Chư-hiền Nam Nữ, định-tâm xét phận do phận sự của mình lãnh phần giác-lý phổ-truyền Thiên-Đạo trong các Ban, Bộ

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 7 tháng 3 Mậu-Tuất 1958 (3 giờ chiều)

-------o0o-------

NHIÊN-KỲ CỔ-PHẬT Giáng-Đàn.

THI

NHIÊN quang chiếu rọi cõi trần ai
KỲ xúc cảm Chơn-Lý ứng hay
CỔ vãng Từ-bi Trung-thứ hậu
PHẬT thường giác thế diệu huyền thay.

Bần-Đạo chào mừng chư Hiền-sĩ định-tâm nghe Bần-Đạo giảng dạy đây mà gìn học cho tròn qui củ chơn truyền.

Từ đây THU Hiền-sĩ, chỉnh đốn bài giải nghĩa mấy lớp học Cao-Cấp Vô-Vi Diệu-Lý; lớp học Cao-Huấn Khải-Thông; lớp học Cao-Cấp Nữ-Oa sắp vào một bổn. Đạo-Tràng Bát-Quái Huệ-Luật Diệu-hành sắp vào một bổn. Đạo-Tràng Thiên-Phong-Đường sắp vào một bổn.

Đề hiệu như vầy:

- Từ lớp học Vô-Vi Diệu-Lý, Cao-Huấn Khải-Thông, Nữ-Oa Cao-Cấp đề: THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN VÔ-VI THÁNH-LUẬT.

- Đạo-Tràng Bát-Quái đề: THIÊN-ĐẠO LÝ-TRUYỀN HUỆ-LUẬT PHÁP-CHƠN.

- Đạo-Tràng Thiên-Phong-Đường đề: ĐẠI-ĐẠO QUI-NGUYÊN CAO-ĐÀI NHỨT-BỔN, CHƠN-CHÁNH DIỆU-HÀNH TRUNG-THIÊN NHIỆM-LUẬT.

THU, Hiền-sĩ truyền ban cho Tam-Bảo, Ngũ-Hành Thiên-Sư sắp sang tròn vẹn ba Bộ Luật chờ lịnh dưng đến Bửu-Thơ Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài chỉnh đốn ban truyền; Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài ấn tống. Trước ấn hành dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi xem xét, Thiên-Sắc điểm ban.

Hiền-sĩ truyền cho Tam-Bảo Tinh-Duy, Ngũ-Hành Thiên-Sư soạn mỗi bài Thánh-Huấn, Thánh-Giáo Thầy dạy từ Ất-Mùi đến đây về thoát tục, cùng trật tự sắp vào Luật-Bình-Quân nối hậu.

Từ đây mỗi Luật, Lịnh, Bài, Khuôn đồng phải dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi đặng Thầy ban danh điểm lý.

Nầy Chư-hiền chung nhau về nhiệm kỳ La-Hán thuộc Hiệp-Thiên-Đài phận sự, cùng Thiên-lý, từ đây ráng vẹn vẻ tâm trung tôn nghiêm cao phụng, đừng hớ hinh rồi điêu động đó Chư-hiền.

Hiện chung nhau Chư-hiền định-tâm nghe lời Bần-Đạo điểm danh ban truyền bổn phận.

1. Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài: soạn bài Thầy dạy Đạo-Thể của Tam-Hồn phải luận giải từ chi tiết. Xong phận đến ngày 14 tháng 3 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm, đặng sau rạng rỡ thinh danh trong Thiên-Đạo Chơn-Truyền Vô-Vi Thánh-Luật đó Hiền-sĩ.

NINH, ĐẮC hai Hiền-sĩ luận giải Đạo-phận Thể, Lý La-Hán Ban Hiệp-Thiên-Đài, ngày 30 tháng 3 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Thầy chấm điểm nêu vào Thánh-Luật cho rạng tỏ đó Hiền.

2. Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài: NGỌC, Hiền-sĩ sắp sang khuôn-mẫu nền nhơn Trung-Thiên Thánh-cuộc Đền Thờ đến mỗi văn-phòng, khuôn-viên từng tiểu tiết, rồi dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm cho rạng tỏ thinh danh trong Đại-Đạo Qui-Nguyên Cao-Đài Nhứt-Bổn, Chơn-chánh Diệu-Hành Trung-Thiên Nhiệm-Luật đó Hiền-sĩ. Soạn rồi đến ngày 14 tháng 3 Mậu-Tuất chuyển dưng.

3. TÂM Hiền-sĩ; TUẤN, BỜ, Tam-nhơn Hiền-sĩ: soạn lời tiên-tri cơ-vận từ Nhứt-Tiểu Thời-kỳ nhứt niên Đại-Đạo đến đây. Ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm đặng nêu vào Thiên-Đạo Chơn-Truyền Vô-Vi Thánh-Luật đó chư Hiền-sĩ, gọi thinh danh thượng lưu hạ cố.

4. BIỆN, Hiền-sĩ luận giải Đạo-phục Thể cấp của Chưởng-Quản từ mỗi tư tiết cho rành. Đến ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm đặng nêu vào Thánh-Luật.

5. SÁU, Hiền-sĩ luận giải Đạo-phục Thể, Lý khuôn hành chào đáp của Tam-Bảo Chánh, Phó cho rành. Ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm đặng nêu vào Thánh-Luật.

6. THỐNG, Hiền-sĩ soạn luận giải Đạo-phục cấp phẩm Lý, Thể từ Tứ-Bửu, Thiên-Sư, Nam-Tào, Bắc-Đẩu. Ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Thánh-Luật, tỏ rạng thanh danh Đạo-Lý đó Hiền-sĩ.

7. THẠCH Hiền-sĩ, mừng Hiền-sĩ luận giải Đạo-Thể Y, Quan cấp phẩm từ Đạo-Hữu đến Đại-Thiên-Phong cho rành phận sự. Đến ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật.

8. HƯƠNG, Hiền-sĩ luận giải Đạo-Thể một bài từ Tam-Tông Nhị-Dụng Hình-Đài. Đến ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Thầy chấm điểm đặng nêu vào Nhiệm-Luật đó Hiền-sĩ.

9. HIỆP, Hiền-sĩ luận giải một bài từ Tam-Thanh Đầu-Sư, Tứ-Bửu Hội-Thánh đến Ngũ-Hiệp-Quang, Lai-Tín, Hiến-Tín. Đến ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm đặng nêu vào Nhiệm-Luật đó Hiền-sĩ.

10. Ngũ-Hành Thiên-Sư, chung nhau luận giải Đạo-phục Y, Quan thể tướng cấp phẩm Thời-Quân, Tứ-Phối. Đến ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm đặng nêu vào Huệ-Luật Pháp-Chơn.

11. CỘI, Hiền-sĩ luận giải Đạo-phận Nguyệt-Tướng từ tiểu tiết. Đến ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Huệ-Luật Pháp-Chơn.

12. THẢO, Hiền-sĩ luận giải Đạo-phận Thể, Lý Giáo-Tập. Ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật.

13. HIẾU, Hiền-sĩ luận giải Đạo-phận Thể, Lý Trị-Đàn quang minh trí dũng. Đến ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Trung-Thiên Nhiệm-Luật.

14. HIẾM, luận giải Đạo-phận Thể, Lý Đồng-Nhi đến Giám-Sanh. Ngày 9 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Thầy chấm điểm nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật.

* Đây về Nữ-phái, mừng Thiên-giáo ban truyền. Vậy từ đây rạng rỡ thinh danh.

15. NHÂM, Hiền-sĩ cô nhân, luận giải Đạo-phận Lý, Thể Đầu-Sư, Viện-Trưởng, tuần tuần tiểu tiết. Đến ngày 6 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Tây-Cung Thiên-Mẫu chấm điểm nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật nối hậu chơn truyền.

16. SẮC, luận giải Đạo-phận Giáo-Tập. Ngày 6 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi, Thầy chấm điểm nêu vào Thánh-Luật.

17. HAI, Hiền-Cô luận giải Đạo-Cô Quang-Lý, Đạo-phận Lý, Thể. Ngày 6 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Thiên chấm điểm nêu vào Thánh-Luật.

18. TRÂM, luận giải Hạnh-nữ Đạo-phận cấp phẩm Đồng-Nhi đến Giám-Sanh, dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi, Linh-Tiêu chấm điểm nêu vào Thánh-Luật.

19. KIỂN, THÌNH luận giải Đạo-phận Trị-Đàn Nữ-phái. Ngày 6 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Cung chấm điểm nêu vào Thánh-Luật.

20. HỚN, TÀI, LƯỠNG, LIỄU luận giải Đạo-phận từ Đạo-Hữu đến Giáo-Hữu Nữ-phái cho rành cấp phẩm. Ngày 6 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Cung chấm điểm nêu vào Thánh-Luật Hậu-Truyền.

ĐẨU, LƯỢNG luận giải Đạo-phận Thiên-ban từ Giáo-Sư đến Chánh-Phối-Sư cho rành, dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Vương điểm phận nêu vào Thánh-Luật.

THẤT, CẢNH, TÔN, HIỆP luận giải Ngôi-vị Cửu-Cung cùng Ảnh-phụng từ tiểu tiết. Ngày 6 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Cung điểm phận nêu vào Thánh-Luật.

21. NĂM, CHO, NỐI, PHƯỚC, NẾT luận giải Cửu-Liên-Châu Đăng-Huệ. Ngày 6 tháng 4 Mậu-Tuất dưng về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi Tây-Cung chấm điểm nêu danh ban lý nơi Thánh-Luật.

22. SÁU, Hiền-Cô Nhơn-sĩ, luận giải Nữ-Điện Liên-Oa, Liên-Đằng Ngôi-Vị. Ngày 6 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Vương ban điểm thinh danh nêu vào Thánh-Luật Hậu-Truyền đó.

23. PHƯỚC, Hiền-Cô Nhân-sĩ, luận giải phận sự Thơ-Ký cho rành. Ngày 6 tháng 4 dưng về Hiệp-Thiên-Đài Tây-Cung chấm điểm nêu vào Nhiệm-Luật.

Vậy từ đây Chư-hiền Nam Nữ, định-tâm xét phận do phận sự của mình lãnh phần giác-lý phổ-truyền Thiên-Đạo trong các Ban, Bộ dầu Nam Nữ có trọng trách luận giải một bài gọi tri phận sự. Ngày 14 tháng 4 lễ Long-Hoa kỷ niệm dưng về Hiệp-Thiên-Đài Thầy ban ơn chấm điểm rõ thông phận sự thinh danh rạng tỏ trong Trung-Thiên Nhiệm, Thánh-Luật, đó Chư-hiền. Giờ đây Bần-Đạo xin kiếu.

THI

Thiên-sắc ban phong trí phận trò
Chư-hiền Nam Nữ vẹn lòng lo
Thọ ân xây đắp nền Chơn-Đạo
Ráng trọn thuận hòa vững lái đò.

Chào Nam-Công Hỏa-Đức Thiên-Chơn, bài nầy giao lại Chưởng-Quản in ra đến ngày 9 tháng 3 Mậu-Tuất đến đây đọc trước giờ Đạo-Tràng Diệu-Linh-Đền, đặng kỳ trung Thiên-Lý thọ giác hướng đồ. Chưởng-Quản Chuẩn-y Sắc-lịnh Ban-truyền, gởi cho mỗi ai có danh điểm đây mỗi Hiền một bổn, lo phận cho tròn chớ nên trễ thiếu đó mỗi Hiền Nam Nữ. Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

TÍN-NGƯỠNG, CHƠN-NGUƠN, NHÃN-TÂM, TÂM-NHÃN

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 8 tháng 3 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ sáng)

---------o0o---------

HUỆ-ĐĂNG CỔ-PHẬT
CHƯỞNG-GIÁO ĐẠI-THIÊN-TÔN

THI

HUỆ-thần mới tỉnh khỏi mê mù
ĐĂNG chiếu tứ phương trí vị du
CỔ đắc công tâm kim diệu huệ
PHẬT Tiên thống đạt tín uy thu.

Mừng chư Đệ-tử, Bổn-Sư lâm Đàn ban truyền hai chữ “TÍN-NGƯỠNG”. Vậy chư Đệ-tử định-tâm học lý. Tín thông chơn tín, Tín trị tâm thiêng, Tín uy giác thế, Tín thọ tâm trung, kỳ chơn Tín tịnh, tâm định Tín minh, Tín tri khiêm hạnh; gọi Tín hòa chơn chánh Tín tri Tin. Ngưỡng tiền tri hậu, Ngưỡng húy giác thân, gọi tinh thần lương hiệp, Chơn Tín Ngưỡng quang. Ấy là Tín-Ngưỡng.


DÀ-LAM CHƠN-TỂ QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN Giáng-Đàn.

Bần-Đạo mừng chư Hiền-sĩ. Vậy chư Hiền-sĩ định-tâm Bần-Đạo ban truyền hai chữ: “CHƠN-NGUƠN”. Chơn-Nguơn là nguồn sáng. Chơn-Nguơn là Bổn-giác, Chơn nghĩa thiệt, Nguơn nghĩa đầu, trước hết là thiệt, thiệt là chủ sự vật, lý, thể định xem xét qui khai, thiệt đầu mỗi mỗi gọi Linh. Linh đủ hay, hiểu, quên, nhớ, gọi đầu đề mỗi mỗi, tồn, vong của muôn loài gọi Hồn. Hồn tinh anh sáng suốt, gọi Anh-Hồn. Hồn của sự, vật, thể cử động, là Thần-Hồn gọi hữu vi, Hồn thanh bạch không nặng nề tối tăm, biết bình trị tri lương giác sự, trí vật, ấy hồn Linh. Gồm đủ Tam-Nguơn gọi Tam-Hồn, tồn lương tâm thiệt tin đó là Bổn-Giác, gọi người ta. Người ta vẹn đủ Chơn-Nguơn đó là trọn Linh, đặng hơn muôn loài thể thấy đây là vậy.


DIỆU-THIỆN BỒ-TÁT PHỔ-TẾ THIÊN-TÔN Giáng-Đàn.

Bần-Đạo chào mừng Chư-hiền, hiện giờ chung nhau học Đạo, hãy định-tâm nghe Bần-Đạo truyền ban hai chữ “NHÃN-TÂM”.

Nhãn định Tâm thâu, lưỡng quang do nhứt định là Chủ-Tể. Đức Chí-Tôn ban dạy Chư-hiền điểm ra chơn thể Nhãn-Tâm tượng trưng chiêm ngưỡng, nghĩa là Tiên-Thiên chơn tín đó, là Nhứt-Cực Hư-Vô, thể đình huờn trung chủ. Không-Hư là Thái-Cực, ấy là Độc-Nhứt, trước trên hết của muôn loài, là cái trước đầu, đầu là chủ bộ Tiên-Thiên của sự sống muôn vật trên cõi thế gian gồm là chỗ một vậy. Lý là định, loài người hay bình linh, dầu sáng, tối, nên, hư cũng do định là trước; đó là Bổn-Nhứt, lý Chơn-Nguơn là đó.

Về Đạo-lý hay Đạo người, Đạo-đức đồng phải có ba, Nhứt-Tiểu Thời-Kỳ Thầy dạy thể con Mắt, Trí tả kỳ Dương, Tín hữu kỳ Âm, chiêm ngưỡng giác định. Đó là mới khai nên phải dùng Ngôi-Hai Thể, Lý qui Âm, Dương hiệp nhứt hoát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa chủ ư kỳ Đạo.

Gọi Thần-Mục Quang-Minh Tợ Điển là vậy đó.

Lần lần Cơ chuyển Lý khai, Đạo tròn Lý mở, Đức Chí-Tôn truyền dạy “TÂM-NHÃN”, là tượng thể con mắt, bề trong không chơn mày, không lông nheo, Tâm định nhãn quang, tinh thần tâm trí Vô-Vi nhi-trị tâm phàm. Đó là Trung-Thiên, gọi Không hòa Hư, lý Vô-Cực, Tánh giác Tâm, Tâm trị Tánh, Hậu-Thiên Nhơn-Đạo là đó. Chuyển đến Tam-Tiểu, gọi lý Tiên-Thiên, là Nhãn Thị Chủ Tâm, Tam-Lương hòa nhứt. Người Ta, Đất, Trời, Đạo-Đức một ngôi, một lời, một thể, chiêm tồn, ngưỡng tín, định chơn là đó. Xem thấy tâm định làm y, gọi Nhãn là Tâm, Tâm ấy là Trời, Thiệt gọi Tinh, Tinh là Thần, Thần Thiệt là Lý. Lý là Trời, chỗ sáng suốt tánh kỳ quang, gọi phân minh, chủ đó gọi Trời.

Còn tượng trưng năm màu, lý chiêm ngưỡng răn trị năm tà nơi lòng, trở lại năm lành; Tâm, Tánh, Ý, Mắt, Tai trở nên chí mỹ. Thân thể xây nền chánh nghiệp, là chí thiện, sự vật là có. Phải xem thể có đó gọi phong anh, mây cảnh, sửa đen về đến trắng. Lưỡng đó gọi mây lành, lý là chánh nghiệp của Đạo-Người, là thể vậy đó. Chánh thể, thể nghĩa vẽ đồ lý chánh tượng trưng, chiêm tâm ngưỡng hành chánh, chánh hòa thể thân trở lại tồn chơn là Chơn-Lý. Chơn hữu lý, lý khai chơn do xem xét, biết, hay đều gồm lại chơn, rồi hành chánh, gọi người chánh thể. Ta Chơn-nguơn gồm Chơn-giác, gọi Chơn-thần bình Chơn-đạo, Cảm-ứng hòa Trung-dung, Công-bình tri giác ấy là Đạo. Đạo do tâm, tâm tri giác, gọi xem lý xét phận lý hiệp gọi gồm khai Nhãn-Tâm Chơn-Lý là đó.

Chào Nam-Công Hỏa-Đức, Cửu-Tý Thiên-Chơn, bài nầy đọc sau giờ Đạo-Tràng nơi Diệu-Linh-Đền đây đặng nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật. Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Dạy chỉ lý thiệt, nguồn chơn, thông tri ngôi vị

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 19 tháng 3 Mậu-Tuất 1958 (6 giờ chiều.

---------o0o---------

HUỆ-ĐĂNG CỔ-PHẬT
CHƯỞNG-GIÁO ĐẠI-THIÊN-TÔN

THI

HUỆ điển rọi đêm đặng phá mù
ĐĂNG tường chiếu diệu lý Xuân Thu
CỔ Kim hồi hướng hòa tâm lý
PHẬT độ đời mê nhớ phận tu.

Bổn-Sư mừng chư Đệ-tử trong lớp học Cao-Huấn hiện giờ chung vẹn đồng đây, định-tâm nghe Bổn-Sư dạy chỉ lý thiệt, nguồn chơn, thông tri ngôi vị, dễ bề tín ngưỡng tỉnh tâm đó Đệ-tử.

Ngôi vị phụng thờ là lý tượng trưng, thể dụng hiện hành, hốt-chiêm ngưỡng sự trí-tri. Khuôn đèn Thập-Ngũ Linh-Đăng, 5 tấc tam giác. Đây là Tam-Ngũ huờn nguyên, khuôn thành mẫu hiệp vận hành, 15 ngọn đèn:

1. Là Nhứt-Cực Huyền-Quang.
2. Lưỡng-Nghi Nhị-khí Âm Dương chiếu diệu.
3. Là kế Tam-Tài thuận nghĩa hòa tinh.
4. Là kế Tứ-qui Bửu-định.
5. Kế Ngũ-Hành lưu thông vận chuyển Thiên-lý ứng hành, sanh sanh hóa hóa, qui nhứt là Càn Khôn võ-trụ phẩm-nghi. Trong số năm chấm điểm Trung-Ương là Trung-bình, Chí-công, Chí-chánh, lý Khai-Thiên là Tam-Ngũ thanh phù.

+ Nhứt-Ngũ là:

1. Huyền-Linh.
2. Khí-Quang.
3. Huyền-Quang.
4. Hoàng-Yên.
5. Huỳnh-Quang.

Hoàn trung Hư-vô Bí-diệu, trược phù.

+ Nhị-Ngũ Tịch-Địa là:

1. Hóa Trí Tri Nhơn.
2. Hóa Dục Nan Vật.
3. Hóa Thân Kiện Cảnh.
4. Hóa Thủy Thành Sơn.
5. Hóa Súc Tượng Cầm, du hành vạn loại.

+ Tam-Ngũ là Đạo-Chơn:

1. Nhơn hòa Hậu.
2. Lý hòaThể.
3. Thân hòa Phận.
4. Diêm hòa Phù, gọi Hồn hòa Xác.
5. Trí hòa Tín, gọi Đạo hòa Đức.

Lý hằng tâm, tượng khai chiêm-ngưỡng là đó.

Chung qui Nhứt-Cực Sanh; Âm-Dương Hóa; Tam-Tài Thông; Tứ-Tượng Định; Ngũ-Hành Lưu là: Sanh, Hóa, Thông, Định, Lưu. Từ-Bi Sanh; Bác-Ái Hóa; Công-Bình Thông; Trung-Thứ Định; Cảm-Ứng Lưu. Hòa Khí-thanh, thành Thanh-khí. Lý là: Nguơn-Hanh hòa Nhơn-Hậu, Càn thuận Thiên, Lợi-Trinh hòa Nghĩa-Đức. Khôn trí Địa, Lễ thuận Trí, đạt Tín-Quang. Gọi là Hư-Vô Vô-Cực, Huyền-Cực, Trời che, Đất chở, Người thương là đó. Chí-Công là Nhơn-Từ, Chí-Chánh là Hạnh-Khiêm, gọi Công-bình ngay thẳng hòa nguyên là đắc nhứt đó.

Về Đông Liên-Hoa, Tây Tựu-Lý, gọi đắc quả, tượng lý Công-bình, trưởng dưỡng tinh-thần, tâm quang quảng huệ gọi tâm phát huệ chiếu rọi màn u, tượng trưng lý sáng, thấu luật Công-bình, vẹn phận mới đắc quả. Liên-Hoa gọi Chơn-Thể Trung Thiên vị lập, Đèn màu Xanh tượng lý Anh-Hồn Chơn-Nguơn Ly trấn; đèn màu Đỏ thể Thần Chơn-Hồn, quảng đại kỳ Nhơn, vị dụng nguyên do thể chơn nguyên thể đó.

Đèn Ngũ-Lý là: trước màu Đỏ, Tâm hòa Đạo kỳ Thiên, gọi Tiên-giác; sau màu Đen, Tánh hòa Đức kỳ Địa, gọi Hậu-cố chánh chơn; Đông màu Xanh Nhãn thuận kỳ Cang, tương hiệp trí-tri; Tây màu Trắng Mũi trị tà kỳ Phế, hòa Tín, Nghĩa; Tứ-Phối hoàn trung kỳ lương đạt, ý vị tường vân, Huỳnh khai tường Thiên Đạo, Tiên minh kỳ Thỉ-thủ, hoàn trí chung thành Đệ-tử gọi Khuôn-Mẫu, Củ-Qui, Khai-Thiên, Tịch-Địa, Diệu-Huệ, Tinh duy, Chơn-Pháp, Tam-Hoàng đó vậy.

THI

Khai-Thiên, Tịch-Địa thống Nhơn-Hòa
Tam-Ngũ hoàn trung Diệu luật ca
Trích yếu Tam-tam, Tam-thập-lục
Địa-cầu Thập-ốc, Thất-nhì đa.

MƯU Đệ-tử, bài nầy đọc sau giờ Đạo-Tràng Cao-Huấn đặng chung nhau trong lớp học nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung rồi nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật, bài lớp học đây gọi hiện đây.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

NGŨ-LUÂN

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 4 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (8 giờ tối)

-------o0o-------

NỮ-OA KIÊM-MẪU Giáng-Đàn.

THI

NỮ lưu tu niệm vẹn về lành
OA phận thể sen rạng Thánh-danh
KIÊM trạch bạch quang thông Phật-vị
MẪU-khuôn tri giác đắc viên thành.

Mừng mỗi con hiện nay chung lớp học Cao-Cấp nơi Liên-Điện, đặng Lịnh Thiên-Tiêu ban lý mở lớp học tập giác thân phụng giáo. Kiêm-Mẫu đáng mừng thay! Vậy chung nhau con cả định-tâm nghe Mẹ ban cho hai chữ “Ngũ-Luân” đây mỗi con.

Ngũ-Luân là năm mối:

1.- là Kỷ-Cương Phong-Hóa.
2.- là Phụ Tử gọi Cha Con.
3.- là Phu Phụ gọi Chồng Vợ.
4.- là Huynh Đệ gọi Anh Em.
5.- là Bằng Hữu gọi Bậu Bạn.

Nghĩa là: Kỷ Phong phải thanh trọn Sáng; Cương Hóa trọn chánh đến Ngay, trên dưới vẹn hòa, thì vẹn gìn Nhơn-hậu, hằng định vẹn lành, lý gọi nền thể Mối thông bọc đùm Giềng xét.

- Về Cha Con nghĩa là Xuôi Thuận. Cha trọn Lành Mối của Con; Con trọn Thảo Giềng của Cha. Vẹn vậy là thường Nghĩa, đó là Đạo.

- Chồng Vợ nghĩa là Kỉnh Mến lý là tân lễ. Chồng trọn Mến Mối của Vợ; Vợ trọn Kỉnh gọi Giềng của Chồng, là thông tân lễ phúc đáp vinh quang là Đạo.

- Anh Em nghĩa là Thuận Nhượng, lý là tường trí. Anh vẹn Thuận Mối dìu dẫn đoàn Em; Em trọn Nhường nương cậy đoàn Anh, gọi Giềng của Anh. Lý gọi tường Trí, vẹn đó là Đạo vậy.

- Bậu Bạn là Tri Âm, lý là Tín-Định. Đồng tri âm gọi tương thân; định xét nhau đừng xa chữ Tín, gọi Giềng Mối tương giao, Lý là Bằng-Hữu, nghĩa đồng thời hòa nhứt giao liên, gọi là Đạo.

Đạo người gìn đây cho trọn, dầu Nam Nữ thường hành. Trời ban Năm-phước hiện hữu, thì phận người khỏi phạm năm điều răn đó trẻ. Gọi trước mắt xem Luật-điều, Tâm trung gìn giữ phận, thì Thân Thể Tánh Tâm đều không phạm, Đạo gọi Ngũ-uẩn Giai-không. Ấy là phương tiện Thần Tiên tạ thế đó mỗi con.

Giờ học hỏi trước đây, mỗi con định nghe Mẹ ban dạy đôi lời, gìn đây gọi là Thánh-Luật Thiên ban, Tâm trung bất lụy, gọi Nữ-sĩ thượng hành, Tiên ban hiện hữu đó.

THI

Bớ con chung cả phận Tài-nhơn
Nữ thiện Đạo thông trỗi Dữ-chơn
Thống lý Mẹ bày rành Hướng-đạo
Năm-châu thế thái thấu Cao-sơn.

Chào Nam-Công Hỏa-Đức, bài nầy Thiên-Chơn đọc trước giờ Đạo-Tràng Nữ-Oa Liên-Điện lớp học Cao-Cấp nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra đặng nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

THUẦN-MỸ

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 4 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 - 8 giờ tối.

-------o0o-------

THỂ-LIÊN TIÊN-NỮ Giáng-Đàn.

THI

THỂ thân trong sạch Đức hòa Nhơn
LIÊN Điện hương cao ý rạng Chơn
TIÊN định qui-y tường hậu nghĩa
NỮ lưu em hỡi chí keo sơn.

Bổn-Cô mừng chung mỗi em hiện hành trong lớp học vừa rồi, hãy định-tâm nghe Chị ban dạy hai chữ “THUẦN-MỸ” đây mà học hỏi hành y, vẹn đến Nữ-lưu Minh-đức.

Em hỡi, Thuần nghĩa là ròng, Mỹ nghĩa là tốt. Mỗi em muốn tu hành đến nơi tốt tươi ròng sáng, phải gìn giữ Ngũ-quang, gọi Phong-thuần, Tam-nhơn gọi Tục-mỹ, mới thông suốt đương đông, đường lành Nhơn Đức Lý Tân-dân, Thiên-Hoàng khải Lý, Tý khai Nguơn-Hội nữ kiện toàn thanh đó. Ngũ-quang nghĩa Ngũ-thông trừ Ngũ-tặc, Lương minh Hạnh hiếu vị Chơn, gọi tri ân thọ đáp.

1.- Thiên-Ân sanh phúc Ngã, Ngã giác Tâm qui thạnh đáp Cao-Sùng.

Nghĩa là : Đạo làm người hữu linh là biết xét, biết thương, biết nhẫn, dung xá nghĩ tưởng lý Người hiệp Ta gọi Xác vẹn Hồn, Hồn chủ Xác, định Hồn vi chủ, gọi là Ta ấy là: Ơn Trời sanh ta, tượng lý che ta, ta xét phận ta tự tỉnh, thức thiệt, mới nhiều lo bồi đáp chớ quên, vì ơn Trời cao sùng vô cùng tận.

2.- Phụ-Ân sanh Ngã, Ngã giác Tâm qui, thạnh đáp Thinh-Sùng.

Nghĩa là: Ơn Cha ta sanh xác ta, ta xét biết phận sự tỉnh tâm, vẹn mới đừng nguôi, gọi không phui pha, nhiều lo bồi đáp ơn rộng của Cha ta. Vậy vẹn lành Đạo làm con đó.

3.- Mẫu-Ân cúc-dục Ngã, Ngã giác Tâm qui, thạnh đáp Trường-Sùng.

Nghĩa là: Ơn Mẹ ta đẻ xác ta, rồi nuôi ta, ta xét tâm ta hằng lo đừng để lợt lạt, nhiều lo bồi đáp ơn dày của Mẹ ta, mới trọn phận Đạo người làm con chẳng hổ đó.

4.- Sư-Ân giáo phủ Ngã, Ngã giác Tâm-qui, thạnh đáp Đức-Sùng.

Nghĩa là: Ơn Thầy ta dạy bảo, vỗ về cho ta, ta xét mới lòng nhiều lo bồi đáp đức rạng công Thầy, Tâm thờ Tánh thệ. Vẹn đó mới nên phận người tu, chẳng thiếu phận đó.

5.- Kỷ-Cương Ân-trì cố Ngã, Ngã giác Tâm-qui, thạnh đáp Trí-Lập.

Nghĩa là: Mối-giềng đất nước gìn giữ, trật tự săn sóc, chăm nom khuyên bảo ta, ta xét phận ta, nơi tâm đừng vong phản ơn ấy, nhiều lo đền đáp nghĩa sâu. Vậy mới Đạo người tri quang thắng vạn vật đó.

Năm sáng nầy gồm Năm Lý gọi Năm Lành, biết Năm Mối ròng thanh, thân thể chung Tâm phận đó.

Tam-Nhơn là Mỹ-Tục:

1.- là Chánh-Nhơn gọi là Tâm trí kỳ Nhơn, nghĩa là: Đạo người phải vẹn ngay thẳng, muôn sự lý đồng ngay. Ăn, nói, đi, đứng, nằm, ngồi, định nghiệp đồng ngay, gọi là Nhơn-Đức Thánh-Đạo là đó.

2.- là Chơn-Nhơn Lý Tiên-Nhơn, nghĩa là: Đạo người tròn Thiệt, Lý cảm-ứng đồng Thiên, muôn điều cơn hành phận đồng Thiệt, Lý Định, Phán, Thâu, Vãng, Chấp, Di, Hoằng, Hóa, Tế, Trị đều Thiệt, gọi Nguyên-Nhơn Tiên khí, ứng cảm tri Chơn kỳ Đạo là đó.

3.- là Thiên-Nhơn gọi Lương Nhơn tri Mạng, nghĩa là: Đạo người vẹn giác thấu thế hệ nguyên do, mà xử đáng. Ấy là người vẹn thọ mạng vận của Trời ban, muôn điều định-tâm rõ Trời là chủ, không bôi bạc mạng mình, không sái cơ vận lý Trời Đất, gọi Thượng-lưu, gồm ba bực: Thượng-lưu là Chí-thiện, Quân-tử là Chí-mỹ, Trượng-phu là Chí-chơn. Đạo người vẹn đó là Mỹ-tục, nghĩa là phận người phạm luật đọa đến cõi trần ai diêm phù bất quảng đều có tội nên phải đọa trần, nên gọi là hang sâu, bị máy Luân-hồi vay trả. Đó là màn Vô-minh che mất Tánh Trời ban phú, chỉ biết có Tánh-phàm là ham muốn, Tâm-tục chuộng rực rằn, vật chất, Ý-mê quyền thế sang trọng theo đời là dị đoan chướng ngại. Người tri Đạo người, gọi người biết người, là linh hơn muôn loại, vén màn vô-minh, tránh xa hủ tục giả tài, là người vẹn tốt, là người mang xác ở nơi Đời, là hang sâu không cửa, lò lửa lẫy lừng, vẹn giữ Ba Thiệt gọi Tam-chơn, đó tròn Mỹ-tục là vậy. Đặng vậy là Thuần-mỹ, gọi Ròng Tốt là đó.

THI

Nữ-lưu mang xác phải kiền-thiền
Ở tục lòng thanh gọi thạnh giềng
Rặc Tốt thiệt Ròng tường Tám Báu
Ba Lành, Năm Phải đặng huờn Nguyên.

Chào Nam-Công Hỏa-Đức, bài nầy đọc sau giờ Đạo-Tràng Cao-Cấp Nữ-Oa Liên-Điện, rồi giao Chưởng-Quản in ra đặng nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Học xét lý trấn tỉnh tâm thần, y tuân Thiên-lịnh, trỗi bước kịp thời Đạo-đồng tế thế, cứu Linh khỏi nơi sa đọa đó mỗi con

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ sáng.

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC Lịnh ban lời gọi đức danh
HOÀNG Thiên chẳng phụ phận tâm thành
ĐẠI ân phong thưởng người trung hậu
ĐẾ-Khuyết dựng gầy chỉnh mối manh.

THU, con định-tâm nghe Thầy ban dạy.

Hiện giờ cơ Đạo huờn Nguyên, Đạo-đồng Thống-nhứt, Thầy định gồm thâu đủ Tam-Hồn về một là xá ân ban lời Giác-thế, mở Lý khải Hồng-ân, ban xá tội cho phàm gian, lập Tam-Tông dựng gầy cơ thể nền Nhơn, qui Tam-Bửu, chỉnh đốn lập đời thới thanh Đạo-đức đó con. Phận con là một đứa con yêu dấu mến thương nơi Cửu-Tiêu lâm hạ, Lý ký Thủy-Triều Hanh-Thông đó trẻ.

Vậy con nhìn Lý xét mình, ký tế cùng Hỏa-Đức Thiên-Chơn, khải thông vận mạng thiện từ cho phàm gian, đem Đạo-đức gieo truyền, lập nền nhơn Trung-Thiên Thánh-cuộc đó con.

Về tinh thần phò giác Tri-quang, Bổn-nguyên truyền thấu, trong buổi Cửu-Tý Bỉnh-lý Luật ban. Đây là đầu mối dây của Đại-Đạo dựng thành Sơ-lý đó con.

Về Tam-Hồn của Đại-Đạo là lý huợt bác nguyên do, ấy là Linh-Hồn trí kỷ; Anh-Hồn hộ Chơn, tả thông thanh; Thần-Hồn khai Cửu-Dật, hộ hữu chánh huờn bạch, Tam-Hồn Qui-nhứt, Linh-Hồn thông thệ Tam-giới liên kỳ. Ngôi là Thần-Hồn, Bổn là Linh-Hồn, Giác là Anh-Hồn, gom lại Ngôi Bổn-Giác tự tay Thầy, Linh-Hồn cầm Thiên-Vận, Ngôi Bổn-Giác chủ Tam-Hồn là vậy. Phép tu hành nguồn Đạo-đức chung qui căn cũ; Thể, Lý, Tánh, Tâm, Thân, Ý, Âm, Dương, Phủ, Tạng, Động, Tịnh, Hay, Biết đồng Qui-nhứt. Bổn là Phật Tâm gọi là nhứt Phật. Phận người tu gồm Lý Ba, Thuận Thiên dưng tấc lòng thành, trí-tri cách-vật, Cảm-Ứng Huyền-Linh, Mầu-cơ thông hiển, Thái-Cực tượng lý Từ-bi, chạm dạ Bác-ái, thuận thời Công-bình Tánh quảng; Đó là Tam-tề hiệp lương, nhứt định siêu tăng, là gồm lý Tam-Thanh; duy duy Tam-Bửu đó con. Muôn điều thoát tục trược là Phật gọi Nhứt-huệ, Tam-độc diệt trừ, Tam-thông hiển hiện, Tam-giác ngô thân, Tam-kỳ thức thiệt. Đó là Tiên-giác đó con.

Vậy phận tu gìn Lý Bổn-nguyên là Đạo. Đạo vô hình nhưng hữu dụng là học lý tri lý, phải nhìn thể xét lòng Trí-tri Minh-đức là đó, gọi Đạo Tân-dân cảm giác, Đức hóa thiện từ, dụng tướng khả vĩ Đạo vi duy, diệt mỵ ly tướng trược, tha Chúng-sanh tướng, hòa Tứ-chơn là nguyên do kỳ định. Tam-nhứt là Ba-một thọ Càn, thế Thiên giác thế độ Linh là: Che, Chở, Thương, Mến, Nhẫn, Nhiêu, Dung, Thứ, tỉnh tâm thoát tục, gọi trong nhứt định Lý, Thể tương tề tâm tỉnh trị biệt, Âm thanh, Dương hòa, Tam-huê tường tri, Tam-ngũ là chủ Kiền Khôn, Tam-Hồn Qui-nhứt là đó. Tam-Tông Khôn thể Hồn khuôn, Tông mẫu, khuôn mẫu nối liền mẫu khuôn hòa thuận. Tam-Tông là hình thể trợ kỳ cho Tam-Hồn, gọi là Hồn Xác là đó. Tam-Tông lý Tam-tam tri chơn chánh, lý tả qui, hữu cũ là ngôi Khôn, Càn tượng. Muốn cho thành Đạo, Càn Khôn phải hiệp nhứt, Tâm hữu minh trưng, phải lập Luật mới Bình-Linh võ trụ đặng. Luật Trời dò định thành lập Thượng-Nguơn, nêu Tam-Hồn qui hiệp Đại-Đạo khai hoằng, Tam-Tông ứng hiện, Thống-nhứt Kỷ-Cương đồng thông thuận thời Tam-Bửu trắng trong, là Qui-nguyên Tứ-Thánh đó con.

THI

Mừng THU lao khổ trẻ bền gan
Muôn đắng ngàn cay vẹn chẳng phàn
Thành lập Đạo-đồng che vạn loại
Giáo nhơn tu niệm vững chơn thoàn.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Vô-Vi Diệu-Lý khai mở tinh-thần, chung đây con cả nghe chung định học xét lý trấn tỉnh tâm thần, y tuân Thiên-lịnh, trỗi bước kịp thời Đạo-đồng tế thế, cứu Linh khỏi nơi sa đọa đó mỗi con. Đọc rồi giao lại Chưởng-Quản in ra.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung. Bài nầy nêu vào Thánh-Luật.

(Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Tam-Thập Lục-Thánh Thanh Hòa Nhứt

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 9 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (9 giờ sáng)

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC báu trắng trong trẻ hỡi nầy
HOÀNG đồ gầy dựng lý tường thay
ĐẠI ân con hỡi tròn Tâm-lý
ĐẾ phận Trời trao thống hiệp đây.

NGỌC, con nghe Thầy dạy; Đầu đề khó nhọc, hiểu phận lành tăng, Đạo-đức trang bằng, Vô-Vi ứng cảm, thanh tường cơ hội, Trung Lý hoằng chơn, chí dốc chẳng sờn, tâm thành đáo vận, Nền Nhơn hậu cố, thế-giái siêu tồn, Công-đức chánh minh đó trẻ.

Nầy con NGỌC, Tam-Hoàng khai dựng, Thánh-Đức hiện hành, muôn Linh tắm gội ân Trời. Vậy con định-tâm nghe Thầy dạy chỉ nền nhơn Thánh-cuộc đây con trẻ.

Nền Nhơn thâu Vạn-lý giáo thiện muôn Linh, Thánh-cuộc siêu tồn, Vô-Vi Thánh-Luật, tri giác tâm trung, tánh phàm dứt hẳn, Thanh Thánh hiện thì, Khai-Thiên Tịch-Địa do Trời vi chủ. Tam-nhứt, Tam-tam, Tam-thập-lục, lý Càn Khôn hiệp nhứt mẫu khuôn tượng hành, Càn xuất Dương khai Diệu-Lý thạnh thành, Qui-nguyên Giáo-lý là đó. Đạo-Dụng, Tướng, Chơn; trừ lêu lổng lập Chơn dung, dụng thể Chơn trừ giả thể, gọi tường Chánh-Thể; gìn Đạo-Dụng khử dẹp Si, bền Nguyên do Tâm-lý gọi Đạo-tâm, đổi lý trí phi thố phỉnh phờ, đặng vậy đắc thành Đức hậu, Nhơn hòa, Tam-thập-lục thanh, Thánh-Cơ hoát khởi là:

1. Thánh-Cuộc.
2. Thánh-Công.
3. Thánh-Địa.
4. Thánh-Tâm.
5. Thánh-Tánh.
6. Thánh-Ý.
7. Thánh-Thân.
8. Thánh-Thể.
9. Thánh-Ngôn.
10. Trọn gìn Thánh-Giáo.
11. Thông Thánh-Lý.
12. Thánh-Nghiệp.
13. Thánh-Đức.
14. Thánh-Khán thành nhãn.
15. Thánh-Tri nguyên vận mạng.
16. Thánh Từ thiện niệm lưu giác hậu.
17. Thánh-Minh đồ kiên cố Thiên-mạng.
18. Thánh-Học Đạo bất hoặc.
19. Thánh-Trí quãng liêu.
20. Thánh-Cơ thanh lập.
21. Thánh-Tín tồn tâm.
22. Thánh-Ư tin nhứt.
23. Thánh Nhiên hạo tế thế.
24. Thánh Kỷ tri Cang.
25. Thánh Qui củ hiệu.
26. Thánh Nhơn chơn nghĩa.
27. Thánh Húy giác tâm.
28. Thánh-Đạo phá mê.
29. Thánh-Nguơn Đức trọn.
30. Thánh Triêu Tịch kỳ thọ.
31. Thánh Thuần huờn vô.
32. Thánh Sản tăng nhân.
33. Thánh Tôn thọ nghiêm.
34. Thánh Thỉ chung qui.
35. Thánh Thường thân Đạo.
36. Thánh Vật tường tinh.

Vậy giờ nầy Tam-qui Tâm-lý, vẹn giữ tôn nghiêm chung phận đó NGỌC con. Vậy phận con vẹn gìn lần lần trỗi lý đây con trẻ.

THI

NGỌC trẻ an gìn lý quảng bao
Vẹn lành Tâm-lý Đạo càng cao
Thánh thanh Trung Địa thành Thiên-Quốc
Đó phận con gìn thấu nghĩa sau.

MƯU, bài nầy con đọc sau giờ Đạo-Tràng nơi Vô-Vi Cảnh đây, đặng trong đây chung mỗi trẻ nghe chung đó gọi học hành rõ Tam-Thập Lục-Thánh Thanh Hòa Nhứt, mỗi con vẹn đó là Thánh đó mỗi con. Đọc rồi giao lại Chưởng-Quản in ra.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung. Bài nầy nêu vào Thánh-Luật cho rạng rỡ thanh danh công tâm tri giác thượng hành lưu hậu đó mỗi con.

(Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Mối Huyền-Linh, Cơ-quang Thầy lập Đạo

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 12 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (11 giờ khuya)

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC là Khí tượng ánh Hoàn-cầu
HOÀNG Lịnh chủ quyền Thái-Cực thâu
ĐẠI hóa hoán sanh tri diệt khắc
ĐẾ Tiên Huyền-bí diệu mầu đâu.

THẦY mừng thay con HƯƠNG định tâm nghe Thầy ban ơn chấm điểm phận, ban Lý dạy truyền đây trẻ.

Vậy con khá tuân y thừa hành phận sự, xá thế tục, thâu Hạo-khí, trí thể châu rạng ngài. Thầy thâu truyền công dụng đây con trẻ. Giờ nầy con định-tâm nghe Thầy chỉ rõ mối Huyền-Linh, Cơ-quang Thầy lập Đạo đó con.

1.- là năm Giáp-Tý, Thầy dạy Thần-quang Diệu-trí, khai hóa Thiên-thời, Đạo Trời mở vận huy hoàng điểm đích, Lý gọi Hà-trược, cảm thượng kỳ ứng khai khuôn mở mẫu. Tứ-Thánh đắc Lịnh Thượng-Tiêu, đồng qui Giác-thế, gọi Giáng-hạ, thể gọi Mộng-Thần, thể gọi Hào cảm Quang-truyền Thần-Ứng. Đây là Tiên-tịch gọi Thiên khai ư Tý.

Sang năm Ất-Sửu 1925 Khí hóa tượng Hồn chỉnh đốn Lợi Trinh, Nguơn Hanh còn tỏ, huờn đáo Hậu-Thiên, tiền đồ Giác-thế, hueäđđiển ứng tâm, Tâm Thần chỉnh đốn, Đàn-nội tượng Hồn, Hóa-dục Quần-sanh là Địa-Hoàng tương hội.

Đến Bính-Dần cơ Nhơn khải Lý hoàng vi gọi Nhơn-Hoàng lập cơ Phổ-Độ. Phật, Tiên, Thánh, Thần, hộ trì Linh-Tiêu, chính mình Thái-Cực lâm Đàn, xá ân vạn loại, gầy dựng Đạo-mầu, qui Quần-linh Đại Ân-xá, dùng Cực-linh điển huệ, thâu Thập-Nhị Thời-Quân, ban trao ngày Trời đêm Đất; gọi Sanh, Hóa tháng lịnh, gọi Thánh-Linh thanh hội lập Hội-Thánh, chính Cực-Tiêu chiếu điển, bày khuôn khai mẫu thống ngự Tam-giái là Ân-xá con hiền, Oai-trị nghịch-tử, khải Kim-Khuyết, Ứng-diệu Diệu-điển Quang-huy Bạch-Ngọc-Kinh, hào quang huy huy Tứ-giáo, Cơ xây Vận trở thành lập Thượng-qui Thái-Cực Vi-Hoàng, Cao-Đài Danh-hiệu, Trời Đất rộng thinh, cửa Trời khai mở chánh cang trung. Từ cuối Hạ-Nguơn, loài người cùng cạn Đạo-đức, vật chất đầy tràn, bổn chất tiêu tan, vô minh bít phủ. Vì đó, trên mặt đất nầy khí sáng tiêu tan, trược độc xung Thiên; rồi động Thanh-vân dội Sấm, khí trược đó tiêu hoại, thì trên võ trụ nầy phải tan rã. Vì Đấng Cha Lành Háo-sanh Vô-diệt, chính là Cha cả Thiêng-Liêng không lẽ để nhìn con chung bị tiêu diệt, nên dùng Tam-Hoàng Bổn-lý Giác-tâm, Thần thanh Sấm-trược, qui Tam-giáo, Tứ-Thánh, Sắc-lịnh ban phê, sai chung Môn-đệ lâm trần, hộ kỳ Quảng-Huệ, luật Trời Đại Ân-xá phàm gian, mở khai Đại-Đạo, tượng trưng luật Công-bình diệt tục mù, thâu chơn chánh, thuần mỹ Thể, Vật, Pháp, Lý Tâm-Linh; nhìn hào quang của Chư-Phật, Chư-Tiên gồm vào mối một, tượng khí Huyền-Quang, ứng Huyền-Linh, sửa đoan võ trụ. Phật, Tiên, Thánh, Thần đồng nhau vưng Lịnh Trời lập công cứu thế; tri Cơ-quang, lập Bí-khuyết, khải Bỉ-thương, nên dụng nhiều Huyền-cực Hư-vô, khai Huyền-quang trăm mối, truyền lý muôn ngàn, cơ phán tán lập công, Đa-na đẳng là vậy. Vì đó cơ thể chỉnh đoan nhiều Chi, nhiều Phái, đặng nhiều lời dạy bảo cho phàm gian là đó. Vì phàm gian nhiều bịnh độc ác cãi Trời nên Thiêng-Liêng dụng nhiều Lương-huệ đặng cứu, cho nên đến năm Mậu-Thìn 1928 cơ Đạo mở khai Tứ-giáo, mỗi ai truyền Môn-pháp, nhưng kỳ trung Chánh-kỷ do Trời Cha vi Chủ.

Đến năm Canh-Ngọ 1930 cơ phân tán lan tràn, cơ Trời hoàn khuôn, trí mẫu, chiếu điển trí vị Lý-chơn, sai Tứ-triệt hộ kỳ, hộ Thất-Thánh thi công, phân Tam-Giang khuôn mẫu. Đó là thể đồ cơ Đạo trí-tri Minh-đức, Đại-Thành Bổn-Nhứt thời đây, vần xây chẳng ngớt, tấn hóa phổ thông, đua công hiến đức, háo chí Thánh khai tâm.

Đến năm Mậu-Dần 1938, Thầy chỉnh lập Đại-hội Công-đồng, triệu Tứ-Giáo, Ngũ-Chi về Linh-Tiêu ban Sắc-lịnh thi trường Phán-Đoán Đại-Đồng, cân phân phước tội, Thất-Hiền bỏ xác, ứng chực triều Thiên thiểu phần đăng vị, là khí Hậu-Thiên còn mến cư trần tâm nhiễm. Nên đến Hội Long-Hoa phán đoán kiếp Mậu-Dần trong Thất-Thánh, Thất-Hiền cũng còn thiểu quả. Cơ Nhứt-trí phán phân, gọi sấm tan mù tối, đổi Địa-cầu diệt trược huờn thanh. Lòng người từ đây thức tỉnh vẹn rồi còn sót lọt, Thầy cho Sa-tăng đoái tội lập công. Thầy liền Bình-phân Long-Lục sau chín năm phán xét, gọi Thập-ngũ dư bình, hòa thân thọ Đạo dụng Dương hoán Âm. Từ Mậu-Dần đến năm Quí-Tỵ, Lý cân phân, Thể thừa hành. Từ Ất-Dậu thưởng phạt răn. Đến Ất-Mùi cơ phạt răn, lý thưởng ban nhiệm kỳ của Hạ-Nguơn, Thiên-cơ liền khai Sơ lập, chuyển về Hào-sơ. Tam-thập đủ đầy, lập thành Sơ-hội, Thượng-Nguơn mở khiếu Thiên-La, trí quang Thiên-Đế, đổi Hổn qui Thiên-Lý Nguơn-Hanh, ứng vận trong Tam-Kỳ ba lần mười có Tam-tiểu Thời-kỳ ẩn trong, ứng chuyển Hạo-nhiên là ba mươi ba năm, nền Nhơn gầy dựng. Đến năm Bính-Thân, Công-bình khai Lý, tượng trưng Chí-công, Chí-chánh, Từ-bi, Chí-chơn, Chí-định, là tả hữu tương tề, Bác-ái là vô tà, vô tư. Đến năm Mậu-Tuất, Thầy tỏ lý Tam-Hồn qui nhứt của Thân, Dậu; Khai-bày rạng rỡ Tam-Tông, lập thành Chánh-thể, mở Huyền-cơ thâu Tam-Bửu, Âm Dương ký tế, ôn hòa lương hiệp, Hội-Thánh thành qui chơn chánh duy nhứt. Vẹn đây là Đạo-Thể, chơn-chánh rạng đồng. Tam-Hồn là Ngôi, Bổn, Giác; lý ứng Thần, Khí, Tinh; khải Tam-Tài, trí Tam-Tông là khai Thể, Lý Thập-Nhị Hoàng-Đồ, Tam-Quân thọ chủ Cơ-quang Đại-Đạo qui Bá-giáo là lý đó. Tam-thập-lục, Âm Dương hiệp nhứt là Thiên-Lý, Hội-Thánh vẹn tròn, vưng Thiên-Mạng hoằng khai lý nhiệm giáo huấn Chơn-hiền, do Thiên Chủ-Tể, Cao-Đài Thống-Nhứt Đại-Đạo Qui-Nguyên, Trung-Ương Thiên-Quốc, là Tam-thập-lục thừa Thiên, lương đồ duồng thiện, thới thanh Đời Đạo; trong đó đủ Thể, Lý, Dụng đồng Đạo Nguyên do, cơ Lý là đó. Nếu vẹn thành võ trụ phụng Thiên, là đến năm Tân-Sửu 1961 hoàng khí diệu hồng, Thiên Nhơn đồng trí dõng, Tinh kỳ Anh chất.

THI

CAO sâu mầu nhiệm lý Khôn thành
MINH mẫn tâm trung rõ lý thanh
HƯƠNG đượm Việt-Nam nơi Thánh-Cuộc
Vưng nghe lời giáo định tâm hành.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Thiên-Phong-Đường chung Hội-Thánh khải thủ đề qui của máy Trời truyền ban Đạo-lý, xây dựng Thượng-Nguơn, Tân-dân Minh-đức, thiện mỹ thể thân đó trẻ. Bài nầy giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật. Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Đạo-phục Tam-Hồn hữu thể, Chơn-tướng tượng trưng lý bạch

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 17 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (10 giờ tối.

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC báu Thầy trao Thợ khéo gìn
HOÀNG đồ khai mở phận Môn-tin
ĐẠI ân Võ-lộ Trời Nam-Thiệm
ĐẾ Đạo hoằng ban cứu thế bình.

THU, con định-tâm nghe Thầy ban dạy Đạo-phục Tam-Hồn hữu thể, Chơn-tướng tượng trưng lý bạch, học đây gìn phận xét mình rồi nêu vào Vô-Vi Thánh-Luật nối hậu mẫu khuôn, vẹn y Chánh-pháp, Diệu-lý Chơn-truyền đó trẻ.

THI

Tam-Hồn tỏ rạng Đạo nầy THU
Nam-Thiệm Bộ-Châu lý vén mù
Việt-Quốc Trung-Thiên Trời mở Hội
Đại-đồng Tín Thiện đáo Xuân Thu
Tín-tường Bổn-Thỉ thông liên ngoạn
Linh-Chủ trứ Nguơn Bổn giảng-thâu
Anh-Giác Thần-Ngôi tri huợt bác
Thông lương qui nhứt đắc tu du.

Đạo-Thể Linh-Hồn:

Đạo-Khôi là: Mão, lý gọi Thanh-Thiên Nguơn-Mạo. Mão nầy ngạch tiền, hậu đồng nhau; chánh tim 15 phân, tượng lý Tam-ngũ, uốn nguyệt, lý gọi Hạnh-qui; trên chót ngạch tiền tượng cung Càn, lý Trời Càn khải thông Thiên; Hậu trên chót tượng cung Khôn, lý gọi hậu kỳ thông trạch là Tịch-Địa, Diệu-Lý Thiên Địa Huyền-Hoàng hóa sanh vạn loại; có ảnh Thánh-Tâm kế gọi Nhãn-Tâm, tượng trưng Tâm-Huệ, lý kiến thị phế can; kế đó tiền đề chữ BỔN, lý gọi Tinh-Duy Bổn-Nhứt; hậu đề chữ GIÁC, lý gọi tri thức hậu tiền, Bổn-Nguyên giác trí; kế đó đề hàng chữ Nho:“PHỤNG THỪA NGỌC SẮC BỈNH HÀNH ĐẠI LỊNH DIỆU LÝ KHẢI THÔNG” gọi Ngôi Thiên-Chơn Cực-Điểm lâm phàm, là Hỏa-Đức Linh-Quang của vạn loại, là lý sáng muôn muôn vô cùng huy huệ, gọi thanh phương võ-trụ Tam-trùng Tàng-giái, lý gọi Tiên-Môn Càn-Cực, giá hạ lâm phàm, hoằng hóa lý êm dịu, gọi sanh hóa, du hành, tương quang bất tức, Nhứt-Cực vưng mạng Thiên-Tiêu Bí-Khuyết, cứu thế hoằng khai Diệu Huệ rọi vào màn u tối trở nên rỡ rỡ, tuân y Sắc-tứ Ngọc-Đế, Cha Trời. Từ Vô-Thỉ đến đây Linh-Diệu Cửu-Tý Thiên-Chơn mới lâm phàm một lần đây đặng cầm nắm cán cân thưởng lành phạt dữ, trong buổi Trời xây dựng Thượng-Sơ, truyền Đạo cứu Đời, thới thanh vị lập, nên gọi Con Một của Cha Cả Thiêng-Liêng, là Trời Chủ-Tể, nắm mối Chưởng-Quyền; khai manh huấn lý, vưng Đại-lịnh Bình-Linh phân đoán, đem lý sáng ban truyền phàm gian, gọi là độ Đời về Đạo-lý. 12 chữ nầy màu vàng, gắn vào ngạch Mão màu đỏ, lý gọi tâm huệ rọi Huỳnh-Trung, Huỳnh Huyền tương hội, xác sạch, tâm tỏ lý gọi chánh nghiệp, nhơn tuyền-miên đức. Khuôn Mão 12 giác màu đỏ, là Thập-nhị Khai-cơ, qui trung là giáo Tam-tài, Đời tỏ, lý khai tâm hữu cứu Quần-linh; Định Tam-Nguơn Đạo tri cảm, Giác Tam-đạt Nhơn ứng hòa, gắn 12 Thẻ vàng, trên Thẻ đề 12 chữ: “CÀN KHÔN ĐỊNH CHỈ THẾ GIÁI QUI HỒI HOẰNG KHAI CHƠN LÝ”. Trên thẻ gắn Nhãn-Tâm, chữ màu đỏ, lý là Huỳnh-tương ứng vận, do lý tượng chiêm, định-tâm quảng kiến, phế can bất mậu. Càn thay quyền Trời phân rõ Tam-tài Đạo-lý là Trời, Đất, Người hòa lương. Khôn Lục-Can, gọi Khôn thay quyền cho Đất, Lục-Can là Tam-Hồn; Lý Thể Thần, Anh, Linh, Thân, Nghiệp, Định, Càn Khôn hiệp nhứt; thuận hòa là khuôn mẫu, lý gọi sanh Lý-chơn, hóa Thể-chánh, định nhíp Âm Dương, gọi rõ thông lý sáng, thể tối vượng tâm, Công-bình chẳng lạc là lý đó. Thẻ cao 4 tấc, lý tri phẩm Tứ-quang: Biết, Hay, Xét, Định; tỏ tường Trời soi, Đất chứng, Người xét, Nghiệp thanh. Biết, Hay nhờ định mới rõ nguồn lành an sáng tỏ là đó. Lạc-Thần-Phong 9 tấc màu vàng, Cửu-tư thức thiệt, Chung-Thỉ mãn viên. Thẻ Hoằng-Khai hai bên thòng xuống, mỗi bên 6 tấc màu Tam-Thanh, Tiên-Thiên lý Thần, Khí, Tinh. Mỗi bên gắn chữ Nho, tròng vàng, chữ đỏ. Một bên trước mặt của Thẻ thọ “PHỤNG THỪA BÚT DIỆU TẾ THẾ ĐỘ LINH”, lý là phúc vị chơn Đông tường Thiên-lý, phụng Chỉ vưng Sắc thế Thiên Bỉnh-Bút Huệ-Tâm, Diệu-Tánh, cứu độ muôn Linh tròn câu Bổn-Giác, phắt dị chánh, Tây tường Địa-dục, Bổn lý điển thông Giác thế, hồi thủ trí Sơ, qui thượng khai Huỳnh, tượng Hoàng kiện Tâm, thông Thiên khải huyền, truyền ban nhiệm lý, là đem trọn nguồn lành chánh chơn giáo dục, thế sự tường tâm bất hoặc, tránh ra khỏi chỗ tối tăm mất lý, trở nên người sáng, rõ Trời thanh phương cao cả, sáng suốt vô cùng, vô tận; rõ Đất ơn nghĩa rất dày, lớn rộng bao la, khó lường vô tận, sáng suốt vô cùng, vô tận, rõ lý rồi định báo đáp, xứng ngôi tấn hóa tinh-thần, thông tri mạng vận là vậy đó. Giờ nầy chung mỗi con định-tâm nghe Thầy ban ơn dạy chỉ.

THI

Hồn khôn chủ sự cả Hoàn-cầu
Kêu bớ phàm gian gẫm lý sâu
Chớ tưởng thấp cao rồi vướng Luật
Muôn ngàn lý sáng giảng rồi thâu.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Cao-Huấn, đặng chung mỗi con nghe chung xét lý, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

-Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Tam-thập-lục Thánh, tuần ư định tuyết, thấu rõ tuần cơ

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 19 tháng 4 Mậu-Tuất 1958 (11 giờ khuya.

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC lành bền giữ gọi gìn trau
HOÀNG-Thượng điểm công trẻ một màu
ĐẠI-Đạo hoằng khai truyền Chánh-pháp
ĐẾ-Quân mỹ cập diệu Chơn cao.

NGỌC, con định-tâm vưng lời Thầy ban dạy, Tam-thập-lục Thánh, tuần ư định tuyết, thấu rõ tuần cơ đây trẻ.

THI

Chưởng-Quản Ngôi Cao gọi Thánh-Tòa
Thay Thầy xây dựng nghĩa duy gia
Ngọc-Kinh Cung Điện ròng thanh bạch
Bớ trẻ trau giồi Thánh-Cuộc đa.

1. Tòa-Thánh là: Tòa cao vọi tinh thần phát triển, Tòa thể hành u hiển tinh quang; phận con Chưởng-Quản vị cang, tinh thần tấn hóa ngàn vàng Đạo danh. Nầy Ngọc trẻ, định-tâm an lòng bước lẹ, nghe Thầy trao vui vẻ y hành, xứ Việt-Bang Tòa Ngọc thanh thanh, nơi Châu-Thiệm điềm lành ứng vận. Tòa hữu thể mối manh Thiên-lý, thâu tinh thần Nhơn ký Thiên-lương. Đây là Thầy dựng Trung-Ương, Tòa nêu danh sĩ hiền lương thuận hòa. Tòa là lý huy nga Cung Điện, Tòa Ngọc-Kinh điển tuyết khai Dương, tiền khai mối Đạo dọn đường, đó là tiền Đạo hậu nương chuyển Thần. Chiết cung Khảm nghĩa-phương dựng lại, qui về Trung thế giái Ngũ-chơn, Năm Chi qui hướng cao-sơn, đó rõ nầy NGỌC trẻ, Năm-châu ứng cảm nghĩa-nhơn Khôn hòa; lý tỏ Càn Nam ca tiếng Đạo, dưng tấc lòng Hóa-Tạo một ba. Đó là Tam-Giáo Thánh-Tòa, Đạo người thọ thọ vĩnh gia khúc cầm. Dựng Càn-cang cao thâm nghĩa lý, Khôn hiệp Càn, Càn ký Khôn thâu. Hiện đây Bác-ái Hoàn-cầu, hiện nay cơ hội giảng thâu Công-bình. Tòa lý thiệt phát minh thuần mỹ. Nầy NGỌC trẻ, Tòa cao siêu vạch hé Huyền-vi, gồm thâu Bát-bửu nhiệm kỳ, thới thanh Đời Đạo đồng qui chơn-truyền.

Nầy NGỌC con, Tòa là Lý, Thánh là Thanh, Ngôi cao tỏ rạng thanh khí tường tâm, thể đức không lầm, Lý-chơn tế thế.

2. Là Thánh: Thánh là lý thông minh sáng suốt, dẫn đường thông rọi đuốc phá u, nhìn tinh-thần quang Kỷ Cang tu, gọi Thánh-Cuộc Xuân Thu Trời lập. Trung tín kỷ vạn thù hòa nhứt, Ương bình hòa thậm cực cao siêu. Đó là giềng mối Cửu-Tiêu, cuộc đời Trời chuyển mến yêu chung bầu. Tòa ánh sáng nguy nga rỡ rỡ, Thánh thanh thanh rãnh nợ trần ai. Tòa Cao vạn tượng thông Đài, Thánh Trung-Dung-Thứ rạng ngài hoằng Chơn. Tòa cao vững chắc nền Nhơn, Thánh là cơ cuộc vờn vờn Càn tri. Trung-Ương Thánh-Cuộc Châu-nhi, Đại-đồng Huynh Đệ chung qui Đạo Trời. Đạo là xây dựng chỗ nơi; khai Dương Tướng, Thể, Dụng, Đạo Đời Nguyên do.

Nầy NGỌC con, Tòa ánh sáng huy hoàng, Thánh thanh phương-nghĩa, trung tâm võ-tru, cuộc tuần huờn lý, Tòa-Thánh Cao-Đài Trung-Ương Đại-Đạo, Thánh-Cuộc Thiệm-Châu.

THI

Tòa Ngôi Thánh vọi hiệu Cao-Đài
TrungƯơng bình đại xá đây
Đạo-Pháp cuộc qui Trời Chủ-Tể
Thiệm-Châu Thiên-Quốc Bỉnh-Linh nầy.

MƯU, bài nầy đọc sau giờ Đạo-Tràng đặng chung nhau lớp học Cao-Huấn nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra, rồi nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Lý diệu chơn duy thông chơn tri lý

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 6 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (8 giờ sáng.

-------o0o-------

NỮ-OA KIÊM-MẪU Giáng-Đàn.

THI

NỮ-Sĩ phô trương lý diệu hành
OA tươi năm sắc rạng thinh danh
KIÊM trong ngọc báu ròng chơn hạnh
MẪU Tử tao phùng Huệ-luật thanh.

Mừng chung mỗi con Nữ-phái hiện giờ đây, chung nhau Nam Nữ định tâm vưng lời Kiêm-Mẫu dạy truyền lý diệu chơn duy thông chơn tri lý đó mỗi con. Phận tu hành cấp cao gương mẫu thì vẹn chí hướng đồ, Đầu-Sư năm cung phải vẹn phận khải thông tánh chọn, chí kỉnh thừa hành, độ linh qui thiện; Viện-Trưởng thay thế cho Hội-Thánh chiêu đãi Sĩ Hiền, giác thế độ linh, dìu dẫn Nữ ban về đến Hạnh, Khiêm, Từ, Nhượng; Bốn-đức rạng Đông phương trương chánh nghĩa đó. Vẹn giữ Mười-lý đức hóa thanh phương gọi thay cho Mẹ độ quần linh đây chung con trẻ.

1. là : Chiêu-Đãi dụng Đạo tròn thanh Lễ-Độ.
2. là : Tín-Ngưỡng trọn chí Kỉnh-Thành.
3. là : Công-Quả trọn thủ Diệu-Hành.
4. là : Công-Trình trọn thấu Huyền-Vi.
5. là : Tịnh-Đàn trọn thông Trật-Tự.
6. là : Giao-Tiếp trọn hòa Thượng-Hạ.
7. là : Kỷ-Cương trọn thông Đạo-Đức.
8. là : Thuần-Chơn trọn Vô ngã Vi.
9. là : Pháp-Chánh trọn đắc Kiền-Thiền.
10. là : Lý-Nghĩa trọn Củ-Qui.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Nữ-Oa Cao-Cấp đặng trong đó nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Phận sự diệu hành thanh chơn về Đạo

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 7 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ sáng)

-------o0o-------

THỂ-LIÊN TIÊN-NỮ Giáng-Đàn.

THI

THỂ thanh cảnh vọi chiếu gương đời
LIÊN hiệp thỉ chung sáng khắp nơi
TIÊN tục khác nhau tâm khá chỉnh
NỮ lưu phẩm vị vẹn tâm thời.

Bổn-Cô mừng NHÂM Hiền-sĩ, chung mỗi em nơi Nữ-phái, hiện giờ định-tâm nghe Chị chỉ rõ phận sự diệu hành thanh chơn về Đạo đó mỗi em.

I. Đây về Đầu-Sư:

1. là về Đầu-Sư cung Bích: phận sự về Công-quả, Trọn-thủ Diệu-hành là sáng suốt, gọi giúp Trời dìu dẫn đoàn em, lập Công-quả trừ tội xưa, gầy nên Đạo, Thể, Tướng, Dụng; vì trong cõi trần ai là nơi trường-thi Công-đức, ai muốn rảnh tội thanh lòng dứt trược; ráng lập công chuộc quả xưa gọi Niết-Bàn, trường khảo xét, còn ai không vẹn công đức cử mãi lòng mài miệt trần ai đó vậy. Cõi trần là lao lung nhốt hồn, rỗi mãi trong máy luân hồi đó là oan nghiệt vấn vương khổ hải nên gọi: Thiên-đàng, Địa-ngục cũng tại trần ai đó chung em hỡi.

2. là về Đầu-Sư cung Quỳnh: thuộc Công-trình. Công-trình Trọn thấu Huyền-vi; là phận Đầu-Sư làm đầu nhơn-sanh, dẫn dắt nhơn-sanh đi về đàng Đạo-đức, thì phải lo học lý Trời ban cho thông cảm rồi giáo dục lại đàng sau cho em dại, gọi luyện trí cảm giác huyền cơ vi thiện, chấm điểm công hiền, cho em hậu tấn, làm gương ứng chực mạng vận Trời ban cho tròn sứ vụ.

3. là Đầu-Sư cung Diêu: thuộc về Công-phu, là đứng trước làm gương, lập công chuộc tội trí vị chuyển phu, sát thể nhục, ý huỳnh, định tâm thanh phận, tín ngưỡng Trọn-chí Kỉnh-thành, tiền gương thiện mỹ, hướng Đạo thiện từ, chơn thần tinh quang, thiền tâm lễ trọng, phắt phút bất ly kỳ lễ, vi nghĩa dìu nhơn đó.

4. là Đầu-Sư cung Liên: thuộc về Chiêu-đãi, thì Trọn tâm thanh Lễ-độ, là vén hết các màn vô minh tăm tối, là bản ngã chia rẽ thấp cao, xô xát từ lâu, định lại hòa thương về Đạo, mến yêu về lý. Chiêu là mong chung ai đồng qui về nguồn thiện. Đãi là đem Đạo-đức giác đát khuyên trao. Lễ hạ thân phàm, dẫn người tu niệm. Độ cẩn thận nghiêm từ, tôn minh hòa lý. Vậy cho vẹn phận sự thay Trời dìu Linh tế thế đó.

5. là Đầu-Sư cung Quế: Tịnh-Đàn Trọn-minh Trật-tự. Về Đầu-Sư thuộc cung Quế, phải giúp Trời tịnh an Đàn-nội, trong ngoài gìn giữ tâm minh, phải giáo dục đoàn em định gìn trật tư, là đừng thiêng loạn nơi tâm mà lả lơi phóng túng, rồi mất Đạo xa đức, muôn việc chi cần gìn giữ trật tự tại tâm nghiêm tịnh đó. Vậy mới đến Minh-đức pháp lưu gương trường hướng Đạo đó.

II. Đây về Viện-Trưởng:

1. là Hóa-Lý Cung-Thiềm: phận sự Giao-tiếp Trọn-hòa Thượng-hạ, nhìn nhau như một, thân mến Đạo đồng, lòng đừng rẽ chia nhĩ ngã, giao hảo đức nhơn, tiếp rước hiền-sĩ, trọn tâm công thạnh, hòa nhẫn xá thân, Thượng bình Hạ cố.

2. là Hóa-Nhơn Thanh-Lý: Kỷ-cương Trọn thông Đạo-đức, phận làm đầu Đại-quang Viện-giáo thì an lòng giáo dục đoàn em, gương thiện dìu nhơn, Hạnh Khiêm tế thế. Kỷ-cương giềng mối quang huy trật tự, rõ rạng phân minh, kiền-thiền thọ mạng, trọn lòng hòa nhượng, thông hiểu diệu mầu, Đạo đồng an sự, Đức thạnh minh tâm, xá thân phàm, cần vinh Đạo, Bác-ái đãi chiêu, Từ-bi cứu thế.

3. là Hóa-Trược Hồi-Thanh: Thần Chơn Trọn-vô Ngã-vị, trọn lòng bền bỉ, vẹn chí thay quyền Thiêng-Liêng, đồng giác thế, thiền ròng tâm vi thiện, Chơn-lý giác thân, trọn tâm công đức, vô không ưu lự, tục phàm ngã vị xá phận ta, xem người là trước.

4. là Hóa-Hối Cập-Tân: Pháp-chánh Trọn-đắc Kiền-thiền, pháp luật lý gọi Cao Kiên, chánh tâm diệt tà trí, trọn chí thắng mỵ quyền, đắc công thành Đức-nghiệp. Kiền tánh chẳng phóng dung, Thiền tâm thông huệ lý, hướng gương hậu kiến đó.

5. là Hóa-Dục Liên-Thông: Lý-nghĩa Trọn-trượng Củ-qui, phận sự diệu hành, Lý Trời thông truyền khắp độ; nghĩa Đạo dồi dào; Trọn tâm tuân Mạng-lịnh; Trượng Đức rạng công tâm. Củ căn thông vận mạng, Qui trí thấu nguyên do; rèn lòng an thọ thọ, chị trước dẫn em sau, chung nhau nhìn Đạo-đức; thọ thân tường thậm cực, cơ hồi đức đắc đồng thân, thọ kỳ Thiên Sắc lịnh đó.

Vậy chung mỗi em hành y diệu lý lần lược Chị trao lời đó chung phận sự.

Chào Nam-Công Hỏa-Đức Thiên-Chơn, bài nầy đọc sau giờ Đạo-Tràng đặng chung lớp học Nữ-Oa Cao-Cấp nghe chung. Đọc rồi giao lại Chưởng-Quản in ra đặng nêu vào Thánh-Luật. Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Đạo-Cân Linh-Hồn gọi Thiên-Sắc Đạo-Cân

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 9 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ sáng)

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC ngà châu báu của Thầy trao
HOÀNG Lịnh ban phê trẻ một màu
ĐẠI chấm điểm công con thảo thuận
ĐẾ quyền Trời Chủ rạng ngôi cao.

THU, con trẻ định-tâm nghe Thầy giảng giải Đạo-Cân Linh-Hồn gọi Thiên-Sắc Đạo-Cân đây đặng chung con rõ lý.

Đạo-Cân màu đỏ 12 lớp, lý gọi là: lý Thập-nhị hoàng trí vận chuyển gọi châu thanh, Thiên hiển cực tiêu, đây là lý diệu huyền bí khải tiêu. Màu đỏ rạng Tâm-điền, Huệ-điển gọi Ngọc-Cân, nhứt tin cơ vận lý thừa hành tâm tận tối thanh, Đạo cao Chơn-pháp mối manh, lý trọn chí nhứt thành Bỉnh luật. 12 chữ Nho: PHỤNG THỪA NGỌC SẮC BỈNH HÀNH ĐẠI LỊNH DIỆU LÝ KHẢI THÔNG.

Đây là Thiên-Chơn lâm hạ, thọ thế kỳ thân; Phụng mạng Trời dĩ-đức Tân-dân, Thừa Ngọc-Sắc ân cần giáo nhơn, cầm nắm mối thọ thân liên tiếp, thấu Thiêng-Liêng huợt bác lịnh huy, cầm cân thưởng phạt nhiệm kỳ, thay đời tục lụy trí-tri thanh tường. Khải-thông đường nghĩa phương thuần mỹ; Hội Bình-Linh kinh dĩ Trung-Thiên; Đây là Thượng-Hội Bổn-nguyên, Lý khai Thể đức huờn nguyên Thượng kỳ. Diệu-Lý vẹn huyền cơ quang bí, Khải-Thông chơn nhơn ý tế linh. Thay quyền Thiên-lý Công-bình, xá ân người thiện oai bình người ngoa.

Vô-vi Đạo-Cân là: Đỏ, Vàng, Xanh báu Thái-Cực-Đồ, Qui-nguyên Tam-giáo Hoàng-đồ lý tam. Đen, Trắng, Tím là Vô-Vi bí khuyết. Ngôi Vô-Vi lý không hữu dụng, gọi Cao Kiên Càn thuận tâm nguơn. Vô-Vi vẹn chí cao sơn, không không có có đừng sờn nguyên do. Không hữu lý không lò Tạo-Hóa, thưởng phạt răn thiệt giả chẳng sai. Thưởng ban ban thưởng minh tài, là Vô-Vi thậm trả vay không lầm. Nhứt vô khí là vô thỉ dã. Nhứt cực quang cảnh tả thinh phù. Điểm quang độc nhứt chủ thâu, là ngôi Thái-Cực làu làu chuyển tam. Vô-Vi lý mầu thâm nhị khí, gọi Âm Dương quyền trị Huỳnh-hoàng. Vô không Vi có rỡ ràng, Âm bình Dương khí Càn cang hiệp thành. Cơ sanh hóa hóa sanh nhị tướng, chỗ định xem cảnh tượng nhứt tri. Một tròn, ba vẹn đồng qui; Tả chơn Hữu chánh thậm kỳ lưỡng nghi. Gọi rằng Thượng-Hội thậm kỳ, duy trì diệu pháp thần trì minh tâm. Vẹn trung Huệ-Luật tâm không, không tâm thấu lý Huyền-Công tượng thần. Trung-dung, Cảm-ứng, Công-thần; túc quang Từ niệm Bi quân Linh tồn. Huyền-quang chiếu rọi cảnh Khôn, giáo truyền thế hạ Giái môn Tam tường. Gọi là Tam-giáo nhứt phương, Tam-huê ứng vận nghiêm tôn nhơn bình. Huyền-linh an lý điểm khinh, Linh-quang thọ lý Tin tinh tượng thành. Chơn-Quân thọ sắc tâm thanh, đem thân chuộc tội thọ Cân cứu nàn. Lý, Thể, Dụng điển quang, đứng ra thọ sắc rỡ ràng Nam-Công. Vẹn tồn Nhứt tử Cửu không, Sơ Nguơn hoằng lý Tam không Giáo hành.

THI

Giáo-lý cứu nguy hỡi trẻ phàm
Hành tàng hư thiệt thọ Huyền-quang
Bỉnh-Linh phân đoán thông cơ điển
Luật pháp Trời trao thưởng trị toàn.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Cao-Cấp Diệu-Lý Tinh-Thần nơi Diệu-Linh-Đền Vô-Vi Cảnh hiện giờ đây đặng trong đó nghe chung. Đọc rồi giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Thánh-Lý khải Thánh-Quyền, huờn qui Thánh-Cuộc, rõ thấu Thánh-Tâm, tường tri Thánh-Giáo, rạng rỡ Thánh-Tòa, lý gọi Tòa-Thánh

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 9 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ tối)

---------o0o---------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC-sắc ghi danh trẻ trọn niềm
HOÀNG-đồ Thầy dạy lý tôn nghiêm
ĐẠI công Trời thưởng ròng chơn phước
ĐẾ Chủ Càn Khôn thấu cổ kim.

NGỌC, con nghe Thầy ban dạy về Thánh-Lý khải Thánh-Quyền, huờn qui Thánh-Cuộc, rõ thấu Thánh-Tâm, tường tri Thánh-Giáo, rạng rỡ Thánh-Tòa, lý gọi Tòa-Thánh. Đủ Tam-Đài vẹn công Chơn-quảng Tín-ngưỡng gọi ngôi thờ là Bát-Quái-Đài, lý gồm thâu bốn phương tám hướng, vận chuyển Ngũ-Hành, Thời Thần Nguơn đáo, Nguyệt-Tướng trí quang, Tứ-Phối cơ cập diệu hành võ-trụ; Cơ-vận thể hành huờn ư khải trí; Lý Thể đồng qui, tồn, vong, siêu, đọa, gồm lý hữu vi. Châu-Thiên-Đài vận hóa ứng chuyển lý mầu, Thông-Thiên pháp hiệp; Cửu-Lý Trùng-quang, gọi Cửu-Trùng Công-đức, diệu kỷ trọng phương. Về Châu-Thiên là Hoàng, Mỹ, Cửu, Tiêu. Cửu-Trùng-Đài thể dụng gồm lý thọ Luật-pháp thông. Hiệp-Thiên-Đài ứng vận huệ kiến, kiền-thiền chung thành Tòa-quảng, Thánh-quang.

Châu-Thiên-Đài cao 36 thước, thống ngự vạn vật, quần linh thọ Thể, Lý linh quang, lớn vuông 24 thước, thành cơ Nhị-thập tri cang tứ kiệt. Phòng Nguơn-Thần 15 thước dài, Cửu-khí nguơn do, thần kỉnh thông Nguơn. Hồ Nguyệt-Trảng 18 thước là Thập-bát tý đầm huy hoàng Huệ-luật. Nhị-thập-tứ tinh duy, Thập-ngũ linh huờn, Nguơn-thần ứng vận, Thập-bát hoàn trung, pháp môn Huệ-luật, gồm chung Ngũ-thập-ngũ qui tường, Tam-ngũ quảng, kiêm tề Võ-trụ.

Cửu-Trùng-Đài 81 thước, cơ Tám-mốt bầy chim rõ Tổ, thoát bẫy vòng Trời độ về ngôi. Trong số Cửu Cửu huờn thạnh đức, Lý thông dương thừa trực Cửu-Tiêu. Lớn 15 thước đó là Tứ-ngũ chung điều, hình thành bạch tượng khúc khiu lý mầu. Cao 9 thước thanh thao Cửu-chuyển, gọi Thần Tiên u hiển cân phân. Lý thanh thanh lý ân cần, tỏ tường Chín-phẩm giao tương bạch trùng. Lý Ngọc-Kinh vô cùng sáng suốt, do Hiệp-Thiên-Đài đuốc Huệ-thần. Cao 18 thước thanh quân, Tam-Hồn thống hiệp tiêu tồn qui Linh. Gọi cân tội phước Quần-linh, Tam-Quân chuẩn tế Bổn-Linh Bỉnh-hành. Lớn 8 thước 1 tấc là: Bát-quang Thiên-bửu tinh thần; Nhứt tri điểm ốc dò lần Huyền-cơ. Đây là vọi vọi Thiên-thơ, Cửu-Trùng ứng chuyển Thiên-thơ châu tường. Hiệp-Thiên Vô thậm Vi tường; đây là huợt bác nghĩa-phương Thiên-kỳ. Châu-Thiên vận chuyển quang huy; Ngọc-Kinh Thiên-lý tồn linh vận hành. Đông-môn 12 thước thanh; Tây-môn y mẫu tượng thành Lưỡng-nghi. Bề cao 12 thước duy duy; Tam-Tôn lâm ngự trọn tri thức thường. Nam-Môn chánh Ngọ tỏ tường; khêu đèn Nhứt-Cực chỉnh phương Nam-tề. Bắc tiêu điểm cực huờn nê; chốt then Nhị-Chưởng dĩ hề Thần-ngôi. Tỏa đây cảnh vật rạng ngời; về phần lý nhiệm nghĩa xuôi nối lần. Tam-thập-lục lý tinh thần; thỉ-chung Thầy dạy ân cần NGỌC con.

THI

NGỌC con trọn niệm chữ chơn thành
Thánh-Cuộc Trung-Ương lý diệu thanh
Tòa chiếu ký quang thông Thánh-Đức
Huy hoàng Thiên-Quốc khải nguồn lành.

MƯU, bài nầy con đọc sau giờ Đạo-Tràng Cao-Cấp Diệu-Lý Tinh-Thần nơi Diệu-Linh-Đền Vô-Vi Cảnh chung trẻ nghe chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra nêu vào Thánh-Luật.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Giải nghĩa lý Đạo-thể y phục Chơn-Quân

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 19 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (7 giờ sáng)

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC thanh ánh vọi rạng màu xinh
HOÀNG Lịnh điểm phê gọi tiếng tin
ĐẠI-Đức rõ thông tường Đại-mạng
ĐẾ quyền thông dụng trẻ lòng in.

THU, con định-tâm nghe Thầy giảng giải nghĩa lý Đạo-thể y phục Chơn-Quân đây con trẻ, đặng rõ biết Lý Thể hiện hành chơn tướng của Trời sắp định mẫu khuôn vị giác đây chung mỗi con.

1. Là Chơn-y Đại-phục, gọi áo rộng tay 7 tấc: đó gọi gồm Chơn-Như bảy sáng. Trên bâu đóng một nút 1 phân màu đỏ, lý gọi: khí tụ nhứt tiêu, tâm ngưỡng. Áo Khai-dương gọi: Dương khai Khôn rạng chiết Khảm trung Huỳnh rõ thông Đạo-thể. 12 nút lục giác 3 phân, lý gọi: Chủ Tam-Hồn Thiêng-Liêng thông giảng, trí vị Thập-nhị hoằng cơ, thông hiểu Bí-Huyền khai Huỳnh Hoàng ứng. Nút lục giác màu đỏ: quảng kiến Lục-long Cơ-vận, tâm thấu du hành Thiên-lý, tận chốn Lục-hào cứu Linh về tận Nhứt-Tiêu Thiên-Cực. Áo dài phủ gối 3 tấc tường ký, gọi Đạo Trời Cứu-Thế ân xá muôn Linh phước lành, lý sáng vi diệu che vạn vật sống chung là Đạo. Người trọn Đạo phải phận con Trời thế Thiên, truyền thiện vẹn lòng Bác-ái thương lẫn đồng nhau, vẹn Đức tánh thông, kiên nhứt Luật, bền cầm giái răn, tránh điều sát sanh, an lòng thượng đạt. Thể, Lý gọi: phước thanh Thiên-tứ, dư thọ cảm xuân, phủ phục cố ái vật ninh vạn vật hưởng ân Thiên huệ đó, gọi phước đức Trời ban, nhơn hưởng tế vật. Áo mở tay 1 tấc mỗi bên. Tay trái 1 nút màu xanh, hình Tứ-tượng, bên mặt 1 nút màu vàng hình Tứ-tượng gọi là: về Tam-Hồn Khí Nguơn thâu giảng; Thiếu, Thái nguyên do, Khải-Thông Diệu-Lý, cứu vớt Bốn-phương, huệ khai khuôn mẫu; vàng, xanh; tả, hữu gọi chơn chánh tường tri, tường quang ngũ-sắc, diệu hành ký túc tâm ứng đó. Nút 4 phân là Tứ-đức tay cầm bố ban vạn loại. Cổ áo, tay áo viền 1 lằn 2 phân màu đỏ trước hết gọi ngoài; 11 lằn 1 phân kế đó, là khôi mịch tôn nghiêm, Linh-Hồn gồm Nhị-Lý là: Thần-Hồn, Anh-Hồn, Chủ-Tam-Hồn: Linh-Hồn ứng cảm lý Huyền-Hoàng, dụng bí quang linh thức gọi trong 3 phân viền chia ra 1 lằn 2 phân, gọi 1 lằn số một Linh-Hồn thọ chủ, 2 phân gọi hai khí Thần, Anh huờn tụ. Kết 11 lằn 1 phân là: Cửu-chuyển Bỉ-thương, Tứ-qui Huyền-bí; số 12 Tam-tường Thiên-vận, trạm tịch Khôn Càn, do Linh-Hồn chuẩn tế, thông Tam-giái, huợt bác Ngũ-Hành, kiến thức Ngũ-Quang là đó. Trong số tuyệt đối là: 12 khuy khuyết lý sáng Trời ban gọi Linh-Hồn vi chủ. Trôn áo viền màu đen 3 phân. Mở đinh áo 3 tấc, viền đen, đụng lên đến nách, đó là: hình Chơn-y thể, võ trụ, hậu, tiền, khai khí gọi trước, Tả cơ kiến Đạo vị chánh. Tay áo có nút xanh gọi bên trái, Hữu lý kiên giác vị chơn, thạnh nhựt tăng qui gọi bên mặt, hậu viền đen kỳ hậu thủy tánh, trải Đạo-y phủ che vạn lý, Trường-cửu Đồ-hoàng, gọi Đạo thông kim cổ, cứu khổ phải dụng Đức Nhơn, truyền ban dùng Lý Thiệt. Đạo, Đức, Nhơn, Lý, Thiệt, chung qui hằng cầm thì mỗi con vẹn phận đó.

THI

Khôi-phục Cân, Y Đạo Tướng Chơn
Gọi là Chánh-pháp Lý cao-sơn
Buộc ràng thân thể thông Nhơn-đạo
Tướng, Dụng, Thể, Thân thấu Bổn-nguơn.

MƯU, bài nầy con đọc trước giờ Đạo-Tràng Cao-Huấn ngày 19 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 , hiện giờ đây đặng trong đó nghe chung mỗi trẻ, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra.

Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung.

(Thăng.

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

Về hình thức của Tam-thập-lục Thánh

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 20 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 - 7 giờ trưa)

---------o0o---------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC Lịnh khải-thông lý diệu-hành
HOÀNG-đồ tế thế Đạo Cao danh
ĐẠI-đồng qui hướng Thiên-Đài hiệu
ĐẾ Thống-nhứt khuôn mẫu hiệp thành.

NGỌC, con định-tâm nghe Thầy ban ơn dạy chỉ, đặng chung nhau dò lý rạng rỡ y hành, cho rõ ràng phận sự.

Về hình thức của Tam-thập-lục Thánh, là Lý Thể Đương-kỳ, phận sự vẹn mầu cơ quang vận chuyển đây con trẻ. Phận sự tuân y thừa hành: cơ quang thống đạt khuôn mẫu quang minh đó con. Thánh-Cuộc là: Thanh-từ, gọi gồm thông vạn lý, cứu vớt Quần-linh đem về chỗ một, giáo dục tu thân gọi là Trung-Ương cơ lý là Đạo, Lý, Thể thanh đó con.

Vậy chung nhau trong lớp học Cao-Huấn là mỗi con đồng có phận sự, hay là Đại-Thiên-Phong, giờ đây an lòng định nguyện, đặng Thầy tỏ ra cho thông rõ lý tu hành, cùng lo cho tròn bổn phận đó trẻ thơ. Cơ-quang Trời đâu sái nhịp, lòng con trẻ vẹn mới đáo Hội-Nguơn. Nếu mỗi con còn trủng trệ Thầy e cho tâm tánh rã rời rồi đọng lại, uổng thay phận mầu không vẹn lý. Trong số Tam-thập-lục Thánh Thanh, Tam-Hoàng vận chuyển, chỉnh đốn Tam-Huê, Thượng qui Huyền-bí. Trong Tòa-Thánh có Tam-Đài, Tam-Cơ hoán hậu, tồn Thiên là Hiệp-Thiên phán, định Cửu-Trùng. Trong Cửu-Trùng-Đài kỳ Âm, trí vị trắc ư, khai hoàng thành lập ba ngôi Chưởng-Quyền thức thể. Mỗi ngôi sắm một giá đèn bề ngang 90 phân, bề dài 12 tấc, tam giác y khuôn, trên chót ráp trọn làm 9 cấp, trong đó 36 ngọn đèn, ba Nghi gọi 108 ngọn đèn, đó là: cơ-quang tuần chuyển, hoán hậu Âm qui hồi Dương-khí, là Châu-Thiên, lý gọi Bá-tánh đồng qui, tường tri Bát-Bửu đó. Tam-Lý là: ba ngôi vị Chưởng-Quyền gọi Tam-Kỳ Cửu-Chuyển, Thông Thiên thể hành. Trong Cửu-Trùng-Đài 81 thước; phân ba Ngôi-vị, lý huờn Tam-cửu, Tam-tam, Tam-thập-lục; Cửu-cơ, Cửu-lý, Cửu-chuyển, hòa Bát-thập-nhứt qui tường Tiêu Bí-Khuyết đó. Ba Ngôi vị nầy đủ ba Kiểng Dương, gọi Thức-Tâm Hành-Thiệt, diệt trừ Tam-muội, Thông-minh Tín-đức đó chung mỗi trẻ.

THI

Bát-Quái-Đài qui vận Ngũ-Hành
Hiệp-Thiên, Thông, tiếp diệu mầu thanh
Châu-Thiên gồm Khí hoàng Linh điểm
Hoán chuyển Cửu-Trùng đáo Tiêu danh.

MƯU, bài nầy con đọc sau giờ Đạo-Tràng Cao-Huấn, đặng trong đó học chung, rồi giao lại Chưởng-Quản in ra. Thiên-Sư lưu hành các Thánh-Thất, các khóm Đạo-Tràng, Đạo học chung. Bài nầy nêu vào Thánh-Luật.

(Thăng)

NGỌC-CHƠN-QUÂN

******************

HÌNH KHUÔN GIÁ ĐÈN

BỬU-LÝ THỂ-KỲ

VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
Ngày 24 tháng 5 Mậu-Tuất 1958 (10 giờ tối)

-------o0o-------

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ Giáng-Đàn.

THI

NGỌC lành châu báu đến kỳ trao
HOÀNG Lịnh phê ban trẻ vãng thâu
ĐẠI-Đạo Qui-nguyên Tam-giáo hội
ĐẾ hoằng Chơn-Bửu ứng ba màu.

THÀNH, con định tâm nghe Thầy dạy:

Cơ Đạo đến đây ba kỳ vận chuyển, Thống-nhứt hoàn trung, do cơ Trời tuần chuyển, hoán hậu trược đáo thanh Thiên, cơ huờn Sơ hội, nghĩa Qui-nguyên Giáo-lý hiện hành, chung mỗi con thừa vưng Thiên-lịnh, sẵn dạ phục Triều, Đạo Trời hoằng khai rạng rỡ. Hiện nay phận THÀNH con, Thầy định mở khai khuôn mẫu thể dụng nguyên do Đạo-lý, giờ con thành tâm khẩn nguyện, xin Thầy ban phê Giáo chỉ “BỬU-LÝ THỂ-KỲ”. Con định tâm nghe Thầy ban dạy:

Cơ Đạo hoằng khai Tam-Kỳ Cửu chuyển, Thống-nhứt Qui-nguyên Lý Thể Dụng, mầu vi cơ-quang do Thầy dẫn dắt về Nhứt-Kỳ Hậu-Thiên Nhơn-hội, Thiên khai gọi giáng phàm Phổ-độ, Thầy dạy Tam-bửu Phổ-di, Khí Tinh Thần là dụng vật, Giáo thể Pháp luân là từ Bính-Dần đến Đinh-Sửu là mãn khí vận Nhứt-Kỳ Hậu-Thiên cơ pháp; gọi mỗi con thọ thể giáo pháp thân qui; từ Mậu-Dần đến Kỷ-Sửu Tinh Khí Thần xây, Trung-Thiên cơ Đạo hành chơn, phận mỗi con thọ Đạo chơn giác, máy Trời phán đoán, Chơn-Lý thâu hành cơ-quang vừa vẹn. Từ Kỷ-Sửu đến Ất-Mùi, sáu năm bình phân đoán quảng, gạn lựa nguyên do; cho nên Thầy dạy mỗi con dụng Tinh-di trau Bổn-khí Hoàng-tánh chỉnh đốn Căn-linh, hoằng thanh khí ứng Thần quang, là loài người thân thể đồng vượng về chơn từ, chánh tánh, bi tâm; đến đây Cửu-chuyển đáo kỳ bình phân thức kiệt, thống nhứt du hành Đạo Pháp; mãn kỳ Tiên-Thiên Huyền khai Diệu-Lý thông lưu, Tam qui Nguơn-bửu, Tam-huê ứng vận gọi Cửu-chuyển vẹn, đắc Tam-thông gọi Qui-nguyên hằng hiện, lý Tam-hồn qui nhứt, cơ trí Tam-Tông, đồng qui Tam-Bửu, Tam-Quang tối trọng; Thần thạnh, Khí thông, Tinh thuần, Thiên-Hoàng Dương chấn, Thiên-lý lập trần, Xuân Thu vị Đạo gọi Thần Khí Tinh huờn đáo Tiên-Thiên là vậy. Đó gọi Thượng-Nguơn Sơ Thỉ đây con.

Bửu-Kỳ là Thể Lý Dụng chơn thanh, pháp huệ thống qui giáo Đạo, hiện nay cơ Trời chủ định Trung-Ương Đại-Đạo, Duy-Nhứt Thánh-Tòa là: giữa trung tim Địa-cầu thanh khí, Thiên-lịnh nêu hiệu “TÒA-THÁNH CAO-ĐÀI VIỆT-NAM” nơi Trung-Ương Châu-Thiệm cõi Việt-Quốc, xứ Định-Tường lý gọi chiết Khảm, Huỳnh vật Diệu-lý nhặt nhiệm bồi bổ tâm trung đủ đầy Đạo-đức gọi Đông ly Xuân rạng sáng, Tam-thông tỏ Càn, Ly liền Cảm-ứng, tâm sáng Hồng-quơn, Huỳnh thanh Hoàng ký, Huyền-vi khôi mịch, Ngũ sắc tường thanh, che dìu tế phổ vạn loại là: lý đương nhiên đó trẻ.

Vậy THÀNH con định tâm tuân y nghe Thầy dạy chỉ, “BỬU-THỂ ĐẠO-KỲ” trước là trên Tiền khai Thần Bửu là màu đỏ, giữa Trung qui yên khí trạm tịch hòa Thiên-lương thanh khí là màu vàng, sau Hậu huờn Nguơn-tinh Thần phù, khôi mịch Hư-vô Thái-Cực ứng màu xanh, Huyền-quang cảm giác; cán màu trắng là phục nhứt, hành Kim khinh Thỉ; không nên di tục hoặc đề chữ vào Bửu-Thể Đạo-Kỳ là phạm luật đó mỗi con.

Về thước tấc nơi Tòa-Thánh: Đại-Bửu Thể-Kỳ bề ngang 15 tấc, bề dài 30 tấc.

Nơi Thánh-Thất: bề ngang 12 tấc, bề dài 24 tấc gọi Đại-Bửu Thể-Kỳ.

Thanh-Thể Thường-Kỳ là: 9 tấc, 18 tấc.

Đạo-Thể Thường-Kỳ là: 72 phân, 12 tấc.

Đây là vẹn, mỗi con chẳng nên dặm xen mà đắc tội, phạm luật di dịch đó trẻ.

Kiểu mẫu như đây, hình chữ nhựt không nên tạo xéo hay mẫu khác.