vững dạ lâu
Là lâu bền trọn, nhớ câu mạng Trời.
4.- Dương danh thiện Đạo Đời tín ngưỡng
Ư hậu là thế nhượng thuần khiêm
Gọi là trong vững ngoài êm
Hành chơn chánh luật Đạo nghiêm là thành.
5.- Dương danh Đạo học hành cho đúng
Đặng tùy cơ ứng dụng không lầm
Lưu truyền dầu mấy ngàn năm
Cũng do hành chánh Đạo-Tâm vô tà.
6.- Ư hậu thế người ta nhìn đó
Nhìn đó noi lần bỏ tục phàm
Hiện giờ dầu nữ dầu nam
Nhớ câu hành chánh Đạo hăm hở mừng.
7.- Mừng vui tại vì vưng Thiên-mạng
Thiên-mạng là sửa đặng bình an
Chớ nên giành lấn tu càn
Là tu càng bạ theo đoàn lũ mê.
8.- x Đây bài Thầy giải Giác-Mê
Nội trong tám chữ gồm nghe rõ ràng
Có thân có thể không màng
Phát phu không trọn tội càng lớn lao.
9.- Muốn hành chánh Đạo về sau
Trước đây cần tập giồi trau nết hiền
Kim tùy cổ hạnh nào riêng
Tại lòng mê muội cứ quyền lợi tham.
10.- Cho nên phàm quá tệ phàm
Tục thêm tồi tục tu lầm nỗi tu
Buổi nầy Thầy dạy phá ngu
Thì do Chơn-Lý bề nhu nhược bền.
11.- Sau lần thân trọn rành nên
Nhờ tuân Đạo Chánh Lý quên tự cường
Trước sau nhìn nhận một đường
Đồng vui vẻ phận Thiệt Thường Tin hay.
12.- Phận tu nào phải một ngày
Một ngày ngày một nhớ hoài sự chơn
Một lần thân một ngày hơn
Một gìn lo vẹn một cơn lánh nàn.
13.- Kêu là hành chánh Đạo an
Dễ chi mà gọi nói ngang đặng nào?
Biết cần biết sợ thì cao
Dể ngươi thì thấp hạng nào cũng đây.
14.- Một câu hành chánh Đạo nầy
Nhiều tay có đọc còn hay chẳng nhiều
Đọc nhiều đặng trổ mòi kiêu
Khoe mình hành chánh bấy nhiêu gọi rồi.
15.- Đó là biết đọc vậy thôi
Chỗ làm không trọn nên sùi sục hư
Bởi vì không nhớ chí ư
Là nơi trọn lý chí ư thiện thành.
16.- Thánh ghi Hành-Chánh Đạo rành
Là chơn chánh biện điều thanh trược đời
Đặng lo Hành-Chánh sửa Đời
Người thanh bỏ trược nhìn nơi hiểu rành.
17.- Hiểu rành Hành-Chánh Đạo sanh
Là sanh các lý dữ lành được thông
Mỗi con nào sẵn một lòng
Hành theo chánh Đạo thì trong nhớ lời.
18.- Nhớ lời dạy bớt ăn chơi
Ăn chơi bớt đặng thì người rảnh rang
Ngó coi dồn dập tai nàn
Cũng vì trước tại làm ngang cãi Trời.
19.- Phải chi Hành-Chánh thuận thời
Đạo Trung-Hòa trọn bề chơi bỏ lần
Lâu rồi khử cựu hóa tân
Thì đâu đến nỗi nợ trần kéo lôi.
20.- Mỗi con Đời thấy Đạo rồi
Ráng nghe lời trọn cơ Trời vận lâm
Câu Hành-Chánh Đạo diệu thâm
Từ xưa ai trọn được cầm vững lâu.
21.- Cầm trong Lý chánh nhiệm mầu
Vững lâu bền trọn gồm thâu đức hiền
Phận tu nào được phỉ nguyền
Thì không ngoài lẽ Chơn-Truyền độ xa.
22.- Xa là trong Lý nghiệm ra
Độ Đời coi Đạo người ta buổi nầy
Tam Kỳ gồm trọn là đây
Hành y chánh Đạo hội nầy biết chưa???
Thăng.
******************
33. MỘ ĐẠO VONG BẦN, HƯƠNG ĐĂNG BẤT TUYỆT
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 26 tháng 12 âm-lịch 1947 (3 giờ chiều)
-------o0o-------
Trong 8 chữ “Mộ Đạo vong bần, hương đăng bất tuyệt”, nghĩa là người biết Đạo-mầu thì ít nhớ sự nghèo cho lắm, hay nhớ sự lễ nghi Đạo-đức, nên chẳng dứt hương đèn. Nếu còn nhớ sự nghèo cho quá, thì trong đó có ý so sánh với sự giàu, hai lẽ có thấp cao, thì ắt phải sanh lòng gian trá, đặng thâu trữ cho nhiều, nên đành bỏ dứt hương đèn, cho rằng là lãng phí; vì thấy mỗi khi dùng thì hao tốn điều huê lợi, chưa có thỏa lòng trong lúc đó. Tại vậy nên người biết mùi Đạo, mến Đức Hiền thì ít hay nhớ sự nghèo cho lắm.
Trong 8 chữ nầy, người thì thích nghĩa vầy, kẻ thì ưa nghĩa khác, rồi làm cho đố kỵ cùng nhau cũng tại bởi không rành lý thiệt.
Vậy ngày nầy là ngày lập Xuân năm Mậu-Tý, Thầy tỏ ra một lời đây đặng mỗi con nào có chí học hành đặng rõ thấu tinh thần 8 chữ nói trên, đặng vững lòng lo phận.
Kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết đến mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, nắng trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ mới có thể lập ngôi cho mình được.
Rày mến Đạo nguyền vui với đạo
Dứt những điều khờ khạo gọi khôn.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Đừng vụng tưởng cơ bần là nhục
Cơ bần là chánh gốc mỗi con.
Trong 3 đoạn nầy Thầy chỉ ra đây thì mỗi con phải ráng định tâm mà xét (Xét thì rõ con đường Chơn-Lý… Đ.C.L 15 vé 420) cho rành, đừng bỏ qua rồi sa ngã vào nẻo Bàn-Môn cho rằng: Hễ mộ Đạo thì phải phế việc làm ăn, không cần gia đạo, mà làm cho mang tiếng dị đoan là vậy đó nghe mỗi con.
******************
34. HAI CÂU TRONG SÁCH MINH-TÂM
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 11 âm-lịch 1940 (10 giờ trưa)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho HANH nó nghe: hai câu chữ nó hỏi con đó là ở trong sách Minh-Tâm, sách tuy có đó, song chỗ sai siểng ít có ai tường, tại vậy nên mạnh ai nấy giải, TRƯỢNG nó cũng chưa rành, còn con thì cũng chưa thấu. Vậy Thầy chỉ rành ra đây đặng cho HANH nó học, đặng khỏi hồ nghi sao là trúng, sao là không trúng.
Câu thứ nhứt: “Nam đại bất thú như liệt mã vô cương” chớ không phải bất hôn, vì chữ Hôn với chữ Thú có thể giống nhau nên sách Tàu in lộn. Còn chữ Liệt và chữ nầy (. . .) nghĩa là con ngựa tơ đương sức mạnh, chớ không chữ Liệt là nhỏ, là yếu.
Câu nầy nghĩa là: con trai lớn khôn mà không chịu cưới vợ, để kén sui chọn gia, làm cho trái lòng duyên nợ của đứa con đó, thì nó phải nghinh ngang, không có dây cương khớp vàm chi hết, Nho kêu là ý mã là vậy.
Còn câu: “Nữ đại bất giá như tư viên phạm thủ”, chớ không phải tư diêm, chữ tư viên này có nghĩa là con khỉ hay vượn, chứ không phải chữ diêm là muối, vì viên với diêm hai tiếng kẹ nhau nên đành chịu lộn.
Câu nầy nghĩa là: có sự tích xưa nhà họ Châu đời Hớn giàu sang muốn cho sống lâu đặng hưởng của, nên hỏi thầy lương-y đặng tìm thuốc mà uống, cho đặng sống lâu mạnh giỏi, thì thầy lương nói gạt rằng: muốn vậy thì phải nuôi một con khỉ đực và một con khỉ cái, nhốt trong lồng, song phải để riêng đừng cho gần nhau, cứ vậy nuôi hoài, chừng nào con khỉ cái đó có ra một vật như một con khỉ đực thì lấy đó mà dùng gọi là hầu-táo-tử, vì thuốc đó quí lắm, ít ai làm đặng.
Chủ nhà nghe lời, nuôi lâu ngày, hai con khỉ có ý ngó nhau động lòng, đến nửa đêm con khỉ cái kê đầu đụng làm cho hư lồng nhảy ra, thì bị lác một đám lông trên đầu rồi hoảng chạy mất, đó gọi là tâm viên. Chừng chủ nhà hay đặng thì thấy có một dúm lông còn đó, mới hay con khỉ đi mất, mà sợ mất cái vật báu đó đi nên hỏi thăm tìm kiếm, thì người ta bắt được thấy có vít trên đầu, tưởng khỉ rừng bị thương, nên đành ăn thịt; chừng chủ nhà đi hỏi thì chuyện ăn thịt cũng đã rồi, nhưng mà có tiếng nói lại là con khỉ có dấu lác đầu.
Vì cớ đó nên sách kinh thường hay dặn dò phải ngăn ngừa về Tâm-viên Ý-mã là vậy đó. Rồi sau các nhà gia phép hay lấy cớ đó, hễ có con gái mà lăng loàn, cha mẹ hay chồng bắt được thì cắt tóc thả đi, là lấy cái chỗ Tâm-viên mà trừng trị, nên Khổng-Phu-Tử Ngài để hai câu nầy về khoản Trị-Gia đặng cho đời sau thấy rõ, vì sách vở in lâu nên phải sái. Nay Thầy chỉ ra đây nếu ai tin vậy đặng ngăn ngừa lo liệu thì tin, bằng tin theo sách mà giải nghĩa xiên quàng thì chịu lấy.
******************
35. ĐƯỜNG CHƠN-LÝ NHÀ ĐẠO VÔ-VI, BÌNH-QUÂN LUẬT ĐOÁN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 24 tháng 7 âm-lịch 1939 (8 giờ tối)
-------o0o-------
Nầy các con dầu Đạo, dầu Đời sang hèn, ngu trí, cao thấp, trẻ già, gái trai cả thảy, ráng nghe lời Thầy nói đây mà tự xét lại mình coi cái thể làm người nó ra sao? Nên hay hư? Phải hay quấy? Đủ hay thiếu? Nhục hay vinh? Thì trong lời hỏi đó nó cũng không ở đâu xa, nó cũng ở gần bên mỗi đứa, mà tại sao các con không thấy đặng? Đó là tại hủ tục, cái khoe danh, cái ỷ tài, cái quên mạng; trong mấy cái đó nó làm một cái màn đời che lấp hết tinh thần Đạo-Lý, tại vậy nên cả thảy ở dưới trần đây đều là người mà người ta không trọn là vậy đó; bởi tại vậy đó nên ngày nay mới thấy rõ vậy đó thấy chưa?
Nầy các con, mỗi đứa có thấy hay là chưa? Thấy thì phải hiểu cho rành trong chỗ chưa thấy hay là thấy chưa rồi sẽ nói, đừng có nói bướng cho là thấy rồi thành ra tiếng nói vô độ là vậy.
Đây Thầy chỉ rành cái chỗ thấy chưa, chưa thấy cho mỗi đứa nghe mà tự xét coi cái hay của mỗi đứa ở đâu? Cái giỏi ở đâu? Cái dốt ở đâu? Cái ỷ ở đâu? Thì cũng là trong chỗ thấy chưa, chưa thấy đó.
Các con ôi! Các con phần nhiều mỗi đứa thiệt là khôn hơn hết, Trời không kiêng, Đất không kể, Phật không sợ, luật phép không sờn, mà ngặt có một điều là: cái tiếng Thầy nói thấy chưa với chưa thấy đó, mà không biết Thầy nói sao đó, có đứa cho là lời kiếm chuyện, tại vậy nên lầm. Cái lời Thầy nói thấy chưa đó là phần đông thấy đó mà chưa rõ tại sao mà có ra đó. Đó là thấy đó mà chưa tường, hiểu chưa? Còn câu chưa thấy đó là các con tự bấy lâu nay chưa thấy như vậy đó, nên xúm nhau nhắc nhở tìm kiếm hỏi thăm, gọi là thích chí, đó là câu chưa thấy là vậy đó. Tại vậy nên cái khổ với cái vui nó cũng ở lẩn quẩn theo trong chỗ đó, là tại trong mỗi đứa chưa rõ thấy chưa, chưa thấy đó; như đứa nào thấy đó mà hiểu tại sao ra đó, là đứa đó hiểu được mối manh, thì đứa đó được vui trong chỗ đó; còn đứa chưa rõ đó là tại đâu mà không lo tu, lo học, cứ việc bỏ qua, thì phải chịu vào chỗ khổ, chỗ buồn là tại nơi quá ỷ; còn thảm thay cho đứa vẫn sanh trong Trời Đất mà chưa thấy vậy là chi, lại tìm kiếm hỏi thăm đặng lo phương lập thế làm cho mình sống riêng một chỗ, giàu riêng một mình, đó là một đứa quá tham quá dại, mà trong trí não tưởng vậy là khôn, bởi đó dập dồn tai họa rồi cũng trở lại trách Trời, mà Trời dạy, Trời khuyên không kể.
Thầy hỏi đây là cốt yếu nhắc chừng cho mỗi đứa nào có chút duyên tu đặng nghe mà tỉnh ngộ, còn đứa vô duyên thì đã đành cho vậy. Thầy vì quá thương cho sanh chúng không nỡ để cho tận tuyệt, nên hết lòng lo lập Đạo tỉnh Đời như giấc mộng trần mê muội, mà hiện nay ngó lại phần đông mê cũng còn muội không dứt, là tại vì bọn đó quá ưa cúng tế, tham luyến khẩn cầu, sợ bỏ đi thì chịu nghèo chịu cực, lại một nỗi sợ cho ma quỷ không có ăn mà trở lại hại mình. Tại vậy nên thấy Thầy cho ra LUẬT BÌNH-QUÂN coi rồi cố giận, tuy ngoài miệng dạ dạ thưa thưa, chớ trong lòng cho ĐƯỢC là đặt điều nói bậy, tại cố cái lòng như thế mà quên Lý của Trời, lại thêm mang tội khi người, càng thêm khổ cho mình nữa. Ôi! đã mê chưa tỉnh, đã dốt chưa rành, lại dám thầm chê trộm trách, tại vậy mà khó trọn cái thể người ta là vậy đó, cả đời quanh quẩn, tính dại lo khôn, rồi cũng chạy không khỏi cái vòng khôn dại, cả năm cả tháng lo tính tuổi trần của thế hạ cho nhiều, rồi rốt cuộc cũng là vô dụng, thì ngó lại coi thiếu nó cũng còn đây. Thầy hỏi vậy, chớ có công lo, công tính dại khôn lường gạt cho giàu cho lanh, rồi sao không chịu khó xét lại tại sao mà còn mê còn dốt? Còn khổ, còn nghèo, đó là tại đâu? Sao không xét cho tột lý, rồi hỏi lại cái công lo, công tính lường gạt đó hiện giờ ở đâu mà không thấy điều kết quả? Vậy thì mỗi đứa có lòng như vậy đó thì chịu khó xét đi, đừng có để lo chuyện dông dài vô ích.
Đây Thầy chỉ đường sống sự vui cho các con đi cho dễ, ở cho yên là: “Đường Chơn-Lý, Nhà Đạo Vô-Vi, Bình-Quân Luật đoán”, trong ba đó đứa nào tin trọn làm theo, chừa bớt cái mê cái vọng, cái quấy, cái tham nói trước đó đi, thì mới tới ba chỗ nầy được, tới được ba chỗ đó rồi thì bình yên vô sự, vui vẻ lạ thường. Đó là một chỗ thái hòa lạc thú, trong cả thế gian có ba chỗ đó là hơn hết.
ĐƯỢC, bài nầy giao lại cho CA đặng in ra đọc tại Đạo-Tràng, rồi phát ra cho Đạo, cùng gởi cho các chỗ có LUẬT BÌNH-QUÂN đó coi mà tự xét, theo lẽ thì THIẾT nó lãnh trọn Bố-Thí phần nầy, song Thầy thấy nó có chỗ buồn nên Thầy không ép.
******************
36. CHỈ ĐƯỜNG THOÁT TỤC, ĐẠI-ĐỒNG PHÁN ĐOÁN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 7 âm-lịch 1940 (6 giờ sáng)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nghe Thầy dạy: con phải dẹp hết các bài vị của con thờ bấy lâu đó, vì ngày nay là ngày con lãnh trọn quyền Thầy sai ra làm phận sự giúp Đạo sửa Đời, cứu nguy phá tục, thì trong quyền đó sẵn có một Thầy là Độc-Tôn chi mạng. Nếu con còn để thờ phượng như bấy lâu thì sái với Chơn-Lý, vì không có một vị nào mà dám ngồi ngang đó mà dự chứng chung lễ với Thầy; còn như có muốn thờ cho trọn lòng sở mộ thì viết: chư Phật chư Tiên, chư Thiên chư Thánh, như tại Tòa-Thánh vậy. Đó là Thầy để cho mỗi đứa lấy đó mà suy xét, tỷ lấy mình coi được như bực chư Phật, chư Tiên, chư Thiên, chư Thánh đó chưa? Vì mấy bực đó dày công tu luyện, phổ-độ khuyên Đời theo Thầy mà lo hành Đạo-Lý, nên Thầy để nêu danh Thánh-hiệu là chỉ nghĩa hầu Thầy, chớ không phải là chứng lễ, chứng lễ thì có Tứ-Thánh mới được thay quyền theo phận sự. Đó là Thầy dạy con làm trước đặng làm gương cho mỗi đứa đứng vào Chơn-Lý phải coi lấy đó làm y đặng tránh lần điều tục. Đây Thầy giảng ra cho rành đặng con hiểu, sau phát ra cho mỗi đứa coi mà tự xét. Kể từ Thầy lập ra kinh Tu-Chơn Thiệp-Khuyết, Thầy có hứa: “Chờ ngày phán đoán Đại-Đồng thế gian” là ngày con ra lãnh trách nhậm đến giờ đây, trong đó hai chữ Phán-Đoán nhiều đứa chưa rành, song có một mình con có được ơn Thầy ban bố, nên có ảnh hưởng ít nhiều, chớ cũng chưa trọn thấu.
Vậy con nghe Thầy nói đây cho rõ: chữ Phán đó là lời Thầy phán ra cho rành như trong kinh Tu-Chơn đó, từ ngày đó cho đến ngày Đại-Đồng thế gian là ngày Long-Hoa Hội (năm Mậu-Dần 1938, 14 tháng 4) đó coi có đứa nào tin trọn làm theo, hoặc là có nghe, có sợ, có biết, có chừa thì Thầy cũng chiếu theo Luật Bình-Quân mà chế trừ đoán định, định là định coi đứa nào đáng làm lớn trong đó, đứa nào làm nhỏ, đứa nào vừa biết thuận tùng, thì cả thảy đều còn đặng trông nhờ điển ân nhiều ít, là đoán trong lời Thầy phán ra nơi kinh Tu-Chơn đó coi có làm trọn hay là sẽ làm, hoặc không chịu làm, cũng là quyết đoán định phân trong đó.
Hiện nay Luật Bình-Quân ra lần thứ nhứt, chỉ đủ các điều, thì cả thế gian phải biết cho rành coi cái nạn khổ ngày nay thấy đó, tại bởi đâu mà gầy ra? Thì phải ráng xét mình, đặng lo bào chữa, chớ nên mê tục, cứ để lo cầu vái lợi mình, mà không cần tự tỉnh.
Vậy Thầy cũng cho ra một bài gọi là “chỉ đường thoát tục” cho cả thảy nghe chung, sau khỏi điều phiền phức.
CHỈ nẻo nên hư thói tệ phàm
ĐƯỜNG Trời khai hóa tại nơi Nam
THOÁT thân đừng mến cầu danh chạ
TỤC lụy từ nầy bớt chớ ham.
1.- Lời Phán-Đoán Tam-Kỳ buổi chót
Dựng Thượng-Nguơn sắp lập kẻ hiền
Sắp là người khỏi đảo điên
Lập nên chừa tục tự nhiên vui thầm.
2.- Trong lời nói diệu thâm yêm ẩn
Cả thế gian ngơ ngẩn phần nhiều
Một là tại xác phàm kiêu
Hai là vì lợi chịu đeo không rời.
3.- Bởi tại vậy quên Trời cứu thế
Chỗ quên Trời quan hệ xiết bao
Hằng ngày hằng chỉ cao cao
Chỉ Trời biết chỉ tại sao không chừa?
4.- Chỉ cho có lòng ưa tranh đấu
Đặng giành lo rút máu thịt người
Phải chi nhớ trọn con Trời
Có đâu lấn hiếp hại đời dồn hư.
5.- Thầy cầm luật Vô-Tư phán xét
Cả thế gian ít biết nên lầm
Tại vầy chuyển Đạo nhiều năm
Chuyển cho Đời rõ đặng tầm đi theo.
6.- Đạo chuyển lập Trời Nghiêu Đất Thuấn
Đời tỉnh say lo đứng ngó chừng
Ngó coi thấy đặng chỗ mừng
Chừng noi theo thế theo thần muốn riêng.
7.- Chỗ mừng nối thiện duyên không biết
Chỗ mừng làm đúng thiệt không màng
Cứ tìm mừng tục vẻ vang
Mừng sao mình đặng cao sang hiếp hèn.
8.- Chừng được vậy là khen là tặng
Mà quên mình còn nặng tội tình
Thói phàm hể ỷ gọi vinh
Hết vinh tới nhục tại mình ỷ lanh.
9.- Vì tại đó người sanh ra quỷ
Luật Trời lo sửa trị cho hòa
Để lời Đạo-Lý thiết tha
Lòng tư chẳng dứt cho là đồ chơi.
10.- Tại vì chỗ lả lơi quên Lý
Đó cũng là tại ỷ phần khôn
Ngó theo xác thịt quên Hồn
Cho nên tội lỗi ghi dồn nhiều năm.
11.- x Cơ quan Đạo chuyển khó tầm
Đời mê vật chất lũi lầm đường nguy
Chẳng thông an biến thời kỳ
Chẳng tin báo ứng kể gì Đạo-Tâm.
12.- Đến nay là buổi gạn lần
Thầy ra luật cả để tầm để suy
Con nào hiểu đặng làm đi
Làm rồi thấy rõ sự nguy ra tường.
13.- Con nào còn dạ lương khương
Đừng trông đừng đợi nẻo đường về Cha
Con nào tự cượng bỏ qua
Ráng nhìn cho kỹ Ngọc-Tòa án ghi.
14.- Phải rành hai chữ Từ-Bi
Đừng đem viện lẽ mình khi lấy mình
Nói ra cho rõ đặng gìn
Gìn theo qui cũ chánh minh Đạo Trời.
15.- Thảm sầu thấy rõ các nơi
Thảm sầu thì ngán, sợ Trời thì không
Quyết lòng tốn của hao công
Đem ra giành giựt bề trong chẳng rành.
16.- Việc chi trước phải xử mình
Rồi sau sẽ quyết luận bình không sai
Dạy chung THOÁT TỤC một bài
Cả nam cùng nữ từ nay phải tường.
17.- Đặng thông thấy rõ bước đường
Lần theo cho kịp là phương diệu thần
Thoát rồi thấy rõ sự tân
Là Tân-dân Đạo hưởng phần thảnh thơi.
18.- Một ngôi Độc-Nhứt là Trời
Thờ đây là chỗ trọng lời chánh chơn
Thương Đời cứu độ là Nhơn
Để nêu Thiên-Nhãn tâm huờn Thiên-cơ;
Tuần huờn Đạo-Lý chuyển cơ
Đó là một chước lưu thơ dạy người.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng in ra cho nhiều, phát cho Đạo học và gởi cho các chỗ có Luật Bình-Quân, rồi sau đem vào Luật Bình-Quân thứ nhì.
******************
37. NHỊ-THẬP-BÁT TÚ, MƯỜI HAI TRỰC NHỰT-THỰC, NGUYỆT-THỰC
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 5 tháng 11 âm-lịch 1939 (10 giờ trưa)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho TÂN nó nghe: theo lời nó hỏi đây Thầy không muốn chỉ, vì nó có học nhiều, mà không lo sửa nết, là nó quyết học đặng cầu danh, tại đó nên Thầy không muốn chỉ, ngặt vì cơ Đạo đương lúc tấn hành, nên buộc lòng Thầy phải nói ra cho hết lẽ, đặng cho cả thảy học chung.
Vậy từ đây nó phải ráng mà kiên tâm cho lắm, còn mấy khoản nó hỏi đó Thầy nói cho nó nghe:
Khoản thứ 1.- Là 28 vì Sao có các loài thú danh ẩn vào trong đó, nên gọi là Tú, nghĩa là ở đậu; bởi vì các thú đó có lòng tu, nên tinh thần được Thầy cho phụ giúp chung vào trong 28 vì Sao đó, đặng lo hành phận sự với nhau, cũng gọi là công-quả. Trong 28 vì Sao chớ kỳ trung có Ngũ-hành, Ngũ-phương, Thái-Âm, Thái-Dương cũng gồm chung vào đó, đặng lấy đó chia ra gọi là vạn thiên Tinh Tú là vậy đó.
Như phương Đông thì có 4 vì Sao thuộc Mộc: như Giác-Mộc-Giao, Đẩu-Mộc-Giải, Khuê-Mộc-Lang, Tỉnh-Mộc-Cang; đó là 4 vì Sao ở hướng Đông.
Còn nơi phương Tây thì có: Cang-Kim-Long, Ngưu-Kim-Ngưu, Lâu-Kim-Cẩu, Quỉ-Kim-Dương; đó là 4 vì Sao ở phương Tây.
Còn phương Nam thì có: Vĩ-Hỏa-Hổ, Thất-Hỏa-Trư, Chỉ-Hỏa-Hầu, Dực-Hỏa-Xà; đó là 4 vì Sao trấn phương Nam.
Còn như phương Bắc thì có: Cơ-Thủy-Báo, Bích-Thủy-Du, Sâm-Thủy-Viên, Chẩn-Thủy-Dẫn, đó là 4 vì Sao trấn phương Bắc.
Còn như Trung-Ương thì có: Đê-Thổ-Lạc, Nữ-Thổ-Bức, Vị-Thổ-Trỉ, Liễu-Thổ-Chướng; đó là 4 vị trấn tại Trung-Ương.
Còn Thái-Dương thì có: Phòng-Nhựt-Thố, Hư-Nhựt-Thử, Mão-Nhựt-Kê, Tinh-Nhựt-Mã; đó là 4 vì Sao thuộc về Thái-Dương.
Bốn vì Sao nầy Thầy để cho là ngày Chúa-Nhựt, là vì trong lúc Thầy cho con Một giáng phàm làm Jésus thì có bốn vì Sao nầy theo phụ giúp tự thỉ chí chung, nên Thầy cho Hứa-Sinh-Dương ghi vào lịch. Hễ ngày Chúa-Nhựt thì có bốn vì Sao đó, không có vị nầy thì có vị khác, cũng trong bốn đó chớ không lộn vị ngoài.
Còn như Thái-Âm thì có: Nguy-Nguyệt-Yến, Tất-Nguyệt-Điểu, Trương-Nguyệt-Lộc, Tâm-Nguyệt-Hồ; đó là bốn vì Sao phụ giúp về Thái-Âm, nên kêu là Nhị-Thập-Bát Tú. Vì trong đó có đủ Ngũ-hành, Ngũ-phương, Âm Dương, Người Thú đều có ở chung trong đó; song đó là thầy dùng đặng sai khiến theo phụ sự Thiên-Đình. Còn sách cũng có ghi rành rẽ, tại đời sau chế biến, bày ra ngày nầy Sao tốt, ngày kia Sao xấu mà thành ra các cuộc dị đoan, nên Thầy không muốn cho biết tới đó nữa, để lo tu niệm chừng nào ai vào được chỗ nào thì chừng đó sẽ biết.
Hiện giờ Thầy cũng rộng lòng cho mỗi đứa có công tu hoặc thú cầm mà có lòng mộ Đạo, thảy điều được hưởng vào đây.
Còn 9 vì Sao nó hỏi đó là tại bọn văn-tài đặt điều cho có chuyện, chớ cũng trong 28 vì Sao nói trên đó. Còn 12 trực trong sách ghi đó là 12 vị Nhựt-Thần để coi theo mỗi ngày cũng 12 con giáp, song đó là Tinh-Thần của số 12, Thầy lập ra cho có ngăn có lớp, nên gọi là Trực, vì chữ Trực là ngay nên để cho xem xét mỗi ngày cho đúng.
Còn khoản số 4 nó hỏi về Nhựt-Thực, Nguyệt-Thực, đó là cái điềm tai biến của Thầy ra cho nhơn dân thấy đó đặng lo sửa lòng sám hối. Hễ năm nào có Nhựt-Thực tại chỗ nào thì chỗ đó có tai biến lớn, còn Nguyệt-Thực thì tai biến nhỏ.
Còn khoản thứ 8 nó hỏi về công vụ đi vào Bát-Quái thì Thầy đã có dạy cho KHANH rồi, nó phải tìm mà học. Còn các khoản khác đó là chuyện người đời đặt ra cho có vĩ chớ không thuộc về phận sự Thiêng-Liêng nên Thầy không giải.
Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để vào Luật Bình-Quân thứ nhì, còn một bổn thì trả lại cho TÂN.
******************
38. MƯỜI HAI CON GIÁP
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 12 tháng 11 âm-lịch 1939 (1 giờ khuya)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói lại cho ĐỂ nó nghe, vì trong 12 con giáp đó là khi Thầy mới gầy ra cơ Đạo thì có 12 ngôi sao đó là giúp Thầy lập xong danh phận, 12 vì Sao đó cũng có ẩn trong Nhị-Thập-Bát Tú, tại vậy nên Thầy để cho 12 chi đặng cho đời kêu gọi cho có danh dưới thế.
Còn sự tuổi tác là chỉ để làm dấu cho biết chừng kẻ lớn, chớ nào phải ăn nhập vào tên mấy con thú đó sao? Tuổi nào phải cho có đủ Can Chi, đặng phân rành trước sau, nhỏ lớn. Còn tên Tý, Sửu… đó là Thầy phải đặt để cho có chừng đặng gọi là năm tháng.
Vậy con giao lại cho CA nó coi rồi trả lại cho ĐỂ.
Thăng.
******************
39. BÀI DẠY TIẾP THÊM VỀ 12 CON GIÁP
VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 14 tháng 11 âm-lịch 1944 (1 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho NHỨT nó nghe vì bài của nó hỏi tại sao mà Tý Sửu Dần Mẹo v.v… mà gọi là 12 con giáp, lại có 12 con thú ẩn trong, khoản đó Thầy có giải rồi nhiều cách, tại nó không chịu tìm mà học. Đây Thầy nói sơ cho nó biết, tiếng kêu là 12 con giáp đó là không phải, vì đó là 12 chi, còn con giáp là 60 năm mới giáp lại Giáp-Tý; còn 12 chi nầy gọi là Thập-Nhị Địa-Chi thuộc về Đất, Thập-Nhị Thiên-Can là Giáp Ất Bính Đinh v.v… là thuộc về Trời, trong đó có tên mấy con thú theo số 12 đó là trước hết hồi Nhứt-Kỳ Phổ-Độ có 12 con thú đó chịu tu cho nên mới đem tên vào đó rồi lịch lại biên người cho đủ tuổi tên Trời Đất cùng loài vật, nghĩa là biết Đạo, biết Đời, biết Người, rõ Vật lo tu đó là hiệp về nhứt thể đồng xuân nên mới có tiếng là Thiên Địa vạn vật là vậy.
Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho NHỨT.
******************
40. ĐÀN LIÊN-HOA
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 28 tháng 2 âm-lịch 1943 (2 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho THU nó hay cái Đàn Liên-Hoa Đại-hội tại Sa-Giang năm Nhâm-Thân đến giờ là vì Thầy chiếu theo Thiên-điều mỗi lần khai Đạo, chuyển Đạo đều có lập Đàn ấy đặng sắp dạy cho mỗi đứa rõ Đạo Trời, không phải là chuyện trò chơi, muốn hưởng cho được cảnh Liên-Hoa thì phải ráng làm theo lời dạy trong Đàn đó.
Còn hai chữ Liên-Hoa về Đạo Phật, hay gọi là Liên-Hoa hóa thân nhiều đứa tưởng lầm là tưởng hễ để bông sen đó đọc kinh rồi bông sen có hình hóa ra Tiên Phật; cái lầm đó đã lâu rồi, vì học chưa nhằm lý, chớ bốn chữ Liên-Hoa hóa thân là vầy: là Đức Phật chỉ bông sen ở bùn mà chẳng dính hơi bùn, còn thân sống của mỗi người đây ai cũng Trần, vậy phải lấy đó đặng đem Đạo-Đức hóa lập nơi mình làm cho được vậy mới gọi là người linh hơn muôn vật, là tự nghĩ bông sen đó sao thì trong các lời dạy trong Đàn Liên-Hoa thảy đều có đủ.
Vậy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì giao lại cho Thiên-Sư đặng trả lại cho THU. Theo lẽ phải gởi cho các chủ Thánh-Thất mỗi người một bổn đặng đọc cho Đạo nghe cùng là chép ra mà học, để lâu ngày không nhắc rồi nhiều đứa bỏ qua.
******************
41. THẦY GIẢI THẬP ĐIỆN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 14 tháng 7 âm-lịch 1939 (5 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói lại cho HƯNG nó hay, theo lời nó hỏi đó Thầy cũng đáng thương cho nó là có công học hỏi cho rành rẽ việc trước sau, song trong đó có khoản nó hỏi về kiếp trước nó có đầu thai vào tứ sanh hay không? Thì Thầy không thể nói ra cho hết, vậy nó quyết theo Chơn-Lý cho trọn một lòng thì sau được rõ.
Còn khoản nó hỏi Thập-Điện có hay không có, đó là thời kỳ Đạo Phật khai ra thì có sẵn 10 Vua vào tu đắc quả, nên Đức Phật cho là Thập-Điện, Phật cho phép thay quyền trừng trị những kẻ khi thời ngược thế.
Còn luật đầu thai chuyển kiếp là luật của Thầy cầm, đời sau vịn theo đó mà tỏa ra có hình có chỗ đầu thai đó là tại mấy đứa muốn khoe tài đặng làm ra, một là độ chúng, hai là chác sự cầu danh, tại vầy nên không thành Đạo.
Còn đoạn Mục-Liên đi về Tây-Phương, đó là lời nói cho dễ nghe chớ Tây-phương là nơi Ấn-Độ, đó là chỗ Đức Thích-Ca sanh thành, sau Đạo-Phật chuyển về Trung-Quốc, ngó qua Ấn-Độ là nhằm phía Tây, nên chỉ chỗ Phật sanh thành tại đó, nên gọi Phật ở Tây-Phương chớ tại đó là xứ của Tất-Đạt-Đa, còn Phật là nói Tâm Tánh.
Còn vụ Mục-Liên chịu tội cho mẹ đó là lẽ thiệt, nó muốn cho rõ thấu có không thì phải tu cho thiệt, hoặc là hỏi Hàng-Long Chơn-Tánh nói cho.
Còn việc hành tội, thưởng phước chi chi cũng đều ở tại trước mắt đây, song đó là chuyện huyền vi, người chưa trọn đức tin khó bề thấy được.
Còn Thập-Điện đời trước đó cũng tỷ như hiện giờ Chơn-Lý đây có 36 vị Thiên-Tôn đặng Thầy lập ra 36 lớp dạy dỗ.
Vậy mỗi đứa ráng tu cho trọn, đừng có dạ sụt sè, rồi sau đây ai được tới đâu Thầy sẽ cho tới đó, chớ hiện giờ còn ở nơi chủ Tam-Hồn là Hàng-Long Chơn-Tánh đó.
Còn bài thi Thanh-Thanh Nhựt-Nguyệt thì có biểu HẠNH chép ra cho nó coi nó biết trong đó, là lời Thầy nói trước, còn phường mặt trái phản Thầy là phường mượn danh Đạo đặng cầu danh thủ lợi, đã hồng thệ rồi mà lại dám khi Thầy ấy là phản đó.
Còn bài tỉnh ngộ xá thân tại phạm môn là Thầy nói đứa nào được tỉnh ngộ thì phải coi theo cái gương của Vua Phạm-Vương khi trước xá thân đó mà tỉnh ngộ, chữ PHẠM (…) nầy chớ không phải chữ phạm là họ Phạm-Công-Tắc đó đâu, phải xét lại lời của TẮC nó nói đó là sai với Chơn-Lý xa lắm. Đã xá thân rồi mà còn phạm môn phạm nghiệp, phạm từ phạm nông gì nữa, đó là TẮC nó gạt mấy đứa mê đặng lập quyền thủ lợi.
Vậy Thầy khuyên HƯNG phải đem đoạn nầy nói cho bọn Tây-Ninh nghe mà tự tỉnh.
Còn việc nó nhập môn tại An-Hội, ngày nay nó thấy rõ lòng của TƯƠNG không đúng thiệt thì trở về Chơn-Lý ấy là nó thoát khỏi mê phàm, Thầy cũng mừng cho nó đó. Còn việc Chức-sắc ở chi phái khác trấn thần đó là dùng theo cựu tục, chớ Chơn-Lý thì Thầy không có dạy phép phù chi hết.
Còn các lời nó ước nguyện đó Thầy cũng đáng thương, song Thầy đã nói Thầy ngự tại đây, như trọn tin thì đến đây học Đạo rồi hành Đạo cho vững cho bền mới có thể thiệt hành mới được.
Vậy nó phải coi lấy gương của CA với con đây thì nó biết Đạo Thầy là Chơn-Lý thể nào thì nó đã biết, đó là vì Thầy quá thương giải rành cho nó rõ, đặng nó nói lại cho đứa khác nghe cũng là bổ ích cho nhau trong chỗ đó.
Vậy con giao lại cho nó coi thì nó biết.
Thăng.
******************
42. PHẬT VÀNG
VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 16 tháng 11 âm-lịch 1940 (6 giờ sáng)
ĐƯỢC, con nghe Thầy hỏi: hiện nay trong thế gian Hàn hoặc Chùa, hoặc Thất, hoặc Am, hễ có lên cốt Phật thì dùng vàng lá mà phết lên cho tốt rồi gọi là Phật đặng xúm nhau vái lạy khẩn cầu. Còn nơi nào không có như vậy thì gọi đó là không Phật nên không đến tu hành, vậy con biết tại sao mà phải làm hình phật phết vàng vậy không?
- Bạch: con không rõ.
Nầy con, đó là cũng một tiếng nói của nhà Vua là Vua Thái-Tôn đời Đường. Khi Phật Quan-Âm cho lời vi ngữ đặng cho Tam-Tạng thỉnh kinh thì trong đó có lời dặn rằng nếu ai dám đến Tây-Phương mà thỉnh kinh đem về giải độ cô hồn làm cho thành việc thì người đó là Phật Vàng, rồi trong đó Vua Thái-Tôn đọc cho cả người có mặt tại đó nghe tự đó truyền ra mà không xét lý, cứ hô lên một tiếng hễ Phật thì vàng là chính lời Vua phán nên từ đó tới sau hễ lên cốt Phật thì cứ phết vàng gọi là trúng cách, chớ kỳ trung lời vi ngữ của Quan-Âm là nghĩa lý cao sâu ít người rõ đặng, là trong đó như vậy. Kinh thì ở tại xứ Thiên-Trúc, đường đi xa ma quỷ thì nhiều, nên ai dám chịu lãnh mạng ra đi, tử sanh chẳng quản, lao khổ không phiền, sắc tài chẳng đắm, gặp dữ cũng hiền, làm ơn chẳng kể, kết cuộc rồi lòng dạ vẫn như như, thì người đó tợ vàng vào lửa, thì trong đó gọi là Phật Vàng là do cái lý đó. Chớ hình dung của người thành Phật cũng tỷ như ngày nay Thầy sai mỗi đứa ra hành phận sự đây cũng ăn cũng mặc theo cách tu hành chớ nào phải phết vàng gọi là Phật hay sao. Đó là tại nơi lòng mỗi đứa muốn ham làm Phật mà không chịu học, chịu hành, giồi tâm sửa tánh, thì chẳng khác nào kẻ thế gian muốn nên phú quí công hầu mà không chịu học, dầu cho có mượn tiếng dựa hơi giựt giành chen lấn đi nữa thì cũng không có kết cuộc vào đâu; còn đứa đi tu mà không tầm lý xét mình, tùy cơ vận chuyển dầu cho có cất chùa đúc Phật rồi cũng thành ra một chỗ mê mù, rồi trở lại trách sao tu hành mà không thấy hiền. Đó là Thầy giải nghĩa Phật Vàng là vậy cho nghe đặng liệu theo lời Thầy mà xét lại cái buổi đời ngày nay, Thầy lập Tam-Tiểu Thời-Kỳ, nối lại Thượng-Nguơn thì cái khó khăn đó chẳng khác nào như hồi Tam-Tạng đi thỉnh kinh như trước.
Còn nay Thầy giáng thế tại đây thì chẳng khác nào Tây-Phương hồi đó, nếu ai chịu nổi cái sự khó khăn day trở đừng có ngã lòng thì trong đó cũng là có chí tu hành theo Thầy tới Đạo, kinh sám Thầy ban cho cứ lo học hành, đừng sanh giải đãi lần lựa ngày qua cơ Trời sắp đặt, chớ luyến giàu nghèo, đừng than thở phận, thì trong đó điều đặng hưởng nhờ hạnh phúc Vô-Vi, là lòng ai nấy biết.
Vậy con coi rồi giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày 26 lễ Tu-My cho trong Đạo nghe chung, rồi cũng phát ra cho Đạo coi mà học, còn Thiên-Sư thì gởi cho các chủ Thánh Thất mỗi người một bổn đặng Đạo chép ra mà học.
******************
43. TAM-HỒN THẤT-PHÁCH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 7 tháng 3 âm-lịch 1943 (12 giờ trưa)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói lại cho NHÀN nó hay, mấy lời nó xin hỏi Thầy đó Thầy đã có dạy lâu rồi, tại nó không chịu tùng Chơn-Lý nên khó biết.
Đây Thầy chỉ sơ lại cho nó rõ:
Tam hồn là:
1.- Là Linh-Hồn về phần Thiêng-Liêng.
2.- Là Anh-Hồn là về phần Tiên-Thiên Hậu-Thiên giao cấu.
3.- Là Thần-Hồn thuộc về ăn uống vật thực, cỏ cây, khôn dại không chừng, hồi còn trong bụng mẹ đó là thập ngoạt hoài thai, tiếp nhờ khí âm khí dương, đủ hình hài rồi đến ngày sanh, đó gọi là Thần-Hồn. Khi Thần-Hồn mới vừa ra khỏi bụng mẹ, chừng đó Linh-Hồn mới cho Anh-Hồn nhập vào, mới có tiếng khóc khổ a! khổ a! là đó. Như người còn sống hay ưa ăn đồ máu thịt, chẳng kể tu hành, thì người đó nặng về Thần-Hồn, đến ngày gần chết hễ tội nhiều quá thì Anh-Hồn đi trước, rồi từ đó đến ngày cùng thì người như điên như dại, là tại Thần-Hồn cải canh, không nghe lời Anh-Hồn, nên phải chịu hành nhãn tiền cho mỗi người đều thấy.
Còn Thất-Phách là bảy cái Chơn Như: Chơn-Tâm, Chơn-Tánh, Chơn-Thể v.v…
Trong 7 điều nầy buộc người làm cho đúng thiệt, còn người hay làm chuyện giả dối, chừng chết tiếng cho là vía dại. Đó là Thầy chỉ sơ vậy thôi, muốn học cho rành phải về Chơn-Lý cho trọn chí thành, mới có Thần ứng Tâm, chớ Đạo-Lý không thế gì hỏi thăm mà thấu đặng?
Còn Đạo-Hiệu là hiệu của Đạo, chớ nó xin cho nó sao được, trừ ra đứa nào qui tùng Chơn-Lý có công, Thầy cho vào Thập-Bát La-Hán đặng hành Đạo đó thôi, chớ không phải hiệu của phàm mà đặt điều khoe tặng.
******************
44. TRỜI ĐÁNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 9 âm-lịch 1942 (2 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con nói lại cho LAI nó hay: nó đừng tin theo lời những đứa cho là không có Trời, rồi gọi là sét đụng mà chết, chớ không phải Trời đánh, rồi tin theo đó mà không kể luật Trời, mà ỷ mình làm ra tội lỗi, nếu như Trời không đánh, chớ ai đánh mà chết đó, dầu cho sét đánh thì sét đó cũng của Trời. Hỏi vậy dưới thế gian có ai làm ra được vậy không? Mà nói rằng không phải Trời đánh? Bất luận là tội gì? Hễ phạm vào trong khoản đó thì phải chịu ngay, dầu cho chết rồi cũng đánh cái mồ. Đó là tại vì xác phàm đoản thọ, còn luật ghi đó còn y, nên phải đánh đặng cho nhiều người thấy rõ.
******************
45. ĐẠO CAO NHỨT XÍCH, MA CAO NHỨT TRƯỢNG
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 29 tháng 6 âm-lịch 1943 (7 giờ sáng)
-------o0o-------
Nầy mỗi con, Thầy thường nghe mỗi con nhiều khi đi đứng nằm ngồi trong lúc gặp nhau hễ có nói tới điều chi Đạo-Lý thì hay đem lời “Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng” đặng lấy đó mà che lấp tội lỗi của mình, là cái tội lỗi cho loài ma là cao hơn Đạo-Đức. Không phải vậy đâu? Đây Thầy nói cho mỗi con rõ, câu đó là vầy: Đạo cao thì học có mực thước, rồi dùng đó lấy tài, tập nết kiêu căng, cho mình là Đạo cao đặng khi người thấp, rồi trong đó kết thành ma chướng cho mình, Đạo-Đức chẳng bao nhiêu, còn bề cư xử đối đãi nhiều chuyện phiền phức, nhiều thói tự cao, đó là tại mình vọng tâm mà thành ra chuyện đó, nên kêu là ma cao nhứt trượng, tỷ như học thì ít mà nói mép thì nhiều, chớ một lòng Đạo-Đức cho ròng, dứt hẳn phàm tâm, kỉnh thành cho trọn, trên biết sợ Trời, dưới hết lòng thương người quá dốt, mừng cho người được mở mang, gia đình giáo dục, có vẻ nghiêm từ, thị thính động ngôn, giữ tròn chánh lý. Nếu được vậy cho trót đời của mình thì ma nào lại hơn Đạo-Đức cho được?
Còn câu Thầy nói: Đạo càng cao, quỷ ngạo càng nhiều, nghĩa là: lũ quỷ ngạo thì nó nhiều hơn người học Đạo cao, là nó nhiều chớ không phải nó cao hơn. Vì tại nó nhiều đó, nên con nào Đạo cao bền vững thì chúng nó phải phục tùng. Từ xưa nay, hễ tu hành thì phải có vậy, rồi sau lũ đó, nếu biết mình mà sám hối thì cũng là có chỗ lập công, còn những đứa quá cường thì phải đi vào nơi tiêu diệt.
Ngày nầy là ngày lễ Trung-Nguơn Thầy để ra các lời minh biện cho mỗi đứa nghe rành biết vậy ráng tu, đừng khoe mình giỏi, đừng bỏ chuyện lành, ai ngạo báng mặc ai, mình nhớ mình một lòng theo Trời Phật thì Trời Phật bao giờ cũng không phụ bạc người lành, còn ai làm chẳng lành thì có phần riêng đó.
Thầy ước trong các con nhớ trọn lời Thầy, dầu nữ dầu nam, đừng có viện câu ma cao nhứt trượng, thành ra mình cho mình người Đạo-Đức thấp hơn ma, rồi lấy đó làm đầu khuyên bảo cùng nhau, mình đã chẳng biết tin lẽ phải cho mình thì có dễ chi mà xa lần điều quấy.
Vậy mỗi con ráng chép ra mà học đặng xét mình kềm vững đức tin, đừng có để bơ thờ rồi uổng công gặp Thầy mà không rành lý nghe mỗi con.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo-Tràng ngày lễ Trung-Nguơn nghe chung, cùng là dán tại Đông-Lang, Tây-Lang đặng trong Đạo chép ra mà học. Còn Thiên-Sư gởi cho các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng mỗi chỗ một bổn.
******************
46. TỤC MÙNG 5 THÁNG 5
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 4 tháng 1 âm-lịch 1944 (9 giờ trưa)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con biểu CA nó in Thánh-Giáo nầy dán tại Đông-Lang, Tây-Lang cùng là đọc cho Đạo nghe chung, còn các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng về phần Thiên-Sư phải gởi trong đó. Thầy nhứt định từ đây sắp lên, những người biết Đạo Chơn-Lý mà qui tùng, thì phải dứt hẳn cái tục gọi là mùng 5 tháng 5 cũng như ngày tết. Thầy đã nói nhiều rồi, ngày đó là ngày lễ điếu Khuất-Nguyên ngày trước, rồi sau nhiều người lại đem vào khoản hôn-nhơn đặng bày ra nhiều lễ, vì đó mà kết chuyện lâu đời, không nhằm chi cả. Ngày nay là đúng Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thầy ra lời dặn trước, như ai chịu tin theo, gọi là người biết Trời bỏ tục, nếu người tùng Chơn-Lý mà còn nê cố bấy lâu thì người ấy gọi là chưa thiệt.
Các chủ Thánh-Thất, các Đạo-Tràng đọc cho Đạo nghe rồi buộc chép để dành đặng có việc sui-gia khỏi điều bàn cãi, tại đây cũng phải vậy.
******************
47. CÚNG DƯNG CĂN, TRÙNG-BỐ, TRƯƠNG-NHỨT-TÚC
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 16 tháng 5 âm-lịch năm 1939
-------o0o-------
TÂN, nghe thầy dạy:
Theo lời con hỏi Thầy đó thì cũng phải, song Thầy quá buồn cho con, sao con hay bươi móc kiếm tìm, học nội tánh tâm không vững.
Vậy đây Thầy nói sơ cho con rõ: cái tục CÚNG DƯNG CĂN đó là hồi đời Phong-Thần, trong lúc chị em Quỳnh-Tiêu, Bích-Tiêu, Vân-Tiêu phải chịu lãnh về phần đó; hễ con ai mới sanh thì phải ứng mộng cho biết, đặng chỉ rành căn số phải tu, trong một hình mà ba cái mặt, là trong ba đứa đó gom lại một Hồn, ngặt phải chia ba cho người đời rõ ba đứa đó nghịch mạng Trời mà chịu đọa, nên phải lo ứng mộng độ người đặng chuộc tội mình khi trước, lần lần nhiều kẻ mượn danh mà bày ra bóng chàng thêu dệt; tại vậy nên Thầy không cho ứng mộng nữa, nên mới lập Đạo ra đây đặng mấy đứa đó phụ bút cứu đời, hoặc xưng bà kia bà nọ, Thầy cũng vui cho, miễn sao cho đời tu là đủ.
Còn việc TRÙNG-BỐ đó là tại nơi lòng của bọn phụ nữ ở phàm gian hay bày ra huê tình phong nguyệt, gây cuộc gió mưa, lời thề tiếng hẹn, dám liều mình sanh tử với nhau; tại đó mà hồn ma chịu đọa, rồi vương vấn nợ tình là tại nơi tư tưởng, bởi đó nên Tam-Giáo thường hay cấm sự tà dâm là vậy.
Còn TRƯƠNG-NHỨT-TÚC là tích trong đời nhà Châu, có một tên Trương-văn-Hộ sanh ra được 9 người con, duy có một mình Trương-Nhứt-Túc là thông minh hơn hết, đó là cái tên đời sau kêu gọi chớ tên tộc là Trương-Đại-Hùng. Khi Đại-Hùng khôn lớn thì trong anh em sợ cho nó phải hơn mình nên dùng thế lập người đón đường đánh cho chết, chẳng dè người đi đánh đó có lòng thương nên đánh dưới chưn làm cho gãy hết một giò, rồi tri hô lên thì đem về nhà rước lương y điều trị, buộc phải cắt giò gãy đó đi mới trị đặng. Từ đó tới sau, hễ đi thì chống gậy nhảy một giò, không có vợ con chi hết, đến sau rõ đặng cái thù nầy thì tuổi đã mãn số; tại vậy nên luật Vô-Tư phải cho về trả báo cho mấy đứa làm ác đó, đặng trả thù xưa. Từ đó di truyền gọi là Trương-Nhứt-Túc, là báo hại có một dòng họ đó thôi; rồi đời sau hay dùng chú đó đặng gạt đời mà chưa hay là quả báo. Tại vậy nên Tam-Giáo thường hay ngăn cấm sự ghen ghét nhau là vậy đó.
Hiện nay Chơn-Lý phô bày nên Thầy chỉ rõ cho mỗi đứa nghe chung mà tự tỉnh. Thầy cho tiếp chúng nó một bài thơ để đọc cho dễ nghe gọi là phá tục.
THI
1.- Phá tục thi bài một đoạn
Mỗi con nghe đặng sửa lần
Đạo Trời cải cựu duy tân
Là đem lý thiệt dẹp lần đồ hư.
2.- Mỗi con chớ nhàn cư húng hính
Mà lại theo mê tín quên Trời
Cõi trần cả thảy nhiều nơi
Có Châu Nam-Thiệm ưa lời rủ ren.
3.- Nghe tiếng bợ tặng khen thì muốn
Lời chánh chơn nói đến thì buồn
Tại vầy nên lạc vào truông
Là ưa lời phỉnh của công không màng.
4.- Trong các việc dị đoan tà mỵ
Cúng quảy dưng đơm quỷ tế thần
Chẳng rành hai chữ Oai Ân
Thần minh chánh trực thưởng răn không vì.
5.- Dưng lễ vật nhiều khi thầm vái
Cầu chứng minh đổi hại ra hiền
Một phần cầu nguyện tư riêng
Giàu sang mạnh giỏi ước duyên vợ chồng.
6.- Trong chỗ đó phần đông còn luyến
Nên quỷ ma bày chuyện gạt người
Linh đình hát xướng giỡn chơi
Dựng căn đổi đốt vẽ vời đặt tên.
7.- Các con nỡ vội quên Chơn-Thể
Đem mình ra quỳ tế mỵ tà
Thân hình mình vóc tóc da
Trong còn một điểm gọi là Linh-Quang.
8.- Chỗ quí trọng chẳng màng chẳng kể
Quỳ lạy dưng tế lễ lạy càn
Trước thì rượu thịt nghinh ngang
Người sau, thú trước chẳng màng trọng khinh.
9.- Đó là tại quá tin về lợi
Mà quên nhìn cái hại gần đây
Xúm nhau thêu dệt đặt bày
Đổ cho Thần Thánh tội nầy ai mang.
10.- Tưởng cúng tế là sang là quí
Tội sát sanh vô lý ai trừ
Tại vầy mà tội còn dư
Đầu thai chuyển kiếp người như thú đền.
11.- Luật hành phạt nêu tên rành rẽ
Các truyện thơ chép để răn đời
Học hành thấy vậy dể ngươi
Dưỡng nhơn dùng vật viện lời trớ trêu.
12.- x Tưởng ăn quên kể Thiên-Điều
Vì tham quên mạng ít nhiều vái van
Rủi lầm bịnh hoạn nhiệt hàn
Bày ra cầu khẩn cho an thế liền.
13.- Lấy thì vàng bạc giấy tiền
Vịt gà heo cúng mạng mình đổi đây
Chẳng suy chẳng xét lẽ nầy
Tử sanh hữu mạng Cao-Dày định phân.
14.- Gây ra tội lỗi muôn phần
Trước làm sau học lẫy lừng chẳng kiêng
Sao không xét lại Thánh Hiền
Văn thinh bất nhẫn, kiến hình động bi.
15.- Bào trù quân tử viễn chi
Huống chi Thần Thánh lại đi đường nào?
Thầy nhìn chán ngán xiết bao
Bỏ qua Đạo-Đức chen vào Bàn-Môn.
16.- Tháng ngày tính dại lo khôn
Mà quên mình lại đem chôn tánh mình
Tánh người vạn vật tối linh
Cúng quỳ dưng tế sao hình thú chong.
17.- Hỏi sao chẳng hổ thẹn lòng
Tử vinh thọ nhục phần đông học nhiều
Tinh thần tại đó giảm tiêu
Giảm tiêu ám muội thân liền khổ thân.
18.- Mỗi con khuyên ráng ân cần
Lo tu cho trọn sự mừng thấy đây
Anh em hòa thuận vui vầy
Chẳng tranh danh lợi, chẳng bày chuyện mê.
19.- Kiếp đời sống ở thác về
Về cho tới Đạo, khỏi bề trầm luân
Lạy ma tế quỷ khuyên đừng
Để công học Đạo tránh phần họa tai.
20.- Đất Trời một bọc nào hai
Có ai cãi đặng hầu nài vái van
Thầy khêu Đuốc Huệ chỉ đàng
Cứ đi theo đó là an phận mình.
21.- Việc gì hễ thiệt thì Linh
Giả mang tài tục, phải nhìn cho ngay
Dặn chung cả thảy một bài
Chớ ham dục vọng có ngày phải nguy.
22.- Vì thương mối Đạo Tam-Kỳ
Cứu nguy tỉnh mộng lời ghi dạy truyền
Nặng nề cho đứa vô duyên
Nghe rồi không nhiễm ý riêng không chừa.
23.- Ước cầu bố sớm cùng trưa
Rủi ro thất bại đổ thừa giận thêm
Con nào Chơn-Lý thuận êm
Nghe rồi tự xét tại chiêm ngưỡng nhằm.
24.- Có nghe có biết hổ thầm
Hổ vì mình chịu nhiều năm đọa đày
Nay nhờ gặp đặng đường ngay
Từ đây cứ thiệt khỏi sai khỏi lầm.
Thăng.
******************
48. THÁNG GIÊNG MÙNG 9 VÍA TRỜI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 3 âm-lịch 1939 (8 giờ tối)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói lại cho KHANH nó nghe, theo trong bài của nó làm đó, hay dở mặc lòng Thầy không buộc, song có một câu nó nói: “Tháng giêng mùng 9 vía Trời” đó là sái với Chơn-Lý của Thầy là vậy. Vì nó là một đứa đứng ra làm anh tại đó mà nó không chịu tới lui Tòa-Thánh đặng học cho rành Đạo-Lý nên mới nói sai siểng như thế.
Đây Thầy cũng hết lòng chỉ cho nó rõ đặng nó dạy lại đoàn em của nó, ngày đó là ngày của Trương-Đạo-Lăng, trong thời kỳ người làm Thiên-Sư ở tại xứ Trung Hoa. Mỗi năm đến ngày đó thì người ngồi tại Văn-phòng định tâm Hồn xuất đến trước Bửu-Tòa Bạch-Ngọc đặng nghe Thầy phân định các điều thưởng phạt, rồi người tỉnh lại như thường; lần lần tiếng đó đồn đến Triều-đô, vua Tàu nghe rõ mới đến tận nơi chỗ người làm việc mà hỏi, thì người cũng nói y theo lời phán định, xứ nào bị tai nạn, xứ nào được hưởng phước; nói rồi thì vua biên để lại coi quả vậy không? Khi khởi sự nói ra thì người có buộc Vua nước Tàu phải thề không nên nói lậu, vì việc ấy là Thiên-cơ, bởi cớ nên Vua ấy trọn tin mà không dám cho ai hay rõ các điều lợi hại đó. Đến năm sau Vua ấy hạ lịnh cho các quan ghi ngày đó vào lịch gọi là ngày Thánh-Hội đặng nhớ chừng, rồi lần lần mãn phận sự của Thiên-Sư, Vua ấy băng hà; đời sau thêu dệt sửa lại là ngày Ngọc-Hoàng Thánh Đán, đặng bày ra cúng vía, làm cho người đời tin là ngày vía Ngọc-Hoàng, người thì gọi là vía Trời theo lời nó nói đó, ấy là tại thất Chơn-truyền mà thành ra Trời có ngày sanh nên gọi là có vía.
Vậy từ đây nó phải nói lại cho đàn em nó hay, chớ nên tư tưởng như vậy nữa. Còn bài học của nó đó, con sửa đi có Thầy dạy cho.
******************
49. THƯỢNG-NGUƠN, TRUNG-NGUƠN, HẠ-NGUƠN, NGÀY SÓC-VỌNG, NGÀY VÍA THÍCH-CA.
Trích lục:
Đàn đêm 17 rạng 18 tháng 9 năm Nhâm-Thân 1932
-------o0o-------
PHÙNG, bạch Thầy: sự cúng kiến con coi còn lộn xộn quá, không trúng cách của Thầy dạy đây, vì người ta còn đương mê tín quá, khó bề sửa đổi ngay lại một lần cho được, con xin để thủng thẳng con làm nhưng mà có một việc là mấy ngày Vía, mấy ngày rằm nguơn của lệ chùa Phật đó con tưởng nên bỏ đi là phải hơn, xin Thầy cắt nghĩa dạy con thể nào.
- Ba ngày Nguơn chánh tục lệ gọi rằng Tam-Nguơn đó không nên bỏ, vì đều là ngày của Tam-Giáo Thánh-Nhơn đã làm rồi, nên con phải tùng theo, coi như ngày Kỷ-niệm vậy. Tuy ngày ấy không trúng với ngày lịch hiện giờ song cũng không hại chi, còn mấy ngày vía thì con phải bỏ đi, không nên dùng.
- Bạch: ba ngày Tam-Nguơn ấy kỷ niệm việc chi, xin Thầy cho con biết?
- Trong đời Nghiêu-Thuấn có Đại Hồng-Thủy phá hại, đó là ngày Thầy cho Thiên-tai tiêu diệt lũ quỷ chẳng tuân luật Trời, nên mới tràn qua Trung-Nguyên Đại-Lục; đến khi Đại-Võ đào xong chín ngọn sông rồi, thì nước rút hết ra biển cả; Vua tôi nó có làm lễ tế cáo với Thầy, tỏ dấu cám ơn Trời Đất; đến sau Đại-Võ làm Vua, nó cũng cứ ngày ấy tế Trời hoài, đặng xin cho nước rút đi; cái ngày lễ của nó tế đó, tuy không phải là rằm tháng 10 bây giờ, vì nó có lịch của nó, nhưng mà các đời sau nhứt định cho là ngày 15 tháng 10. Vậy ngày ấy là ngày Đại-ân của Đại-Võ, nên phải dùng ngày kỷ niệm đừng bỏ.
- Bạch Thầy còn hai ngày kia???
- Lúc Châu suy, Bàn-Môn Tả-Đạo rất thạnh và rất lộng, nó cũng là cúng kiến linh đình quá hơn bấy giờ. Con không biết đâu, hễ cứ đầu năm mới thì nó đặt điều cúng đủ các thứ Tiên Thánh cho hết tháng giêng mới rồi, gọi là cúng như vậy đặng cầu Thầy ban phước. Lão-Đam thấy nhơn sanh bỏ phế công việc làm ăn nên định lại một ngày: rằm tháng giêng cho gọn, đặng cứu bớt sự thiệt hại của nhơn sanh đó, con cũng đừng bỏ.
Còn ngày 15 tháng 7 gọi là xá tội Địa-Quan, đó là của Thích-Ca định, nhưng Đạo của xứ Ấn-Độ lúc trước đều tín ngưỡng những Thần của chúng nó lắm, là vì chúng nó luận rằng hễ trên Trời có Thần Thánh thì dưới đất phải có ma quỷ, người ta ở giữa. Hễ ai làm phước được nhiều thì chết hồn về trên Trời được thưởng, còn ai làm tội nhiều, khi chết bị phạt cầm dưới đất đặng chịu khổ hình, chúng nó sợ ma quỷ dưới đất lắm, nên cũng trọng ma quỷ và tin tưởng ma quỷ lắm, chúng nó luận ma quỷ cũng ăn uống xài phí như còn sống vậy, mà chúng nó chắc chắn rằng Ông Bà Cha Mẹ chúng nó bị phạt dưới Địa-Phủ chớ chẳng hề khi nào về cõi Trời được, nên chúng nó bỏ hết sự sản đặng tìm cách khổ thân thay thế sự hình phạt cho Ông Bà Cha Mẹ chúng nó. Đứa nào tìm cách khổ thân thay thế được thì làm, còn đứa nào làm không được sự khổ thân thì bỏ của ra mà chuộc tội. Thích-Ca thấy chúng nó quá mê tín vô ích nên định lại một năm thì làm một lần, một lần làm có một tháng là tháng bảy mà thôi; hễ cuối tháng bảy thì cúng tất nhằm tháng trăng sáng, nghĩa là ngày rằm đó. Ấy cũng là một cái phương pháp cứu vớt sự mê tín của chúng sanh đặng cho chúng nó mừng rằng Ông Bà Cha Mẹ chúng nó được nhờ ơn Đức Phật dạy trúng ngày nên được siêu thăng về cõi Trời, như vậy chúng nó mới có ngày giờ đặng về theo mà học đường Chơn-Lý. Vậy thì con cũng chẳng nên bỏ mà làm chi, Thầy xét lại ba ngày ấy nhằm ngày rằm, cũng không thất công cho nhơn sanh về sự hiệp lại đặng tỏ tình thân ái, kết cuộc đoàn thể và trao đổi ý kiến với nhau mà học Đạo.
- Bạch: nếu vậy Thầy cũng dùng theo Nhị-Kỳ mà dạy chúng tôi phải cúng Sóc-Vọng nữa sao?
- Thầy nào dạy con cúng Sóc-Vọng là nghĩa gì? Thầy bảo các con phải nhóm nhau một tháng hai kỳ nhằm ngày Sóc-Vọng đặng trao đổi ý kiến với nhau mà học Đạo cho rõ Chơn-Lý là gì, kết dây thân ái với nhau cho thành đoàn thể. Còn sự đọc kinh là một sự cầu nguyện cũng không nên bỏ, nó rất bổ ích cho tinh thần và dễ bề cho các con tìm xét tội lỗi của mình mà ăn năn.
- Bạch: sao Thầy không định ngày khác, lại định ngày Sóc-Vọng cho giống với ngày của bọn sãi ở chùa nó lập lệ đã lâu rồi, nếu vậy e là tùng ngày của nó chăng?
- Phải định hai ngày ấy, vì nhơn sanh tín ngưỡng hai ngày ấy là ngày của Phật định, mà Thầy đây cũng là Phật, làm như vậy đặng cho nhơn sanh biết Đạo-Lý của sãi chùa là làm sai theo Chơn-Lý, thì nó mới chịu quay về mà theo Phật là Thầy đây.
- Bạch Thầy, còn ngày mùng 9 tháng giêng, tục lệ rằng là ngày Vía của Thầy đó, thì Thầy nhứt định làm sao?
- Con có rõ ngày ấy là của ai định hay không? Ấy là ngày của bọn Bàn-Môn nó định đặng gạt sanh chúng đó thôi, mà là ngày của bọn nó định trong đời Tống, chớ chẳng lâu lắc chi, con hãy bỏ đi đừng dùng đến, vì Thầy là người mở Trời, dựng Đất, sanh Người, chớ nào có ai sanh được Thầy đâu mà có ngày vía.
- Bạch Thầy, Thầy là người dựng Tam-Kỳ Đại-Đạo, vậy con xin Thầy cho một ngày nào đặng chúng con làm Kỷ-Niệm để đền đáp ơn Thầy chớ chẳng lẽ để dùng ngày của Nhị-Kỳ hoài, e không phù hợp với Chơn-Lý.
- Thầy đã cắt nghĩa cho con hiểu một lần rồi sao con còn hỏi nữa? Từ khi Thầy chuyển bút về Kiên-Giang đặng gìn giữ mối Đạo cho các con, cho đến ngày các con Minh-Chơn-Lý, thì chưa ai rõ nguồn cội Chơn-Lý là nơi Kiên-Giang; vì vậy nên Thầy phải lập An-Thiên Đại-Hội nơi Kiên-Giang đặng cho các con biết. Chớ chi các con Kiên-Giang đừng mê sa lời quyến rũ thì có đâu Thầy lập Tòa-Thánh nơi Trung-Ương mà làm lễ cuộc Tu-My nơi đó. Vậy thì hai ngày An-Thiên và Tu-My đó là hai ngày kỷ niệm của Đại-Đạo.
- Bạch Thầy, còn ngày Minh-Chơn-Lý thì bỏ hay sao?
- Ngày ấy là ngày của các con định mà Minh-Chơn-Lý chớ chẳng phải là ngày của Thầy định cho các con làm, nhưng mà đã có định rồi, vậy Thầy cũng nhìn nhận cho là một ngày kỷ niệm thứ ba nữa, Thầy còn định thêm ngày khác nữa, song Thầy chưa nói ra, e các con còn sẽ bị lầm nữa, sau Thầy sẽ chỉ.
- Bạch Thầy, ngày vía mùng 8 tháng tư của Đức Thích-Ca, Thầy nhứt định thế nào?
- Một tháng của Trung-Nguyên là hai tháng của Ấn-Độ, lúc Thích-Ca còn đương khai Đạo nơi ấy, là vì tục Ấn-Độ từ mùng 1 tới rằm gọi là tháng trăng sáng, còn từ 16 tới 30 gọi là tháng trăng tối; Đạo Phật từ Thích-Ca tịch diệt rồi đến Hậu-Lương mới bành trướng qua Trung-Nguyên thì đủ gần 1.500 năm. Thầy hỏi con còn có ai mà có tài liệu gì chắc đặng khảo cứu cho ắt cái ngày Thích-Ca giáng thế.
Ấy chẳng qua cũng là một ngày phóng ước của kẻ đời sau lập ra đặng gọi là nhớ ngày mà đền đáp công ơn đó thôi; Lại mỗi khi nào có Thầy ngự đến đâu thì đều có Tứ-Thánh đến đó, vậy thì con đừng dùng ngày ấy nữa, đặng chỉ rõ sự huyễn hoặc phi lý của kẻ sau không đáng là người định kỷ niệm cho một bực nào là bực người khai mở nguồn Đạo.
******************
50. NGÀY THÁNG TỐT XẤU, SAO CHỔI
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 30 tháng 4 âm-lịch 1940 (5 giờ chiều)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói lại cho NGỌ nó hay theo lời nó hỏi xin chỉ về ngày tháng tốt xấu thì Thầy có nói cho HƯƠNG rồi, còn sự định ngày đó thì cứ mỗi tháng nó cứ ngày nào thuộc về thứ hai hay là 9-19-29 làm cũng được, đó là Thầy phán định cho chung, đứa nào cũng vậy, đặng khỏi coi ngày như bấy lâu.
Còn tiếng nói Sao-Chổi đó là tại chữ Nho để gọi là Huệ-Tinh, chữ Huệ nghĩa là Sao-Chổi, đó là của các vị Đại-Thánh thường chiếm Thiên-văn mà để về chữ đó, tại vậy nên đời cứ đó kêu hoài, rồi lại chỉ ra lợi hại mà trong chỗ nói không rành.
Còn cái lằn trắng ở nơi không mà có, đó gọi là hồng chữ Nho nghĩa là mống, hễ trắng kêu là mống bạc, song ít ai nhìn trúng, cứ thấy tương tợ rồi đặt tên, lâu ngày thành ra nói huyễn, đó là Thầy chỉ sơ cho nó biết, chớ Thiên-văn không dễ gì xem, ít tu có đâu thấy đặng.
Vậy con giao lại cho CA đặng nó coi rồi để vào Luật Bình-Quân đặng phát cho trong Đạo coi cho rõ, còn bài của Thầy dạy HƯƠNG đó thì con biểu mấy đứa dưới Bàn Nguơn-Thần chép ra cho NGỌ nó coi cho dễ hiểu.
******************
51. COI TUỔI, NGÀY NGUYỆT-KỴ, BÁ SỰ KỴ, NGÀY SÁT CHỦ, THỌ TỬ VÃNG-VONG, TỨ LY TỨ TUYỆT, THƯỢNG-LƯƠNG, NHẬP-TRẠCH, KHAI-TRƯƠNG, XÂY HUYỆT MÃ, CẤT NHÀ v.v…
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 27 tháng 8 âm-lịch 1939 (9 giờ tối)
-------o0o-------
ĐƯỢC, con phải nói cho HƯƠNG nó nghe, theo lời nó xin hỏi Thầy về việc dùng lịch Tàu đó là chỉ có dùng đặng cho biết tháng thiếu tháng đủ, rõ trong mùa tiết, thay đổi cho có chừng, hoặc là ngày giờ sớm tối, dài vắn theo mùa, đó là lẽ thiệt. Vì trước khi Thầy gieo mối Đạo tại Trung-Nguyên nên nước Tàu được biết trước cái điều nói trên đó, còn nước Nam với nước Tàu thuộc về một trái Địa-Cầu nên phải dùng chung một lịch; nếu không có lịch thì người đời phải chịu dốt, biết tới đâu cho cùng. Tại vậy nên Thầy lập Bát-Quái-Đài đặng để chỉ chừng cho mỗi đứa ráng học đặng mở mang theo Trời Đất, gồm lần trong khí Âm Dương, rồi sẽ thấy đặng các điều trong lịch đó, mà Thầy xem lại mỗi đứa thấy đó tưởng thầm cho là làm để khoe tài nên coi rồi bỏ qua không cố, đó là Thầy chỉ sơ nhắc chừng theo thời cuộc.
Còn đây Thầy chỉ qua việc coi tuổi cho HƯƠNG nó rõ, vì theo luật kết nghĩa vợ chồng Thầy đã chỉ rành trong Thiên-quí, trai thì phải để cho đúng 24 tuổi, gái thì đúng 21, đó là đúng tuổi thành thân. Cái tục coi tuổi theo sách Tàu là phi lý, sách có dạy coi tuổi chớ lịch không dạy coi, hai lẽ khác nhau. Nguyên sách đó là tại mấy hạng văn tài lấy trong Ngũ-hành đặng đem ra làm sách, chế cải nhiều điều, là những đứa đi thi lỡ vận, nên buộc lòng phải làm nghề đó mà nuôi thân, nên nhà Vua không cấm; chớ theo luật Trời thì không có coi tuổi tác chi hết, hễ tình hạp duyên ưa thì trình lễ đặng cáo trình Hôn-Phối.